Thursday, September 16, 2010

http://ca1.upanh.com/9.646.13836472.KUX0/kemnoel1.gif

Thursday, April 29, 2010

Tuesday, April 27, 2010

Ngày 24/8/1998, một đám tang vô cùng đặc biệt được tổ chức tại huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc). Người chết là một cô gái mới 16 tuổi trên là Thẩm Xuân Linh.
Nhưng cô được nhận những nghi lễ long trọng nhất của làng, những người anh trai của cô mặc tấm áo tang chỉ được mặc khi đưa tang cha đẻ. Anh trai cô quỳ rất lâu trước linh cữu em gái, người trong làng ai cũng đeo băng tang.

Nhưng không ai biết rằng, cô gái mười sáu tuổi này thực ra không hề có máu mủ ruột thịt gì với những người còn sống, cũng như với dân làng này, thậm chí cô chỉ là một đứa con gái riêng của mẹ kế mà ngay cả tên trong sổ hộ khẩu của làng cũng không có.

Tôi là con ruột của gia đình này

Tháng 6 năm 1994, mẹ của Thái Xuân Linh góa chồng, đem Xuân Linh và đứa em trai từ Long Châu Tập, huyện Phạm Trạch, tỉnh Sơn Đông (TQ) sang huyện Gia Tường với gia đình mới. Bố dượng của Xuân Linh làm nghề thợ mộc, tên là Thẩm Thụ Bình, tính tình hiền lành đôn hậu.

Bố dượng có cha mẹ già 70 tuổi, và bốn đứa con trai còn đang đi học. Trong đó anh con cả Thẩm Kiến Quốc đang học Đại học Giao thông ở Tây An. Ba cậu con trai còn lại học trường phổ thông trong huyện.

Gánh nặng gia đình quá lớn, nhưng bố dượng cô giỏi nghề thợ mộc, trong nhà cũng chỉ chi tiêu dè sẻn, nên cuộc sống gia đình cũng tạm đủ.

Khi ba mẹ con Thái Xuân Linh gia nhập đại gia đình ấy, cả nhà đều vui vẻ chào đón, hay có thể bởi nhà toàn đàn ông, giờ có một cô em gái mới, cả ông bà nội lẫn bố dượng đều rất yêu quý Xuân Linh.

Khi đó, Linh chỉ vì bố mất, nhà nghèo khó, cô đành bỏ học ở nhà. Bố dượng dứt khoát đưa tiền cho cô đi học trở lại. Trong nhà vốn đã bốn đứa con đi học, giờ thêm Xuân Linh, gánh nặng càng lớn. Ông bố dượng chỉ có cách dành thời gian làm thêm lúc nông nhàn mới đủ cho chi tiêu trong gia đình.

Xuân Linh vô cùng trân trọng cơ hội được đi học, ngay học kỳ đầu tiên quay lại trường, cô đứng thứ ba trong khối. Ngoài học tập, cô lo liệu việc nhà, lúc nào rảnh rỗi thì giặt quần áo cho các anh, vác gỗ cho bố dượng, ông bố dượng thường khen ngợi:

- Bố thật là có phúc mới có đứa con gái ngoan ngoãn thế này.

Thời gian hạnh phúc chẳng bao lâu, đầu mùa hạ năm 1995, bố dượng cô trong lúc làm công trình đã ngã từ tầng ba xuống, bị liệt giường. Cột trụ trong gia đình đã gẫy, nguồn kinh tế chính của gia đình bị cắt đứt, và tiền chữa bệnh của bố dượng cô đã mang lại một khoản nợ rất lớn cho gia đình.

Thật đáng tiếc, khi mẹ Xuân Linh được bác sĩ cho biết, bệnh của chồng mới sẽ không bao giờ khỏi, cả đời nằm liệt giường, mẹ cô đã rất đau khổ. Bà không thể chịu đựng nổi sự rủi ro liên tiếp từ hai đời chồng, lại biết không gánh vác được một gánh nặng quá lớn từ gia đình chồng, mất hết hy vọng và niềm tin vào cuộc sống.

Bà ôm đứa con trai nhỏ ra đi, bỏ lại một nhà đầy người già, bệnh tật, trẻ con cho dù Xuân Linh năn nỉ, cầu xin mẹ như thế nào.

Thấy bố như thế, người con trai thứ hai định xin nhập ngũ, ông bố không đồng ý bởi anh thứ hai và thứ ba sắp cùng thi tốt nghiệp phổ thông, thành tích luôn đứng đầu trường.

Người con thứ ba cũng đòi bỏ học, muốn đi làm để gánh vác gia đình.

Vào lúc cả nhà bàn cãi, Xuân Linh đề nghị cho em nghỉ học, thay mẹ chèo chống gia đình này. Bố dượng cô rơi nước mắt, ngay cả ông bà nội cũng khóc. Bố dượng cô đau khổ nói:

- Xuân Linh, bố xin lỗi con! Các anh con đã học chừng đó năm rồi, giờ bỏ đi uổng phí quá, bố biết là làm thế con sẽ thiệt thòi

Ba người anh trai đều nắm chặt tay em gái, cùng thề với bố, cho dù sau này ai thi đỗ đại học, cũng đều nhớ công người em gái.

Mẹ Xuân Linh bỏ đi, nguồn kinh tế của gia đình lại mất hẳn chút hỗ trợ cuối cùng. Ông bà nội đều thở dài, bố dượng gạt nước mắt, các anh trai Xuân Linh cũng lo âu, cả nhà rơi vào tình trạng thấp thỏm bất an, buồn thảm. Những người làng an ủi cô bé:

- Ở đây cháu không có người thân, hay là cháu quay về nhà ông bà ở bên Phạm Trạch đi!

- Không, cháu không đi được, mẹ cháu bỏ đi rồi cháu không thể cũng bỏ đi nốt!

Xuân Linh nói với bố dượng:

- Bố ạ, mẹ con bỏ đi rồi, là mẹ con nhẫn tâm; nhưng con hứa con không bao giờ bỏ nhà đi, con sẽ ở lại đây cùng vượt qua hoạn nạn với mọi người, từ hôm nay con xin được là con đẻ của bố!

Năm đó, Xuân Linh mới 12 tuổi, đổi từ họ Thái sang họ Thẩm.

Làm đồng, việc nhà, chăm sóc người lớn, tất cả mọi việc Xuân Linh đều gánh vác, cô bé làm việc như một phụ nữ thực thụ trong một gia đình nông dân, thức dậy lúc mặt trời mọc, trời tối hẳn mới nghỉ ngơi, cẩn trọng tính toán từng món một trong gia đình để lo liệu qua ngày.

Xuân Linh biết, để gia cảnh đỡ khó, thì sức khỏe của bố phải tốt lên, cho nên vào những lúc nông nhàn, cô bé không quên chăm sóc chu đáo cho bố. Mùa hè năm 1996, thời tiết nóng bức, bệnh tình bố dượng cô nặng lên, Xuân Linh quyết định đưa bố lên nằm viện trên thành phố Tề Ninh.

Thu xếp xong việc nhà, cô kéo bố lên thành phố chữa bệnh. Đường đất 80 km, cô kéo xe hết đúng hai ngày một đêm. Khi đến nơi, chân cô đã lở ra, vai kéo sưng u lên một cục lớn.

Để tiết kiệm tiền, Xuân Linh đã ngủ trong nhà để xe đạp của bệnh viện, người trông xe tưởng cô là ăn mày, đã mấy lần xua cô ra ngoài. Xuân Linh đành kể hết sự tình, ông già trông xe cảm động quá, không chỉ cho cô mang chiếc xe kéo đặt vào tận bên trong nhà xe, còn kiếm cho cô một cái màn chống muỗi.

Dưới sự chăm sóc của con gái nhỏ, bệnh của bố dượng cô dần ổn định hơn, cô lại kéo bố về quê trên chiếc xe ấy.

Vừa về đến quê, là vào vụ thu hoạch lúa mạch, các anh đều đang ở trường, ông bà nội chỉ có thể giúp cô nấu cơm và bó những túm lúa, thế là hơn bảy mẫu đất lúa mạch đang chín, lại một mình Xuân Linh cắt. Để kịp thu hoạch, suốt mấy ngày liên tục cô bé ngủ lại ngoài ruộng lúa, mệt tới mức không chống đỡ nổi nữa thì nằm ngủ luôn trên lúa mạch, ngủ dậy lại cắt tiếp.

Vì quá lo lắng, lại vì lao lực, miệng Xuân Linh nở những mụn nước nhỏ, tay chân xước máu. Thật sự cô bé đã kiệt sức, còn lại hai mẫu lúa mạch nữa.

Đều là lương thực gia đình trông vào đó!

Cô bé bất lực đứng giữa ruộng lúa mạch khóc nức nở không thành tiếng, khóc tới mức hàng xóm chung quanh thấy thương hại quá, bèn tới năm tay mười tay giúp cô gặt nốt mảnh ruộng.

Đợt thu hoạch khó nhọc đó đổi lại được lương thực đủ ăn cho cả gia đình.

Anh thứ hai đã đỗ kết quả rất cao trong kỳ thi tốt nghiệp trung học, nhờ kết quả đó, anh được tuyển vào trường đại học Đồng Tề ở tận Thượng Hải.

Cầm giấy báo nhập học của anh thứ hai, Xuân Linh chạy như bay về nhà quên hết mệt nhọc, nhảy lên vui sướng. Nhìn đứa em gái vừa bé vừa đen, người anh thứ ba là Thẩm Kiến Văn rớt nước mắt tủi thân vì thi trượt đại học.

Thẩm Kiến Văn buồn rầu nói:

- Anh xin lỗi, em đã vất vả vì cả gia đình, mà anh lại thi trượt!

Vừa nói anh ba vừa khóc. Xuân Linh hốt hoảng nắm lấy tay anh:

- Năm nay thi trượt thì năm sau thi tiếp, anh đừng nản chí như thế!

Thẩm Kiến Văn quyết định không thi đại học nữa, ở nhà kiếm sống giúp em gái. Xuân Linh không đồng tình:

- Em chịu vất vả cũng chỉ vì muốn các anh học lên đại học mà thôi! Anh thất bại là em cũng thất bại!

Ba nghìn Nhân dân tệ học phí là gánh nặng quá lớn với cả gia đình. Vào lúc bất lực ấy, Thẩm Xuân Linh nghĩ đến chuyện đi bán máu.

Lần thứ nhất đến nơi bán máu, vì quá nhỏ tuổi, bác sĩ không đồng ý!

Lần thứ hai, cô nói dối tuổi mình, cuối cùng được bán 200 ml máu. Cầm được 400 tệ tiền bán máu, nỗi buồn bã của cô vẫn không bớt đi. Vì 400 tệ so với 3.000 tệ thì còn quá ít ỏi. Như cốc nước hắt vào đống lửa, chả thấm vào đâu.

Ba ngày sau, cô quay trở lại trạm y tế. Lần này, nói kiểu gì bác sĩ cũng quyết không lấy máu của Xuân Linh. Quá lo lắng, cô đành quỳ xuống cầu xin bác sĩ, và kể cho ông biết lý do.

Bác sĩ trầm ngâm rất lâu, cuối cùng ông thở dài bảo:

- Thôi được, chỉ một lần này thôi nhé! Lần sau cháu đừng đến đây nữa, cháu còn quá nhỏ, cơ thể còn đang phải lớn nữa!

Ông bác sĩ chỉ rút một lượng máu rất nhỏ tượng trưng, rồi móc túi ra đưa cho cô 700 tệ, làm Xuân Linh vô cùng cảm động.

Về nhà, Xuân Linh đưa tiền cho bố dượng, bố vội hỏi tiền ở đâu ra mà nhiều thế này, cô nói dối là đi vay người ta.

Bố cô cầm tay con xem xét, lại móc từ túi cô ra hai tờ giấy bán máu.

Cả nhà cô đều kinh hãi.

Nhưng số tiền đó còn lâu mới đủ được, dù chỉ một nửa học phí cho người anh.

Bố dượng cô quyết định bán đi một phần mảnh đất từ ngôi nhà cũ của họ, ông bà nội cũng bán ba cây dương vốn định dành gỗ để đóng quan tài cho ông bà sau này. Khi bố dượng không đồng ý bán ba cây dương, ông bà nói:

- Máu của Xuân Linh còn không tiếc, chúng tôi còn cần quan tài để làm gì nữa!

Dưới sự nỗ lực của toàn gia đình, tiền học cho anh hai, anh ba cuối cùng đã thu xếp xong. Để anh Thẩm Tiến Quân có thứ để lên trường, suốt mấy tối liền Xuân Linh thức khuya khâu vỏ chăn mới và giầy vải cho anh.

Vào lúc lên đường, Xuân Linh ra bến xe tiễn anh, cô nói:

- Anh ạ, nhà mình tuy nghèo, nhưng khảng khái, anh phải học cho ra học, anh đừng lo lắng chuyện ở nhà, cũng đừng tự khắc nghiệt với bản thân mình quá, anh cần tiền tiêu cứ viết thư về cho nhà nhé, em sẽ lo cho anh!

Thẩm Tiến Quân không nén được, ôm lấy đứa em nhỏ vào lòng, cảm động trào nước mắt.

Có thể bỏ rơi cha, không được phép bỏ rơi em

Những người anh lên đường đi học rồi, Xuân Linh bắt đầu tính toán xem làm cách nào kiếm tiền để chữa bệnh cho bố, lo học phí cho các anh trai. Ban đầu, cô định theo chân các chị trong làng ra ngoài đi làm kiếm tiền, nhưng ở nhà còn hai người già và một người bệnh đều cần chăm sóc, cô chỉ có thể ở lại. Cân nhắc kỹ, cô quyết định trồng bông.

Trồng bông không giống như trồng những cây khác, không chỉ phí sức trồng trọt, ngay khoản phun thuốc sâu cho bông cũng rất nguy hiểm, nhưng Xuân Linh tính nhẩm ra, một năm trồng bông có thể thu lãi được 8-9 nghìn Nhân dân tệ (16-18 triệu VND), cô không trù trừ bắt tay vào làm ngay.

Cô háo hức trồng xuống cây bông, nhưng chẳng mấy lâu, khu vực Lỗ Tây Nam (mấy huyện thuộc Sơn Đông) gặp dịch sâu xanh trên lá bông (Helicoverpa armigera) tràn tới, vụ dịch làm Xuân Linh cuống quýt, cô bé người còn chưa cao bằng ngọn cây bông đã cõng bình xịt thuốc sâu nặng hơn 20kg sau lưng đi dọc ruộng bông để xịt thuốc.

Cô nghe người ta nói, lúc chính ngọ thời tiết nóng nực nhất, là lúc trừ sâu có hiệu quả lớn nhất. Cô liền chọn lúc giữa trưa nắng to đi phun thuốc sâu, mặt trời rát bỏng trút nóng xuống cánh đồng bông hầm hập như một lò hấp khí nóng, làm Xuân Linh không thở nổi. Cô chỉ có thể chạy phun một hàng rồi chạy ra hít thở không khí. Một ngày vào lúc chính ngọ, vì thùng thuốc sâu bị rò chảy, cô trúng độc, ngất đi.

Người làng khiêng Xuân Linh về. Lúc tỉnh lại, cô không để ý đến sự ngăn cản của người bố nằm liệt giường, lại đòi chạy ra ruộng bông luôn. Năm đó, bông được mùa thu hoạch lớn, nhưng vì thế mà giá thu mua bị dìm xuống rất thấp, và Xuân Linh vẫn không thể kiếm được khoản tiền như cô mong muốn.

Đầu óc thông minh của Xuân Linh lại suy tính, cô đang nghĩ có cách nào kiếm được tiền nhanh nhất. Lúc nông nhàn, cô đã từng theo người làng đi thu mua hoa hòe, cành liễu (dùng như sợi bàng, sợi chiếu cói của VN), cũng từng đi bán mũ nan, đậu tương. Sau này, cô nghe người ta nói táo Tứ Thủy ở huyện bên rất rẻ, cô lại cùng ông bác trong làng đi Tứ Thủy buôn táo.

Hàng ngày, sau bữa tối, cô kéo xe kéo lên đường, lúc trời hơi rạng thì tới được vườn táo, chất đầy xe táo rồi quay về ngay. Đàn ông thanh niên kéo một xe, cô cũng kéo một xe. Dọc đường, người ta đều ăn táo giải khát, cô thì chưa từng ăn một quả táo nào, ngay cả những quả dập nát cũng giữ lại phần bố, cho ông bà ăn.

Anh thứ tư Thẩm Kiến Hoa thấy đứa em 14 tuổi vất vả như thế, quá áy náy, quyết định bỏ học và cũng trốn nghĩa vụ quân sự, ở nhà kiếm sống thay em.

Xuân Linh khuyên anh thế này:

- Em hâm mộ nhất trên đời này là quân nhân, anh ở nhà rồi sau này anh sẽ ra sao? Anh cứ đi đi, em vẫn còn chống đỡ gia đình này được.

Ngày anh tư lên đường, Xuân Linh rút từ trong túi ra một ít tiền lẻ nhàu nát dúi vào tay anh trai:

- Đây là 80 tệ, tiền em dành riêng ra, anh giữ lấy để tiêu vặt, vào bộ đội rồi anh nhớ cố gắng.

Thẩm Kiến Hoa mắt rưng rưng.

Mùa xuân năm 1997 là mùa xuân vui sướng hạnh phúc nhất của Xuân Linh. Tết năm đó, ngoài người anh thứ tư đang ở bộ đội, cả ba anh trai đều quay về nhà ăn tết. Và ai cũng mang quà về cho cô em gái. Người anh cả là sinh viên mang tặng em một bộ quần áo mới, người anh thứ hai cũng là sinh viên tặng em một chiếc khăn màu hồng, người anh thứ ba đang ôn thi cũng mua cho em một hộp kem trang điểm.

Xuân Linh ôm tất cả quà vào lòng vui sướng, nhảy lên cười, lúc đó cô bé quay trở lại vẻ ngây thơ con nít vốn có. Bố gọi ba đứa con trai đến bên giường:

- Các con phải báo đáp cho Linh, vì nó đã quá khổ sở rồi. Ngày sau các con trưởng thành, các con có quyền quên bố đi, nhưng không bao giờ được phép quên Xuân Linh.

Tình thân vĩnh viễn

Công việc nhà nông bận rộn, nhưng Xuân Linh không quên bệnh của bố dượng, hễ có hy vọng, ngại gì đường xa núi cao, cô đều kéo bố đi. Trời xanh không phụ người có công, bệnh của bố dượng đã đỡ hơn rất nhiều, đã có lúc ông chống được gậy đứng lên. Những người anh học hành tấn tới. Anh cả Thẩm Kiến Quốc sau khi tốt nghiệp đại học đã thi đỗ để học tiếp Thạc sĩ.

Người anh thứ tư Thẩm Kiến Hoa đã được vào Đảng trong quân ngũ, được đề bạt lên làm trung đội trưởng. Tháng 9/1997, người anh thứ ba Thẩm Kiến Văn cũng thi đỗ cao đẳng, được Học viện Đông y Sơn Đông nhận vào học.

Tháng 3/1998, bà nội bỗng dưng bệnh nặng, lúc lâm chung, bà cụ nắm chặt lấy tay Xuân Linh nói: “Xuân Linh, cả đời bà chẳng có gì tiếc nuối, vì đã có một đứa cháu ngoan như cháu, bà chỉ thương xót cháu thôi!” Nói rồi bà lần từ dưới gối ra một chiếc vòng tay bằng ngọc đưa cho Xuân Linh, Xuân Linh không dám cầm. Ông nội nói: “Xuân Linh, đấy là thứ bà nội định để dành cho cháu dâu đầu, nhưng bà nội nghĩ, cái vòng này nên để dành cho cháu, cháu hãy nhận cho bà mãn nguyện đi!”. Xuân Linh nuốt nước mắt rưng rưng nhận lấy.

Sau khi bà nội mất, người anh thứ tư viết thư về, nói sẽ chuẩn bị thi vào trường quân sự, nhưng khi biết bà nội vừa mất, trong nhà đã lo liệu hết tiền, anh bèn quyết định bỏ cuộc. Xuân Linh đọc thư, lo lắng, cô liền tìm người nhờ gửi thư cho anh trai khuyên ngăn, và gửi kèm theo đó 200 tệ, để anh trai mua sách vở ôn thi. Cô nói: “Anh ạ, thi vào trường quân sự là việc lớn cả đời anh, đừng để khó khăn trước mắt làm ngăn cản việc cả đời”.

Đúng lúc đó, mẹ Xuân Linh đã bỏ đi biệt tăm tích lâu nay, bỗng gửi thư về cho cô, thì ra mấy năm nay, mẹ cô bỏ đi rồi đã làm một tờ giấy li hôn giả mạo với bố dượng, rồi sang huyện Bình Dương ăn ở với một ông có tiệm thực phẩm, cuộc sống khá sung túc. Mẹ cô nghe qua người khác mới biết con gái mình mấy năm nay chịu cực khổ vô vàn, trong lòng bà rất ăn năn. Mẹ cô gửi thư tới muốn bảo con gái bỏ sang huyện Bình Dương, hứa sẽ tìm cho cô một gia đình đàng hoàng để gả chồng.

Đọc lá thư của mẹ, Xuân Linh nước mắt dào dạt, rất muốn được sống một cuộc sống đơn giản vô lo của một cô con gái bên cạnh mẹ. Nhưng cô cũng không thể nào bỏ rơi gia đình này, cái gia đình nghèo khổ hoạn nạn, nhưng cả nhà đều chân tình yêu thương cô!

Bố dượng biết con gái khó xử, khuyên cô:

- Xuân Linh, đi tìm mẹ con đi! Bố không trách con, cả nhà ta đã khổ, kéo theo cả đời con khổ theo thì bố không nỡ lòng nào!

Xuân Linh cắn chặt môi, quỳ xuống trước giường bệnh của bố:

- Bố ạ, khổ sở nữa con cũng chịu được, bố đừng đuổi con đi!

Xuân Linh nhờ người viết thư trả lời mẹ rằng, cô không muốn theo mẹ.

Một ngày tháng 9/1998, vì muốn kiếm tiền cho anh trai thứ tư ôn thi, cô lại nghĩ đến việc đi bán máu. Sau rất nhiều lần cầu xin, cuối cùng bác sĩ đã đồng ý, lấy 300ml máu của cô. Vốn thân thể gầy gò yếu ớt vì thiếu dinh dưỡng, giờ Xuân Linh càng yếu.

Nhưng cô lấy lại tinh thần, đi ra bưu điện gửi mấy trăm tệ đó cho anh. Lúc liêu xiêu qua đường, vì không còn tinh thần để ý kỹ, cô bị một xe tải lớn chở các cuộn sắt gạt ngã, bánh xe lớn nghiến qua người Xuân Linh.

Tin dữ đến, ông nội cô không chịu đựng nổi, đổ bệnh liệt giường, bố dượng Xuân Linh cũng ngất đi nhiều lần. Người anh thứ ba Thẩm Kiến Văn là người đầu tiên biết tin này, anh chạy về nhà, chỉ còn biết khóc bên thi thể em.

Người anh thứ hai Thẩm Kiến Quân nhận được điện báo, suốt hai ngày đi tàu về không ăn không ngủ, khóc từ Thượng Hải về đến Sơn Đông.

Ở tít tận Tây An, người anh cả Thẩm Kiến Quốc đang học thạc sĩ được tin cũng khóc rụng rời, không thể về dự đám tang được, anh điện về nhà: “Em gái yêu quý, em dùng tấm lòng người mẹ để gánh vác cả gia đình này, dùng đôi vai yếu ớt để dựng lên một niềm hy vọng, cả gia đình mãi mãi yêu em.”

Vừa nhận được giấy báo nhập học của Học viện Lục quân Quế Lâm, người anh thứ tư Thẩm Kiến Hoa cũng đồng thời nhận tin em chết, anh ngã ngất đi trên thao trường. Tỉnh dậy liền vội vã về quê.

Nhưng ở quê, những người chết trẻ vị thành niên không được phép tổ chức đám ma, ngay cả nghĩa trang của dòng họ cũng không được phép vào chôn cùng.

Xuân Linh đến đây sống bốn năm, họ tên thì đã đổi, nhưng hộ khẩu thì không có, ngay cả tư cách là dân chúng của địa phương cũng không có, không được coi là người làng. Nhưng những người già trong làng cảm động trước cuộc đời hiếu nghĩa của Xuân Linh. Người già nói, đứa con gái tốt đẹp thế, chết rồi thì tại sao còn phải để nó phải chịu tức tưởi nữa.

Nhà văn Lưu Hồng, người đã từng đến viết bài phỏng vấn Xuân Linh hồi trước cũng đến dự tang lễ, và viết một bài ai điếu cho cô bé:

“Em, là một đóa hoa giữa thung lũng, một vệt mây ở bên trời, lặng lẽ đến, lại lặng lẽ đi.

Đôi vai nhỏ gánh đầy tình người, tâm hồn nhỏ nâng đỡ cả gia đình, tuổi còn trẻ như thơ như họa, như tơ như khói, lại đầy gian nan khốn khó vất vả.

Em đi rồi, nhẹ như thế, như đám mây bên trời xa, câu chuyện để lại nặng như thế, ân tình cao như núi Thái Sơn...”.

Những người con gái đều có những son phấn của riêng mình, có lẽ Xuân Linh cả đời chưa chạm vào son phấn, nhưng cô vẫn là người con gái đẹp nhất.

Năm 2007, Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc dự định làm một bộ phim truyền hình 100 tập về 100 tấm gương tốt cảm động thời nay, lấy tên phim là “Câu chuyện của chúng tôi” để giáo dục thế hệ trẻ Trung Quốc, câu chuyện về Xuân Linh sẽ được dựng lại ở tập mười sáu.

Sunday, April 11, 2010

tháng 4 đen

Kẻ Nhân định việc Nước
Kẻ Trí định việc Dân
Kẻ Dũng định việc Quân
Kẻ Hiền Quản trong ngoài

Làm mất Nước một ngày
Làm mất sự nghiệp một canh bạc
Làm mất niềm tin chỉ 1 hành động bạc ác

Thursday, December 31, 2009

Tinh thần Samurai

Thạch Tảo ‒ Tổng hợp

Lính Mỹ tập tọa thiền

Cách đây không lâu, tại Fort Bragg (tiểu bang North Carolina), căn cứ quân sự lớn nhất Hoa Kỳ, người ta thấy có những nhóm khoảng 7 quân nhân ngồi thành vòng tròn trong ánh đèn mờ. Họ ngồi yên, mắt nhắm, hai đầu ngón tay ấn nhẹ vào vùng dưới rốn để kích hoạt vùng “trọng điểm”. Chìm trong tiếng nhạc, những người lính tập trung vào việc để đầu óc trống rỗng.

Khi nói về quân đội, người Mỹ thường nghĩ tới sự năng động và linh hoạt, khó thể hình dung người lính trong thế ngồi yên. Thế nhưng, ngồi yên như một thiền sư chính là phần quan trọng của chương trình huấn luyện có tên Warrior Mind Training (Huấn luyện Tinh thần Chiến binh, WMT) - Chương trình này sẽ giúp cho 1.1 triệu binh sĩ có được tinh thần vững chãi hơn trong chiến đấu. (1)


Warrior Mind Training
Nguồn: stripes.com
Việc ngồi thiền còn được coi là có thể đem lại sự yên tĩnh cho những ai vẫn còn bị chiến cuộc ám ảnh. Đối với Kade Williams, một cựu chiến binh Afghanistan, việc ngồi yên, nhắm mắt; vừa ấn tay vào huyệt (hạ) đan điền vừa chú ý lắng nghe tiếng guitar là một điều khá kỳ cục. Thế nhưng, những cơn ác mộng rền tiếng bom đạn buộc anh phải tìm cách giải quyết, và anh đã tham gia những lớp WMT. Sau một thời gian thực tập, Williams cảm thấy tinh thần của mình trở nên yên ổn hơn. (2)

Phương pháp huấn luyện của WMT đã áp dụng ngồi thiền, một trong những cách rèn luyện cơ bản của giới Samurai, những võ sĩ Nhật Bản nổi tiếng với trình độ kiếm thuật cao siêu lẫn ý chí kiên định phi thường

Đối với người châu Á chúng ta, việc ngồi yên, để đầu óc trống rỗng, tập trung vào đan điền... không phải là điều xa lạ. Hầu như ai cũng đều nghe qua những câu “khí trầm đan điền”, “tham thiền nhập định”, “cửu niên diện bích”... Những câu đó có chung một điểm: khuyên con người đi tìm trạng thái tĩnh lặng nhất, vì khi đạt được sự tĩnh lặng trong tâm tưởng (không còn bị xáo trộn bởi suy nghĩ, cảm xúc...), người ta mới có thể hiểu được những lý lẽ sâu xa nhất.


Hagakurec
Nguồn: wikipedia.org
Thế nhưng một tâm tư yên tĩnh có thật sự làm người ta bớt sợ không? Tọa thiền có phải là cách thức chủ yếu để đạt được tâm tư an tĩnh không? Và làm sao đo lường sự yên tĩnh của mình đã đạt đến mức nào?

Để tìm câu trả lời, mời bạn đọc cùng người viết lục lại những tư tưởng của người xưa, trong sách “Hagakure: The Book of the Samurai” (3)


Bushidō - Cái đạo của chiến sĩ


Samurai
có hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, samurai là một bộ phận của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản, là thuộc hạ của các shogun, daimyo, và đứng trên một số bộ phận võ sĩ khác. Samurai theo nghĩa này là cách hiểu ở Nhật Bản. Theo nghĩa thứ hai và được sử dụng phổ biến trên thế giới ngoài Nhật Bản, samurai chính là tầng lớp võ sĩ (tiếng Nhật: 武士; rōmaji: bushi; phiên âm Hán-Việt: võ sĩ ) của Nhật Bản, tức là bao gồm cả cả shogun (vương gia) và daimyo (lãnh chúa).

Samurai tuân thủ những quy tắc danh dự của Bushidō, võ sĩ đạo. Theo bushido, người võ sĩ cần có cần có 7 đức tính chủ yếu: Gi: trí tuệ - Yuuki: can trường - Jin: nhân nghĩa - Rei: lễ nghi – Makoto: thành thực - Meiyo: liêm sỉ - Chuugi: trung tín. (4)

Thế nhưng, trong những câu chuyện về samurai người ta thường thấy những thuật ngữ khác, đó là: seppuku, kaishaku, và Zen.



Gi, yuuki, jin, rei, makoto, meiyo and chuugi - the seven virtues of bushido
Nguồn: theartofcalligraphy.com
Seppuku (hay Harakiri) là là nghi thức tự mổ bụng với một thanh kiếm ngắn.
Người samurai thực hiện seppuku để tự xử khi không hoàn thành nhiệm vụ, hay khi vi phạm luật lệ. Seppuku còn là cách bảo toàn danh dự khi bị lăng nhục mà không chống trả được. Danh dự là một điều cực kỳ thiêng liêng của người Nhật thời xưa, ngay cả giới bình dân và phụ nữ cũng có ý thức rất cao về việc bảo toàn danh dự.

Một người tên Takagi có lần cãi vã với 3 nông dân hàng xóm, rồi bị họ đánh khá nặng ngoài ruộng. Về đến nhà, vợ hỏi: “Cái lý của sự chết há ông quên rồi sao?” – “Dĩ nhiên là không” người chồng đáp.

Người vợ than: “Người ta chỉ chết một lần: hoặc chết bịnh, hoặc chết trận, hoặc chết vì mổ bụng, bị chặt đầu... nhưng chết hèn chết nhát thì thật là xấu hổ”. Nói xong bước ra ngoài. Hồi sau trở về, đem hai con vào giường, đi sửa soạn đuốc, nai nịt như người ra trận trong đêm, đoạn nói với chồng: “Hồi nãy tôi đi coi, thấy 3 người họ đã đến một nơi để bàn bạc. Đúng lúc rồi. Đi thôi!” Hai vợ chồng ra đi, cầm đuốc, đeo gươm ngắn. Họ xông vào nhà kẻ thù, giết 2 người, làm bị thương 1 người. Về sau, quan cho phép người chồng được seppuku.

Theo luật pháp, giết người phải đền mạng, nhưng nếu giết người để bảo vệ danh dự thì cũng được chết trong danh dự: được quyền tự sát thay vì bị xử chém.


Seppuku
Nguồn: sadame.wordpress.com

Người tự sát bằng cách seppuku, sau khi lấy dao đâm và rạch bụng, không nhất thiết phải nằm chờ chết trong đau đớn. Anh ta có quyền yêu cầu một kiếm sĩ khác chặt đầu mình xuống. Người “thứ hai” này được trao cho nhiệm vụ danh dự “kaishaku”. Khi một lãnh chúa bị thua trận và được cho phép seppuku, ông ta thường chọn người samurai thân tín nhất để làm kaishakunin cho mình.

Được giết người cũng là một danh dự - Có khi còn hơn danh dự, có khi là thâm tình như cha với con.


Con trai của Mori Mobei sau một cuộc đấu kiếm đã bị thương. Lúc về nhà, cha hỏi, “Con xử sao với đối phương?”Người con thưa, “Đã chém hắn chết.” Cha lại hỏi, “Có nhát kiếm danh dự không?” “Thưa có!” Người con đáp.

Người cha nói, “Con đã làm tốt. Không có gì phải hối tiếc. Bây giờ, dù đi trốn con cũng phải tự sát. Chừng nào cảm thấy khá hơn, hãy seppuku, và thay vì chết dưới kiếm người khác, con sẽ chết dưới kiếm của cha”. Không lâu sau, Moibei thực hiện kaisaku cho con trai ông.

Xử kiếm để kaisahku là điều không dễ. Người được chọn làm kaishakunin phải là một cao thủ để có thể chặt đứt đầu người chỉ với một nhát kiếm duy nhất, nhờ đó giảm sự sợ hãi và đau đớn cho tử tội.


Người cầm kiếm chuẩn bị kaishaku với các quan giám sát
Nguồn: imageshack.us

Kaishaku đến tuyệt đỉnh là nhát kiếm bén ngọt nhưng chính xác đến mức làm xương cổ đứt lìa nhưng đầu vẫn còn dính với thân bằng một miếng da. Theo tương truyền, chém như thế để đầu phạm nhân không văng ra và bắn máu tung toé vào áo các quan giám sát.

Tuy được coi là một vinh dự, không mấy ai mong làm kashakunin, vì dù nhát chém tuyệt hảo họ vẫn không được tiếng tốt, ngược lại, nếu nhát chém vụng về, người xử kiếm sẽ bị cười chê suốt đời.

Để có khả năng thực hiện kaisaku, võ sĩ phải trải qua sự khổ luyện cả về thể lực lẫn tinh thần. Yamamoto Kichizaemon lúc mới 5 tuổi đã được lệnh của thân phụ Jinemon chặt đầu một con chó. Khi 15 tuổi, được giao nhiệm vụ chặt đầu tử tội.

Việc giết người và giết mình dù vì lý do nào đi nữa vẫn là những hành vi trái ngược với nhân tính và bản năng sinh tồn của con người. Huống hồ Bushido coi Nhân (Jin) là một trong 7 đức tính không thể thiếu của samurai.

Lòng nhân giữa người và người được thể hiện qua cách đối xử hàng ngày với nhau:

Nói cho người khác biết ý kiến của mình và chỉ ra sai lầm của họ là một việc quan trọng. Trước hết, việc đó phải bắt nguồn từ lòng thương người, nhưng nói như thế nào là khó vô cùng. Nhìn thấy điều hay, điều dở của một người thì không khó, nói ra ý kiến của mình cũng không khó. Người ta thường nghĩ mình làm điều tử tế khi dám nói ra những điều khó nói, và nếu người bị chỉ trích tỏ vẻ khó chịu, thì người phê bình tự cho rằng mình đã làm hết bổn phận. Nếu chỉ làm được đến thế thì thật vô ích. Làm như vậy cũng chẳng khác gì nhục mạ người khác bằng cách vu oan. Cách phê bình này chỉ để thỏa mãn cho chính mình mà thôi.

Khi có ai đó cho ta ý kiến, hãy nhận nó và tỏ lòng biết ơn cho dù ý kiến đó chẳng có giá trị gì hết. Nếu không như thế, sẽ không ai còn muốn nói với ta những điều họ thấy hay nghe về ta nữa. Tốt nhất là cho và nhận ý kiến với thái độ hòa nhã vui vẻ.

Lòng nhân là giúp người khác hoàn thành nhiệm vụ để người đó không mang tiếng xấu.

Makiguchi Yohei từng thực hiện kaishaku nhiều lần trong đời. Khi một người tên Kanahara phải seppuku, ông này đã đâm được dao vào bụng nhưng không sao xẻ ngang như nghi thức đã định. Thấy thế, Yohei đến bên cạnh, bất ngờ hô to: “Ei!” và dậm chân thật mạnh. Nhờ có đà, Kanahara rạch được bụng mình. Người ta kể rằng Yohei đã rơi lệ và nói: “Mặc dù anh ấy từng là bạn tốt của tôi…”

(Câu nói đứt đoạn của Makiguchi có thể được hiểu rằng: “Mặc dù anh ấy có lúc từng là bạn tốt của tôi và tôi có thể xuống tay ngay để anh ta không bị đau đớn, thế nhưng danh tiết của anh sẽ bị hoen ố”)

Lòng nhân còn là sự quan tâm, chia xẻ với người khác, nhất là trong lúc khó khăn, hoạn nạn.

Có lời nói rằng: “Nếu muốn biết cái tâm của một người, hãy mang bịnh”. Khi anh mắc bệnh hay gặp khó khăn, sẽ có nhiều người hàng ngày vẫn tỏ ra bè bạn hay thân thiết trở nên hèn nhát. Khi có ai lâm cảnh khổ đau, hãy thăm hỏi hay tặng quà. Và không bao giờ trong đời được quyền quên những người đã giúp đỡ anh.

Làm như thế tức là tỏ được sự quan tâm tới người chung quanh. Trên đời này, số người nhận sự giúp đỡ của người khác trong lúc khốn cùng nhưng sau đó chẳng còn nhớ gì tới họ nữa thì thật nhiều lắm.

Với một tâm tình thương yêu như thế làm sao người samurai có thể trở nên lạnh lùng vô cảm khi xử kiếm? Phật giáo tuy dạy con người “bi, trí, dũng” nhưng người Nhật cho rằng đạo Phật thuần túy không thích hợp với những võ sĩ trẻ tuổi bởi vì họ sẽ nhìn cuộc đời dưới hai hệ giá trị khác nhau, và như thế họ sẽ không thể tập trung tinh thần được.

Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki phân tích lý do tại sao các kiếm sĩ Nhật ưa thích Thiền học: (5)

Nghệ thuật đấu kiếm, tập cho lão luyện là một trong những công việc thu hút nhất của các giai cấp thống trị Nhật Bản từ thời đại Kiếm thương (Kamakura), nghệ thuật này đã thành công phát triển lạ lùng, và nhiều trường học khác nhau dạy về môn đó đã thịnh hành cho tới nay. Thời đại Kiếm thương liên hê chặt chẽ với Thiền, pháp môn của Thiền tông, một tông phái Phật giáo độc lập, đầu tiên được truyền vào Nhật Bản. Nhiều thiền sư lớn đã cai quản thế giới tâm linh bấy giờ và mặc dù họ khinh miệt học thuật, học thuật vẫn được bảo tồn bằng đôi tay của họ.

Vào thời này, các chiến sĩ tụ tập quanh họ khát khao được họ giảng dạy và rèn luyện. Phương pháp giảng dạy của họ giản dị và trực tiếp, không cần phải có học thuật uyên bác về Phật học. Các chiến sĩ cố nhiên không phải là thông thái lắm; điều họ muốn là không rụt rè trước cái chết mà họ thường xuyên đối diện. Đây là một vấn đề thực tiễn nhất đối với họ, và Thiền sẵn sàng giải quyết, có lẽ bởi vì các thiền sư chỉ nói tới những sự thực của đời sống, không nói tới những khái niệm. Có thể họ đã nói với một chiến sĩ, khi ông ta đến để được soi sáng về vấn đề sống và chết: “Không sống không chết ở đây. Cút lẹ đi.” Nói thế rồi, họ xách gậy đuổi ông chiến sĩ đó đi. Hoặc giả có một chiến sĩ đến kiếm sư và nói: “Bây giờ tôi phải trải qua một cuộc hiểm nghèo nhất của đời sống; nên làm gì?” Sư có thể rống lên: “Đi thẳng tới, đừng nhìn lại!” Sự kiện đó cho thấy các chiến sĩ dưới thời Nhật Bản phong kiến đã được các thiền sư huấn luyện như thế nào.


Thiền tông (được du nhập vào Nhật đầu thế kỷ 13) không theo những nghi thức rườm rà, những bài luận dài dòng khó hiểu của Phật giáo nguyên thủy. Thiền Tông còn khuyên hành giả tọa thiền để tìm thấy căn tính của mình và hiểu ra lẽ đạo. Vì thế giới samurai coi việc tọa thiền là một trong những điều cơ bản hết sức cần thiết để đạt đến giới cảnh cao xa của tâm linh cũng như của kiếm thuật.

Zen và Bushido không phải là con đường một chiều, nghĩa là chỉ có kiếm sĩ chịu ảnh hưởng của thiền sư mà cả hai cần biết phải học tập và bổ khuyết lẫn cho nhau.

Thiền sư Tannen thường nói: “Một tu sĩ sẽ không thể chứng đạt Phật pháp nếu chỉ tu tập về lòng bác ái mà không rèn luyện sự dũng cảm. Còn một võ sĩ nếu không vừa luyện cái dũng bên ngoài vừa lòng nhân bên trong thì không thể làm nhiệm vụ bảo vệ cho tốt. Do đó, tu sĩ cần luyện sự dũng cảm của võ sĩ, còn võ sĩ cần luyện sự từ bi của tu sĩ.

Ta đã đi đây đó nhiều năm và đã gặp nhiều người khôn ngoan nhưng ta chẳng thể nào tìm ra cách để hiểu lẽ đạo. Vì thế, hễ khi nghe kể về sự can trường của một người ta đều tìm gặp người đó bất chấp gian khó. Thế rồi ta hiểu ra rằng cái Đạo võ sĩ quả đã trợ giúp cho con đường tu tập Phật pháp. Khi một chiến sĩ mang giáp trụ xông vào trại giặc, thì anh ta có sức mạnh từ cái áo giáp. Còn một tu sĩ với chuỗi bồ đề có thể nào dám lao vào nơi kiếm dài thương nhọn chỉ với sự ôn hòa và lòng từ bi? Nếu tu sĩ đó không có can đảm thực sự, anh ta sẽ chẳng dám làm như thế. Thực tế cho thấy ngay các hòa thượng danh cao chức trọng cũng còn khi run rẩy, đó là vị họ không có đủ dũng khí.”

Những trích dẫn ở trên phần nào cho thấy việc tọa thiền đã góp phần tạo nên tính cách và khả năng riêng biệt của những võ sĩ samurai. Tuy nhiên, để đạt đến tinh thần “vô úy” , bình tĩnh đến mức coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, thì không thể chỉ tập luyện bằng cách ngồi yên, nhắm mắt, và ngưng suy nghĩ.
Để có được sự dũng cảm theo tinh thần samurai, một người phải rèn luyện từ suy nghĩ bên trong cho tới hành vi bên ngoài, cũng phải tập luyện thường xuyên và bền bỉ, có như thế, đến lúc “đụng chuyện” mới thắng được cái sợ.

Đến cái lúc đó thì không còn thì giờ cho lý lẽ nữa. Nếu không chịu học hỏi trước thì chỉ mang nhục mà thôi. Đọc sách hay nghe giảng chỉ có thể làm từ trước.

Trên hết mọi điều, Đạo của người Samurai nằm trong sự hiểu rằng ta không thể biết được cái gì sẽ xảy ra nên phải tìm tòi học hỏi đêm ngày. Thắng hay thua tùy thuộc vào các động lực nhất thời của hoàn cảnh. Nhưng để không bị mang nhục thì khác, nó tùy thuộc vào một người có dám chết hay không.


Bài học cho Việt Nam

Hoa Kỳ không thiếu những tấm gương anh hùng. Hoa Kỳ là nơi tụ hội những con người dám rời bỏ quê cha đất tổ, đi đến vùng đất hoang vu với mọi hiểm nguy bất trắc. Hoa Kỳ cũng là nơi có những chiến sĩ kiên cường trong Thế chiến Thứ hai ác liệt. Thế nhưng, sau cuộc chiến Việt Nam và sau một thời gian thanh bình, người lính Mỹ không còn giữ được tinh thần dũng mãnh của cha anh nữa. Ngày nay, trong một chiến cuộc không kém phần gay go, Hoa Kỳ đang tìm cách rèn luyện lòng can trường, khả năng bén nhạy và bình tĩnh của người lính vì họ biết rằng kỹ thuật tinh xảo và vũ khí tối tân không phải là điều kiện tiên quyết để đem lại chiến thắng.

Việt Nam cũng không thiếu những tấm gương anh hùng. Việt Nam đã bao lần đánh đuổi kẻ thù phương Bắc. Việt Nam vẫn đang hô hào mình đã từng đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thế nhưng, sau hơn 30 năm sống dưới sự bưng bít thông tin, ngăn cấm tự do, và áp đặt tư tưởng, người dân Việt Nam đã không còn ý thức đấu tranh, tinh thần kiên cường bất khuất của cha ông nữa. Ngày nay, với sự đe dọa và lấn lướt quá rõ ràng của cộng sản Trung Quốc, Việt Nam đã và đang làm gì để vực dậy lòng dũng cảm của người dân?

Việt Nam mua tầu ngầm của Nga, thay đổi quân phục, lập đội dân quân tự vệ biển, ra sách trắng về ngân sách quốc phòng … để chứng tỏ Việt Nam đang ra sức hiện đại hóa quân đội, sẵn sàng ứng phó với mọi thế lực thù địch - Thế nhưng, Việt Nam không hề vun đắp cho dũng khí của người dân: Việt Nam thẳng tay cấm đoán những thể hiện của tinh thần yêu nước.

Khi không có ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất của nhân dân, liệu quân đội Việt Nam với một số vũ khí tối tân có thể bảo vệ đất nước được không?

Muốn có một võ sĩ samurai can trường khi lớn, người ta không thể nuôi đứa bé trong sự sợ hãi và hèn nhát.

Nuôi một đứa trẻ để nó trở thành một samurai cũng phải có cách. Lúc còn nhỏ phải khuyến khích lòng dũng cảm của trẻ và không làm nó sợ hãi. Cái khiếp nhược từ lúc bé sẽ là là cái thẹo đứa trẻ phải mang suốt đời. Cha mẹ sai lầm khi vô tình làm trẻ sợ sấm sét, bóng tối, hay kể cho trẻ những điều kinh khiếp để nó thôi khóc. Ngoài ra, một đứa bé sẽ thành nhút nhát nếu nó bị khiển trách nặng nề.

Những bản án và sắc luật của nhà cầm quyền Hà Nội chính là những “khiển trách nặng nề” nhằm làm người dân Việt Nam hèn nhát thêm, khiếp sợ thêm . Thay vì xây dựng một thế hệ chiến sĩ dũng cảm, Đảng Cộng Sản chỉ cố duy trì sự khiếp nhược của toàn dân.

Sự khiếp nhược dẫn tới một điều chắc chắn: Việt Nam sẽ là thuộc địa hoàn toàn của Trung Quốc.