Thursday, May 28, 2009

Sunday, May 24, 2009

Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM

TIP:Đầu năm 2009 này,cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kì CIA đã cho phép giải mật 2 tập tài liệu TỐI MẬT về gia đình ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm và liên hệ giữa CIA-Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hoà

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của cơ quan này,việc giải mã như thế được tiến hành như thế:hai quyển sách trên thuộc lọai sử kể (narrative history), có đầu đuôi, chú thích - và quan trọng hơn hết - tác giả là người thật, đọc nhiều tài liệu và viết lại có ngọn ngành cho độc giả. Đa số những tài liệu giải mật của CIA trước đây thuộc lọai nặc danh vì lý do nghề nghiệp, hay là những tường trình do nhân viên báo cáo về để "kính tường."

Tập tài liệu được giải mã gồm 2 phần (2 cuốn)

1.CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (nghĩa là:CIA và Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963)

1.1.Gia đình họ Ngô

1.2.Liên lạc Ngô Đình Nhu

1.3.Liên lạc đối lập


2.CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam (CIA và Các Tướng Lĩnh: Những Hỗ Trợ Ngầm Cho Chính Phủ Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa)

2.1.Các tướng lĩnh miền Nam

2.2.Chân dung một số vị tướng

2.3.Nội bộ Việt Nam Cộng Hoà


2 tập tài liệu này đã được bảo mật từ rất lâu cho đến nay mới được biết đến.

Theo ông Nguyễn Kì Phong,thì CIA đã xâm nhập sâu vào cơ cấu hành chánh và nhân sự của VNCH trong khoảng 1967-1975.

Sơ lược về các tài liệu trên

Tài liệu thứ nhất

CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (nghĩa là:CIA và Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963)

Nội dung chính:Những hoạt động bên trong để giúp đỡ chính phủ Ngô Đình Diệm, từ ngày ông Diệm về làm thủ tướng cho đến ngày tổng thống Diệm bị hạ sát trong cuộc cách mạng 1 tháng 11-1963.


Gia đình họ Ngô

Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm 1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo.

Saigon Military Mission, theo Tài Liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy. Lansdale đến Sài Gòn tháng 6-1954 với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán tình báo Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày "di cư và tập kết" hết hạn; và, dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình Diệm.

Nay, theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn - và cũng ra lệnh Lansdale làm việc trực tiếp cho ông. Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo. Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp, Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập tình báo những thành phần quốc gia để lập một chánh thể chống cộng trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp. Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một toán CIA để lo về quân sự, Saigon Military Mission.

CIA and the House of Ngo tiết lộ một số chi tiết ly kỳ như, CIA liên lạc và làm thân với ông Ngô Đình Nhu từ năm 1951, rất lâu trước khi Hoa Kỳ liên lạc với ông Diệm. Đầu năm 1954, khi có tin Hoa Kỳ chuẩn bị đề nghị quốc trưởng Bảo Đại và chánh phủ Pháp giải nhiệm hoàng thân Bửu Lộc và thay bằng ông Diệm, thì ông Nhu là người đầu tiên CIA gặp để bàn về liên hệ của Hoa Kỳ đối với thủ tướng tương lai Ngô Đình Diệm.

Liên lạc Ngô Đình Nhu

Tháng 4-1954, một nữ nhân viên Mỹ làm việc ở CIA Saigon Station, thông thạo tiếng Pháp, quen biết và liên lạc thân thiện với Bà Ngô Đình Nhu. Từ nữ nhân viên Virginia Spence này, Sở CIA Saigon bắt được nhiều liên lạc với hầu hết những người thân trong gia đình, hoặc thân cận với Nhà Ngô.

Tháng 4-1954, CIA ở Hoa Thịnh Đốn gửi Paul Harwood sang làm cố vấn riêng cho ông Nhu. Tuy là nhân viên CIA, nhưng Harwood đóng vai một nhân viên Bộ Ngoại Giao, làm việc từ Tòa Đại Sứ. Trong hai năm, Hardwood cố vấn là làm việc với ông Nhu để xâm nhập và ảnh hưởng đường lối ngoại giao quân sự của nền đệ nhất VNCH với tổng thống Diệm. Paul Hardwood thân thiện với gia đình ông bà Nhu đến độ ông ta là người đỡ đầu cho Ngô Đình Lệ Thủy, ái nữ của ông bà Nhu.

Từ tài liệu này chúng ta cũng biết thêm, ông bà Nhu được đưa qua thăm viếng Mỹ trước tổng thống Diệm. Để lấy tình cảm và ảnh huởng với ông Nhu, đầu tháng 3-1957 ông bà Nhu được CIA mời qua thăm Hoa Thịnh Đốn. Tuy không có một chức vụ gì chánh thức với chính phủ nhưng ông Nhu được diện kiến tổng thống Dwight Eisenhower, hai Bộ Trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng, và Giám Đốc CIA Allen Dullles. Tài liệu cho biết, với tài ăn nói và sắc diện, bà Nhu gây được nhiều chú ý với các thẩm quyền Mỹ. ... "Bà Nhu là một ngôi sao trong dạ tiệc" do CIA khoản đãi. Hai tháng sau chuyến thăm viếng âm thầm của ông bà Nhu, đầu tháng 5-1957, tổng thống Diệm lên đường công du theo lời mời của chánh phủ Hoa Kỳ.




Trong cuộc tranh chấp - rồi sau đó là giao chiến - giữa chánh phủ Diệm và quân phiến loạn Bình Xuyên, CIA biết được hầu hết kế hoạch và khả năng của Bình Xuyên, nhờ một cận thần của Bảy Viễn đang làm việc cho CIA. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, một đảng chính trị thành lập để hổ trợ chính phủ Diệm, nhận tài chính và cố vấn từ CIA. Nhưng đến đầu năm 1960 thì CIA cắt ngân khoản vì cơ cấu nhân sự không còn hữu hiệu trong công tác tuyên truyền. CIA đã than phiền nhiều lần về những hoạt động của Đảng Cần Lao và hành vi của ông Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật - đôi khi trái phép - của ông Cẩn, thì ông Nhu "đưa hai tay lên trời" với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được.

Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA nhận được nguồn tin cho biết ông Cẩn đang bàn kế hoạch để loại trừ Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và Cố Vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở Dinh Tổng Thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chính phủ Sài Gòn đối với "lãnh chúa" Ngô Đình Cẩn ở miền Trung.

Với hai Sở CIA ở Sài Gòn hoạt động độc lập nhau, báo cáo gửi về cho CIA ở Hoa Thịnh Đốn đôi khi trái ngược: Cố vấn Paul Hardwood thì báo cáo tốt, nhân nhượng cho ông Nhu và có ý chỉ trích ông Diệm; Edward Lansdale ngược lại: bảo vệ ông Diệm và nói xấu ông bà Nhu. Cuối năm 1956, sau khi Lansdale bị triệu hồi về Mỹ, Al Ulmer, Trưởng Vụ Viễn Đông CIA, ra lệnh giải tán những gì còn lại của Saigon Military Mission - và thái độ của Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi với chính phủ Ngô Đình Diệm.


Liên lạc với các lực lượng đối lập

Đầu năm 1958 Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập. Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối lập "ngay sau lưng ông Nhu," để trong trường hợp phải thay đổi cấp lãnh đạo mới. Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một "hăm dọa" của Hoa Kỳ đối với tổng thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt ở tại bộ chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy để giới hạn bước tiến của quân đảo chính - điệp viên Russ Miller khuyên đại tá Thi nên thượng lượng với ông Diệm, trong khi biết rõ quân ủng hộ chính phủ của đại tá Trần Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái độ trở mặt của CIA, lưới tình báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được giới thiệu vào làm việc (do Trần Kim Tuyến giới thiệu); người tài xế không điếc mà còn thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp!




Từ mùa xuân năm 1963 ông Nhu yêu cầu CIA đừng nói lại những gì ông và CIA trao đổi. Và qua nhiều lần nói chuyện với CIA, ông Nhu tuyên bố ông muốn thay tổng thống Diệm! Trong khi đó bà Nhu thì thường làm hùng làm hổ với tổng thống Diệm: trong cuộc bầu cử Hạ Viện năm 1963, bà Nhu muốn ủng hộ 30 ứng cử viên mà ba ta ưng ý. Ông Diệm không đồng ý, nhưng bà Nhu "cằn nhằn, to tiếng" cho đến khi tổng thống Diệm nhượng bộ. Bà Nhu cũng thắng thêm một lần nữa, khi đòi làm người chủ tọa và đọc diễn văn ngày Lễ Hai Bà Trưng - thay phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ như ông Diệm đã chỉ định. Riêng về ông Ngô Đình Cẩn: ông Cẩn từ chối không ủng hộ hay giúp ông Nhu về Chương Trình Ấp Chiến Lược ở Miền Trung.

Ngày Lễ Quốc Khánh Hoa Kỳ, 4 tháng 7-1963, lần đầu tiên tổng thống Diệm cho phép các tướng lĩnh VNCH tham dự tiệc ăn mừng do tòa đại sứ tổ chức. Sau tiệc rượu ở khuôn viên tòa đại sứ Hoa Kỳ, một vài tướng lĩnh VNCH và nhân viên CIA kéo nhau ra quán để uống nữa. Tại quán rượu, tướng Trần Văn Đôn nói với nhân viên CIA là các tướng muốn đảo chính tổng thống Diệm. Thảm kịch của Nhà Ngô bắt đầu từ đó.


Tài liệu thứ hai

CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam (CIA và Các Tướng Lĩnh: Những Hỗ Trợ Ngầm Cho Chính Phủ Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa)


Các tướng lĩnh miền Nam

Tài liệu trong CIA & Generals bắt đầu sau cuộc đảo chính 1 tháng 11-1963. Những gì đến từ tài liệu cho thấy ngay sau đảo chính, như một tập thể, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không được hòa thuận; và, như những liên hệ cá nhân, các tướng đã nghi kỵ, ngờ vực lẫn nhau trước khi đảo chính.

Trước khi đảo chính, tướng Nguyễn Khánh đã nói xấu về hai tướng Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm với tổng thống Diệm và một số nhân viên CIA. Qua nhiều chi tiết, chúng ta thấy các tướng làm việc chung vì phải tựa vào nhau để mưu cầu lợi quyền lợi riêng, chứ không thật sự có chung một lý tưởng. Trước ngày tướng Khánh "chỉnh lý" tướng Minh và bốn tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, và Trần Văn Đôn, tướng Khánh thường xuyên rỉ tai với CIA về tin đồn những tướng nói trên sẽ theo Pháp để biến Việt Nam thành trung lập.

Tháng 2-1964 tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đưa nhiều sĩ quan thuộc Đảng Đại Việt nằm vào những chức vụ quan trọng trong quân đội. Khi được hỏi để làm gì, tướng Thiệu trả lời để triệt hạ cộng sản và những thành phần thân cộng. Nhưng CIA có nguồn tin cho biết ông Thiệu sẽ dùng sĩ quan Đại Việt để đảo chính ông Khánh. Và chuyện xảy ra đúng như vậy. Tướng Khánh rất ngây thơ khi "hù" tướng Thiệu là Mỹ sẽ "chơi" ông. Nhưng, như chúng ta đã thấy, Mỹ chơi ông Khánh trước ông Thiệu!




Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong một trận đánh gần Cai Lậy ngày 25.8.1972

Chân dung một số vị tướng

Những chi tiết được giải mật trong CIA & Generals: Trong các tướng VNCH, CIA kính trọng kiến thức của tướng Lê Văn Kim nhất. Trong một buổi thuyết trình về các kế hoạch "kín" đang thực hiện trên đất Bắc, trong khi mặt tướng Dương Văn Minh "ngớ" ra với những chi tiết tình báo quân sự, tướng Kim lấy được sự kính trọng của tình báo Hoa Kỳ với những câu hỏi rất chuyên nghiệp.

Tướng Nguyễn Đức Thắng được người Mỹ kính nể. Trong một báo cáo, Giám Đốc CIA Richard Helms đề nghị cho tướng Thắng cùng một lúc giữ hai Bộ Quốc Phòng và Xây Dựng Nông Thôn, với tất cả cơ cấu và cố vấn Hoa Kỳ "nằm dưới quyền thống thuộc của tướng Thắng."

Về tướng Nguyễn Ngọc Loan, mặc dù người Mỹ không thích tướng Loan vì sự thẳng thắn của ông, nhưng họ nhận định tướng Nguyễn Ngọc Loan là một người thật thà, can đảm, biết được ẩn ý của người Mỹ. Tướng Loan không sợ khi nói thật ý nghĩ của ông với tình báo Mỹ. Đầu năm 1967, khi biết được Hoa Kỳ đang đi sau lưng chính phủ VNCH, liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông Loan nói với CIA là người Mỹ từ đây sẽ đi sau lưng người quốc gia ... và sau cùng người Mỹ sẽ bỏ đi, chỉ còn VNCH một mình đơn thân chống lại Bắc Việt.

Cuối năm 1966 Hoa Kỳ có ý định "bắt liên lạc" với một vài nhân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Lý luận của CIA là họ muốn xâm nhập vào nội bộ để gây chia rẽ giữa cấp lãnh đạo MTGPMN và Hà Nội. Muốn lấy lòng tin của MTGPMN, CIA xin chính phủ VNCH phóng thích vài nhân sự quan trọng của MTGPMN đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ của Trần Bạch Đằng (bà Mai Thị Vàng) và Trần Bửu Kiếm (bà Phạm Thị Yến), và một số cán bộ giao liên.

Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng vì áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với MTGPNM. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng -1968, VNCH thả bà Vàng và bà Yến, cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Đổi lại, phía MTGPMN chỉ thả ba tù binh Hoa Kỳ. Nhưng từ đó VNCH - nhất là tướng Nguyễn Ngọc Loan - thấy Hoa Kỳ sẵn sàng "xé lẻ" nếu tình thế phù hợp với đường lối ngoại giao của họ.

Qua các tài liệu giải mật sau này, chúng ta thấy CIA có một hồ sơ rất chi tiết về nhân sự và cơ cấu của MTGPMN. Thêm vào đó, CIA cũng có luôn những báo cáo của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam (là hậu thân của MTGPMN từ tháng 6-1969) gởi về cho Trung Uơng Cục Miền Nam, cập nhật những diễn tiến ở Hội Đàm Paris 1968-1973.






Cảnh di tản ở Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn ngày 30.4.1975

Nội bộ Việt Nam Cộng Hoà







Sự xâm nhập sâu sẵ nhất là vào khoảng thoài gian sau cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967). Vì kết quả bầu cử phải được Hạ Viện VNCH chứng nhận hợp pháp - nhất là một cuộc bầu cử mà hai ứng viên cùng chung liên danh (Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ), đã cấu xé nhau trước khi ngồi lại với nhau, và hầu hết liên danh thất cử nào cũng phản đối kết quả - Hoa Kỳ chỉ thị cho CIA phải tìm mọi cách bảo đảm Hạ Viện sẽ chứng nhận kết qủa bầu cử. Hạ viện bỏ phiếu thuận 58 trên 43, xác nhận liên danh Thiệu-Kỳ đắc cử.


Tài liệu trong CIA & Generals nói tình báo Mỹ đã khuynh đảo một số dân biểu trong hai bầu cử tổng thống 1967 và 1971 (và bầu cử Quốc hội của năm 1970). CIA mua chuộc được 10 dân biểu, "nhưng muốn có thêm 10 tiếng nói" ủng hộ nữa, để chắc ăn về những dự luật đang nghị luận! Tài liệu cho biết CIA đã tốn bao nhiêu tiền để thành lập hay giúp đỡ các đảng phái chính trị với hy vọng các lực lượng này sẽ ủng hộ và xây dựng một thế lực phía sau tổng thống Thiệu. Đảng Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc, (của thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn) được CIA tài trợ với hy vọng trên. Nhưng khi biết được người đứng ra tổ chức là Đặng Đức Khôi - một thân tín của ông Kỳ - ông Thiệu từ chối ủng hộ. Để có một tổ chức riêng, ông Thiệu cho ra đời Lực Lượng Dân Chủ.

Sau Đảng Dân Chủ, CIA tài trợ một lực lượng chính trị khác, có tên Đảng Liên Minh Cách Mạng Xã Hội, với hy vọng gom lại tất cả lực lượng chính trị thành một mặt trận chung, dưới sự lãnh đạo chung của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ. Nhưng vấn đề là hai ông Thiệu, Kỳ không còn muốn xuất hiện chung với nhau ngoài công cộng! Sau cùng, với sự nài nỉ của người Mỹ, và vì lợi ích quốc gia, Khối Liên Minh được khai mạc ngày 4 tháng 7-1968, với sự chủ tọa của hai ông Thiệu và Kỳ.

Khối Liên Minh tập họp hơn 25 đảng phái chính trị lớn nhỏ ở Miền Nam. CIA tài trợ Đảng này cho đến cuối năm 1969. Tuy nghe theo lời cố vấn của Hoa Kỳ, nhưng tổng thống Thiệu lúc nào cũng nghi ngờ dụng ý của người Mỹ. Ông nói với nhân viên CIA là không những VNCH phải đương đầu với sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào Nam, mà còn phải đương đầu với sự xâm nhập của CIA vào nhân sự của chính phủ!




Những tiết lộ khác trong CIA & Generals: Tình báo của MACV biết rõ ngày giờ Bắc Việt sẽ tấn công qua vùng Phi Quân Sự trong trận tổng công kích Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nhưng Hoa Kỳ không thông báo cho VNCH, hay tấn công vào các đơn vị Bắc Việt đang tập trung quân. Ngược lại, thái độ của đại tướng Creighton Abrams và đại sứ Bunker rất lạc quan, hai ông tuyên bố - trong cao điểm của cuộc tấn công - là Bắc Việt sẽ mất hết quân sau trận tổng tấn công. Những chi tiết này làm người đọc không khỏi thắc mắc, là có phải Hoa Kỳ đã cố ý để cho cuộc tấn công xảy ra? Chi tiết này làm cho đọc giả nhớ lại câu đối thọai của tổng thống Richard Nixon với Henry Kissinger là "... sau trận này, hai bên phải có một bên hết quân."

Từ tháng 8-1972, để chuẩn bị cho những thương lượng sau cùng của Kissinger và Lê Đức Thọ ở Paris, CIA được lệnh phải làm hao mòn sức chống đối của tổng thống Thiệu về một số điều khoản trong bản hiệp định (một trong những điều khoản ông Thiệu cực lực phản đối, là Hoa Kỳ đồng ý cho Bắc Việt để lại quân ở Miền Nam, Lào, Cam Bốt). Một số tài liệu giải mật ở giai đoạn này (tháng 8 1972 cho đến lúc ký Hiệp Định Paris, tháng 1-1972) cho thấy CIA có điệp viên nằm trong Trung Ương Cục, qua những tin tức họ nhận được về cuộc nói chuyện giữa Lê Đức Thọ và Kissinger.

Tuy là tài liệu được giải mật, nhưng một số lớn chi tiết, tên tuổi của những điệp viên, điềm chỉ viên trong sách vẫn còn bị kiểm duyệt. Nhưng nếu độc giả gom những chi tiết trong CIA & Ngo, trong CIA & Generals, và so sánh với một số tài liệu đã được giải mật từ Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States, Vietnam), đọc giả có thể suy luận ai là ai nằm dưới những lằn đen kiểm duyệt.

Xem chi tiết tại

http://www.bloggiowind.tk

http://www.giowind360.tk

http://www.giowind100.tk





Bonus:HƯƠNG LÒNG DÂNG TẶNG CỐ TỔNG THỐNG DIỆM

Mùa thu khởi điểm kết liễu miền Nam tự do

Mùa thu ấy, vào sáng 02/11/1963, chiến tuyến chống cộng miền Nam, nơi quy tụ cuối cùng của lực lượng quốc gia chống cộng đã mất đi một con người của phép lạ của các năm 1954 - 1956, đó là Tổng Thống Diệm, một tiên khởi của VNCH, một niềm kiêu hãnh và tướng tiên phong đương cự với xâm lăng CSVN và Đệ III Quốc Tế CS. Để rồi kể từ ngày ấy, cuộc chiến đấu cho tư do bị cướp mất chính nghiã và cuối cùng thua cuộc. Nhắc đến một thu cũ của niềm đau. Nay một thu nữa lại về, gợi lại thu xưa. Xin thắp một nén hương lòng tưởng niệm và vinh danh một tinh thần.

Vịnh Con Heo: Niềm đau của các chiến sĩ tự do Cuba

Ngày 17/04/1961, vào lúc 2 giờ sáng, khoảng 1' 500 chiến sĩ di cư Cuba chống Fidel Castro, được huấn luyện tại Guatamala và Nicaragua, bắt đầu đổ bộ tại hai bãi biển Playa Girón và Playa Larga của bờ biển có tên Con Heo. Bờ biển nầy nằm ở phía nam thủ đô La Havane và xa cách 200 km. Dùng lữ đoàn 2506 với mật mã I.D. (Invasion Day). Sau 72 giờ giờ chiến đấu (vào ngày 20/04/1963), thành phần đổ bộ mất 90 lính do tử thương và 1179 lính bị bắt và bị kết án 30 năm tù. (Sau nầy Mỹ chuộc họ bằng viện trợ cho Fidel Castro 63 triệu Mỷ Kim hồi ấy, để mua máy cày và thuốc men). Cuộc đổ bộ thành thảm thương, ngoài lý do tình báo Mỹ sai lầm, vì TT Kennedy không cho phép không quân và hải quân Mỹ yểm trợ. Nên lực lượng đỗ bộ đã bị 200’ 000 quân của Fidel Castro tiêu diệt bằng phi cơ, chiến xa và trọng pháo. Thanh gươm của TT Kennedy bị gãy. Ngoài ra vào ngày 28/10/1963, TT Kennedy dùng cành ô liu qua tuyên bố cam kết không tấn công và tháo gỡ các tên lửa Jupiter đặt tại Thổ Nhĩ Kỳ hướng vào Nga như đổi chác để Nikita Khrouchtchev rút các hỏa tiễn từ Cuba về nước Nga. Nông nỗi nầy do ai?

Trung lập Lào - Niềm đau của TT Diệm và các chiến hữu Lào

Người Pháp suốt cả một chiều dài lịch sử 80 năm cai trị, không bao giờ thành thật với Việt Nam. Nhưng truớc lúc rời khỏi Việt Nam, vào năm 1956, đã để lại một di chúc cho lực luợng chống cộng miền Nam: “ CSVN và CS Quốc Tế sẽ xâm lăng miền Nam tự do qua ngã Lào”. TT Einsenhower truớc lúc rời khỏi chức vụ đã nhắc nhỡ TT Kennedy: “ Lào là vòm trời bảo vệ tự cho miền Nam. Có thể quân đội Mỹ sẽ phải chiến đấu tại đây”. Nhưng TT Kennedy cương quyết trung lập hóa Lào, để rút chân ra khỏI nơi đây. Trong lúc quân CSVN đang tìm cách xâm lăng tạo địa bàn chuyển quân và vũ khí vào Nam cho cuộc xâm lăng (1960-1975).

TT Diệm, cùng đồng quan điểm với TT Eisenhower và di chúc Pháp: “ CSVN sẽ dùng đất Lào để chuyển quân vào miền Nam”, đã đáp lởi kêu gọi khẩn trương của tướng hữu phái chống cộng Phoumi của Lào quốc. Ông nôn nóng xin TT Diệm quân viện và TT Diệm đã đáp lời qua lệnh mở các kho vũ khí do Pháp để lại. Nhưng TT Kennedy cương quyết không dùng thanh gươm và nhất định cắm cành ô liu tại Lào qua Hiệp Định trung lập Lào vào tháng 07/1962. Tất cả các lực lưỡng chống cộng phải rút khỏi Lào và CSVN ở lại. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cực lực phản đối quyết định trên và từ đó mối tình Việt Mỹ trở nên thù nghịch tới chỗ phải hạ hạ sát TT Diêm sau nầy.

Riêng các chiến sĩ hữu phái như tuớng Phoumi Nosavan và các tuớng lãnh khác phải lao đao chống đỡ các hiệu quả của cái Hiệp Định ác quái và ngu ngốc cũng như làm tàng của Mỹ. Rồi khi Đệ I Cộng Hoà miền Nam, người bạn độc nhất và tận tụy với họ, bị TT Kennedy tàn sát còn tàn nhẫn hơn khi ông tàn sát họ. Họ trở thành cô đơn và rơi vào tuyệt vọng. Tướng Phoumi Nosavan rời quê hương để rồi mất tại Thái Lan sau đó (1964). Kennedy và tội ác giết nền Đệ I Cộng Hoà miền Nam non trẻ và sát hại TT Diệm cùng hai bào huynh của TT Diệm!

Thanh gươm và cành ô liu của TT Kennedy tại Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu chính trị đồng thanh về sách lược của TT Kennedy như sau: “ Ứng biến tùy khi! Hôm nay thế nầy. Mai thế nọ của năm 1963!. Từng hồi- Gián đoạn- Tất cả trái ngược của một chiê’n lược chính trị có suy nghĩ và cương quyết. Trong thời kỳ của chính phủ Kennedy,chỉ có thuyết nhị nguyên liên tại (dualisme persiste): “Their War-Our War”. Cuộc chiến của chúng nó- Cuộc chiến của chúng ta ». Không quan tâm tới sự cương quyêt xâm lăng của cộng sản Việt nam trong suốt chiều dài của nhiệm kỳ, TT Kennedy chỉ đối mặt với ba chọn lựa chính:

1. Có nên nhúng tay vào Việt Nam để tránh cộng sản chiến thắng không?
2. Có nên ủy thác quân bộ chiến Mỹ hoàn thành nhiệm vụ ấy không?
3. Có nên dành ưu tiên cho giải pháp quân sự chống cộng sản hay cho giải pháp cải thiện chính trị cần thiết hầu được sự ủng hộ của dân chúng miền Nam không?

Sự ngớ ngẫn về tinh thần chống cộng của bọn chính trị xa lông ở Miền Nam Việt Nam đã tạo ra sự nghi ngờ nầy cho chính quyền Kennedy.

Một đêm với TT Diệm qua ghi chép của Nguyễn Mẫu:

1.- « Quốc gia đang trải qua một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Quân lực ta thiếu cán bộ. Các tướng lãnh được người Pháp đặt để trong ý thức dùng thâm niên quân vụ như một yếu tố hợp lý cho sự tùng phục để chỉ huy. Quân đội cần những tướng lãnh có học, có tài, có óc hơn cái gọi là thâm niên quân vụ… »

2.- « Ta cần thời gian để xây dựng quân đội và kiện toàn tổ chức quốc gia hầu ứng phó với CSVN».

3.- « Họ (Mỹ) muốn lật đổ chế độ này để cho lính Mỹ vào Việt Nam. Việt Nam không cần lính Mỹ mà chỉ cần duy trì các quan hệ chính trị quốc tế hiện hữu, dành thời gian cho quân lực trường thành và cho tồ chức quốc gia kiện toàn từ trên xuống dưới »

4.- «Lính Mỹ đến. Lính Mỹ không dẹp được du kích CS. Lính Mỹ không ngăn chận được quân Bắc Việt vào Nam…. Lính Mỹ sẽ ra đi và lính Mỹ để lại xã hội Việt Nam băng hoại thui chột đạo đức cổ truyền ».

5.- « Lính Mỹ đền rồi lính Mỹ sẽ ra đi… Không, ta sẽ chết ở đây cho quê hương. Không, ta sẽ chết ở đây cho đồng bào ruột thịt, Bắc Nam cũng như nhau ».

Những lời nói chót của TT Diệm

1.- Vào một buổi tối, trời đã khuya, TT Diệm đi bách bộ bộ trong vườn, tùy viên Lê Công Hoàn nghe TT nói đi và nói lại một một mìnhnhiều lần: « Sau nhiệm kỳ nầy thì mình xin nghỉ, cũng đã ngoài 60 mươi. Xin nghỉ để về lo phụng dưỡng bà cụ. Ở xa mãi chắc bà cụ cũng buồn ».

2.- Riệng đối với Đại Sứ Cabot Lodge ra mặt chủ động và hách dịch, TT Diệm đập mạnh tay xuống bàn và nói qua sự giận dữ tột độ: « Ông nên nhớ rằng tôi vẫn còn là Tổng Thống của một quốc gia có chủ quyền. Tôi muốn ông phải nghe câu hỏi nầy của tôi, là người Mỹ các ông muốn gì ? Tôi sẽ ở đây, và nếu cần, tôi sẵn sàng chết cho danh dự Dân Tộc tôi ».

3.- Khi Thiều Tá Duệ nhờ tùy viên Lê Công Hoàn trình TT Diệm: « Xin sử dụng toàn bộ lực luỡng lữ đoàn, gồm cả thiềt giáp, đánh chớp nhoáng… Phải đánh ngay để hốt gọn bộ tham mưu của họ trước khi cuộc đảo chánh thu hút thêm những đơn vị khác. Lưc luỡng của lữ đoàn sẽ không khó khăn gì nhiều trong việc áp đảo tân binh quân dịch (hình như nhóm quân nầy tới từ TTHL Quang Trung ? ». TT Diệm sau khi nhìn bào đệ Ngô Đình Nhu rồi trầm ngâm: « Đã đành thì thế nào cũng đổ máu. Rồi vợ con của những đứa bị chết, bị thương sẽ ra sao ? Tiết kiệm xương máu để đánh thằng CS không lợi ích hơn hay sao ? Mi nói với Duệ gọi cho họ coi họ muốn gì ở nơi chính phủ ? Nói Duệ đừng có hành động gì nóng nảy ».

4.- Vào lúc 11 giờ 30 tối ngày 01/11/1963, TT Diệm hội tùy viên Đỗ Thọ và Lê Công Hoàn lại và dặn: « Hai đứa mi, một đứa đi theo tau, một đứa ở lại lo việc canh phòng dinh ». Rồi vào lúc 4 giờ sáng, tùy viên Đỗ Thọ gọi về cho tùy viên Lê Công Hoàn và chuyển lệnh của TT Diêm không biết đang ở đâu: « Nếu hôm nay họ có kéo đến đánh dinh thì nói anh em đừng kháng cự, tránh mọi cuộc đổ máu ». Sau chẳng bao lâu TT đã trở thành người thiên cổ bên cạnh xác cố vấn Nhu, đầy máu me và vết đạn cũng như vêt dao găm, trong thiêt vân xa.

Thời gian và chất liệu đã đủ để ghi công một con người

Từ dạo ấy tới nay đã 45 năm trôi qua. Một chiều dài thời gian, tuy ngắn so với lịch sử của một dân tộc, được xem như đã khá dài so với chiều dài của một đời người. Một khoảng thời gian được xem khá đủ để làm lắng đọng những nét nóng bỏng do các sự kiện đã tạo ra nơi quần chúng. Cũng với thời gian qua, các chất liệu thông tin xem như khá đầy đủ để cho phép có một cái nhìn bao quát về cuộc hành trình của cố TT Diệm trên đường phục vụ quê hương. Lịch sử chỉ có nhiệm vụ ghi lại một cách đúng đắn về cuộc đời một nhân vật cùng các việc họ đã làm được, gồm tốt lẫn xấu. Những nhận xét phải thật công tâm và phải có nền tảng dựa trên các sự kiện có thật. Xuyên suốt cuộc đời của cố TT Diệm là một hành trình phục vụ quê hương. Vào thời điểm của năm 1954, tại miền Nam không ai có thể hơn cố TT Diệm được từ qúa khứ tới con người. Tuy thế, tới nay vẫn còn một bài viêt nặng mùi hẳn học, cay cú và nhục mạ cố TT Diệm. Đó là những nhận xét đầy cảm tính và lệch lạc.

Không ai có thể chối cãi đuợc là cố TT Diệm, lúc về chấp chánh vào tháng 6 năm 1954, đã phải chấp nhận một di sản hấp hối, xem như tuyệt vọng của nmiền Nam. Nhưng đã tạo được những thành tích vẻ vang: Đón tiếp và an cư lạc nghiệp gần 1’ 000’ 000 đồng bào di cư từ Bắc vào Nam. Tiếp đến khai trương một thể chế dân chủ đầu tiên cho Việt Nam. Và cố TT Diệm đã tạo đuợc sự kính nể của nhiều quốc gia trên thế giới đối với chính phủ dân chủ miền Nam non trẻ. Miền Nam Việt Nam từ trước tới nay chỉ có 9 năm dân sung suớng và an lành duới một thể chế dân chủ đầu tiên. Thời gian dưới sự lãnh đạo cửa cố TT Diệm ( 1954 – 1963).

Vào lúc CSVN, được CS quốc tế yểm trợ từ vật chất tới tinh thẩn, đang tấn công mãnh liệt vào miền Nam. Thanh gươm và cành ô liu của cái chính phủ thuộc loại ngu ngốc nhất của Mỹ đã gieo rắc tan nát từ Cuba, qua Lào, rồi tới miền Nam Việt Nam. Bất hạnh chồng chất bất hạnh, cũng thanh gươm ấy đã sát hại cố TT Diệm và hai bào đệ của Ông. Nhưng chính phủ ấy đã không có can đảm nhìn nhận đã ra lệnh ấy. Một tồi tàn của tận đáy của tồi tàn.

Tưởng niệm và vinh danh tinh thần Ngô Đình Diệm

Gần ba chục năm gian khổ tìm đường sống cho dân tộc và quốc gia miền Nam Việt Nam, cố TT Diệm đã tạo được một ý thức cao độ về ý niệm danh dự, uy tín và chủ quyền của quốc gia Việt Nam. Trong tương quan với nước Mỹ, dầu là một quốc gia viện trợ sinh tử cho miền Nam chống cộng, nhưng cố TT Diệm đã chấp nhận cái chết, chứ quyết không chịu bất cứ một chà đạp nào trên danh dự của quốc gia Việt Nam. Cố TT Diệm đã chọn cho mình một tư thế cũa một thủ lãnh miền Nam Việt Nam trên trận tuyến chống cộng sản, quyết không phải cúi mặt khi thương thuyết. Suốt thời gian chấp chính 9 năm, cố TT Diệm đã không quản ngại vất vả và nguy hại tới tính mệnh, luôn kinh lý tìm hiểu tầt cả sự tình dân gian. Một vị Tổng Thống có một không hai dùng đồng lương của mình để ủng hộ xây đắp chùa chiền và hàn huyên với các chân tu tại chùa Từ Đàm khi có dịp về Huế. Một vị Tổng Thống luôn chấp nhận thiệt thòi cho chính bản thân, để tránh đổ máu cho lính tráng trong chính biến 63. Sự thiệt thòi nầy được thể hiện qua nấm mộ sơ sài của Ông tại Lái Thiêu.

Cố TT Diệm đã để lại cho hậu thế một di sản cao quý: Vì dân, vì nước hy sinh tính mạng mình. Trong hàng ngũ các nhà dân chủ hôm nay, thử hỏi có bao nhiêu người can đảm chấp nhận thái độ quyết liệt và dứt khoát như cố TT Diệm, khi phải đối phó với kẻ thù đáng sợ nhất?

Theo Hồng Lĩnh (Thx Tiến Huy for entry)

Friday, May 15, 2009

TỰ DO

TỰ DO
Tự do của tôi
Ngày ngày tôi vẫn đi trên đường phố
Vẫn vô tư , hít thở với ống bô
Ngày ngày tôi vẫn nhìn đống rác hôi trên phố
Nhìn cảnh sát giao thông ...
Chặn xe nhận hối lộ
Tôi nhìn đời sống đêm hoang vô độ
Nhìn những kẻ thế cô .
Vạ vật trên hè phố
Nhìn đêm đen che dấu những xô bồ
Có cán bộ công an và những tên vô lại giang hồ
Trao nhau những tờ giấy có in hình gọi là (Đô)
Người phu quét đường , hững hờ nhìn lũ đồ phế thải
Một thời kỳ tâm linh tan nát
Mùi rác, mùi khói xe, kẻ ăn mày
Ma cô ,đĩ , điếm ,xì ke
Những ông già cặp kè cô gái trẻ trả giá bên đường
Tất cả là tự do cho một định hướng
Tự do đó là phần thưởng cho những kẻ u mê
Tôi về mơ trong giấc ngủ ... tôi lạc vào rừng hoang
Không có sinh vật Người làm bạn
Chỉ có tôi và cây cỏ Tôi cũng chưa tự do
Vì tự do là xoá bỏ cái ác
Không phải là trốn tránh ... Hay cùng cái ác song hành
Ôi đáng thương vô cùng cái tự do
Sống dưới bàn chân cái ác

Tuesday, May 5, 2009

so sánh báo cáo nhân quyền của bộ ngoại giao Mỹ và VN

http://www.talawas.org/?p=3760

Cơ quan đặc trách về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc trước đây chỉ là một Ủy hội (Commission), trực thuộc Hội đồng Kinh tế Xã hội. Năm 2005, Đại Hội đồng LHQ đã quyết định sửa Hiến chương, và nâng Ủy hội thành Hội đồng Nhân quyền, HRC (Human Rights Council), gồm 47 quốc gia hội viên, từ ngày 15 tháng 3, 2006.

Sau hơn một năm làm việc, vào ngày 18 tháng 6, 2007, HRC chấp thuận một số biện pháp mới, nhằm mục đích thực thi nhân quyền trên toàn thế giới. Một trong các biện pháp này là thể thức “Kiểm điểm định kỳ”, viết tắt là UPR (Universal Periodic Review). Theo thể thức mới này, bắt đầu từ năm nay, tất cả 192 quốc gia hội viên LHQ, cứ bốn năm một lần, phải báo cáo về thực trạng cũng như các biện pháp để bảo vệ nhân quyền tại nước mình, trước đại hội của Hội đồng họp tại trụ sở chính ở Genève. Trong dịp này, nước báo cáo có thể bị các thành viên của Hội đồng, cũng như các tổ chức ngoài chính phủ trên thế giới hoặc từ nước mình chất vấn.

Đại diện Việt Nam chính thức trình bầy “Báo cáo nhân quyền” của mình vào ngày 8 tháng 5, 2009. Trước đó, theo thể lệ, Hà Nội đã công bố bản báo cáo này vào ngày 23 tháng 4, trên website của Bộ Ngoại giao, để dư luận có đủ thì giờ chuẩn bị phản bác.

Có vài điều đáng chú ý về báo cáo của Việt Nam:

1. Mọi người đều biết, Đảng Cộng sản nắm vai trò độc quyền lãnh đạo ở Việt Nam, trên cơ sở luật pháp (Điều 4 HP), cũng như trên thực tế. Người dân thường được nghe trong các bài diễn văn “nhờ Đảng và Chính phủ”; các biểu ngữ chăng khắp nơi vào mỗi dip Tết cũng “Mừng Đảng, Mừng Xuân”. Nhưng suốt từ đầu tới cuối bản báo cáo dài 20 trang, không có chữ nào đề cập tới vai trò của Đảng. Tại sao? Người ta thường nói “đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lại”, phải chăng vì quá biết mình, nên Đảng lặn kỹ?

2. Hầu như mọi điều trong báo cáo của Việt Nam đều tốt đẹp. Có vài điều khó khăn, được coi là do hậu quả chiến tranh để lại. Tuy nhiên, hai tháng trước, ngày 25 tháng 2, 2009, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo về nhân quyền tại tất cả các nước trên thế giới, trong đó, phần nói về Việt Nam dài tới 38 trang, với nhận xét chung là tình trạng nhân quyền tại Việt Nam “chưa thỏa mãn”.

Cùng nói về thực trạng nhân quyền tại Việt Nam, mà hai bản báo cáo nói trái ngược nhau. Sự thật chỉ có một. Vậy, giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, chắc chắn có một bên báo cáo láo. Người viết xin nêu ra một số trích dẫn sau đây, để mời bạn đọc đóng vai quan tòa, xem bên nào nói láo:

Việt Nam báo cáo:

Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra với các chức năng lập hiến, lập pháp, hoạch định chính sách phát triển đất nước và giám sát các hoạt động của Nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong đó có Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát và kể cả của Chủ tịch nước đều chịu sự giám sát của Quốc hội.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Các cuộc bầu cử gần đây nhất để lựa chọn các thành viên của Quốc hội đã được tổ chức vào tháng 5, 2007. Các cuộc bầu cử đã không tự do và cũng không công bằng, do toàn bộ các ứng viên đều do MTTQ lựa chọn và đề cử. Mặc dù ĐCSVN đã thông báo trước đấy rằng một số lượng lớn ứng cử viên “độc lập” (những người không liên kết với một tổ chức hoặc một nhóm nào) sẽ được tham gia ứng cử, tỉ lệ ứng cử viên tự do chỉ hơi cao hơn lần bầu cử năm 2002. ĐCSVN đã đồng ý cho 30 ứng cử viên “tự đề cử”, gồm những người không có sự ủng hộ của chính phủ nhưng được phép ứng cử. Đã có báo cáo đáng tin cậy rằng cán bộ Đảng đã gây áp lực để nhiều ứng cử viên tự đề cử từ bỏ ý định tranh cử hoặc viện ra lý do là họ “không đủ điều kiện” để tranh cử.

Việt Nam báo cáo:

Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng việc bảo đảm cho mọi người dân quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao (hơn 99%) tại kỳ bầu cử Quốc hội khoá XII, tháng 5/2007, cho thấy người dân ngày càng ý thức rõ hơn về quyền của mình và vai trò quan trọng của Quốc hội trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Theo chính phủ, đã có hơn 99% của 56 triệu cử tri đủ tư cách bầu cử đã tham gia bỏ phiếu, một con số mà các nhà quan sát quốc tế đã cho rằng quá cao và thiếu cơ sở. Cử tri được chính quyền cho phép bỏ phiếu hàng loạt giùm cho các người khác, và chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm tất cả các cử tri đủ điều kiện đi bầu phải tham gia bằng cách tổ chức bầu theo nhóm và toàn bộ cử tri trong khu vực được ghi nhận là đã bỏ phiếu. Việc làm này được xem là làm mất đi sự minh bạch và công bằng của quá trình bầu cử.

Việt Nam báo cáo:

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý tổng thể mọi lĩnh vực đời sống xã hội cũng như đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp luật. Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật cũng như mọi lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương thông qua cơ quan chấp hành là Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu ra.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Tất cả quyền hành và quyền lực chính trị đều nằm trong tay ĐCSVN, và Hiến pháp đã công nhận quyền lãnh đạo của ĐCSVN. Những phong trào đối kháng hoặc các tổ chức chính trị đều không hợp pháp. Bộ Chính trị ĐCSVN hoạt động như một cơ quan công quyền tối cao mặc dù đúng ra phải chịu sự giám sát của Uỷ ban Trung ương ĐCSVN.

Việt Nam báo cáo:

Với các chức năng tư pháp, Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Luật pháp qui định tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm viên nhưng trên thực tế ĐCSVN điều khiển hệ thống toà án ở mọi cấp một cách hiệu quả bằng cách nắm quyền bổ nhiệm thẩm phán và những cơ cấu liên quan. Trong rất nhiều vụ án ĐCSVN là người quyết định bản án. Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các thẩm phán đều là đảng viên ĐCSVN và được đề bạt một phần là dựa trên quan điểm chính trị của họ. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp lý đã bị lũng đoạn rất nhiều do ảnh hưởng chính trị, việc tham nhũng cục bộ và thiếu khả năng. Ảnh hưởng của ĐCSVN đặc biệt nổi bật trong những vụ án lớn trong đó bị cáo bị truy tố là thách thức hoặc gây tổn hại đến ĐCSVN và nhà nước.

Việt Nam báo cáo:

Tính minh bạch và dân chủ của hệ thống Nhà nước cũng được tăng cường thông qua vai trò phản biện xã hội của hệ thống báo chí, truyền thông và các đoàn thể nhân dân. Báo chí Việt Nam trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân và là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan Nhà nước, góp phần mạnh mẽ vào quá trình chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam…

Quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân đã có sự đổi mới tích cực. Từ 2006 đến 2008, tỷ lệ giải quyết tố cáo khiếu nại của các cơ quan hành chính đạt 83,2%; các cơ quan thi hành án dân sự địa phương 92,5%. Pháp luật cũng quy định việc đền bù thiệt hại về vật chất và tinh thần cho những người bị oan sai.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Luật pháp qui định tội hình sự đối với quan chức thức tham nhũng; tuy nhiên chính phủ đã không luôn thực hiện các luật định một cách hiệu quả và đôi khi cán bộ tham nhũng được bao che. Tham nhũng vẫn tiếp tục là một vấn đề nghiêm trọng…

Bộ luật chống tham nhũng cho phép công dân được công khai khiếu nại về sự làm việc thiếu hiệu quả của chính phủ, thủ tục hành chính, tham nhũng, và chính sách kinh tế. Trong những lần trao đổi trực tuyến qua mạng với lãnh đạo cấp cao của chính phủ, công dân đã đặt thẳng những câu hỏi về những nỗ lực chống tham nhũng. Tuy nhiên, chính phủ tiếp tục xem việc công khai chỉ trích chính trị là phạm pháp, trừ khi những lời chỉ trích đã được kiểm soát bởi chính quyền. Nỗ lực tổ chức những người có khiếu nại để tạo điều kiện làm việc có hiệu quả đã được xem như là hoạt động chính trị trái phép và và có thể bị bắt bớ…

Có rất nhiều báo cáo về tham nhũng trong giới chức trách và chính phủ thường thiếu minh bạch trong cách thức tịch thu đất đai và dời dân để sửa soạn cho những công trình hạ tầng cơ sở. Theo luật pháp, người dân phải được bồi thường khi họ bị dời chỗ ở vì những công trình này, nhưng đã có nhiều than phiền ngay cả từ Quốc hội là việc bồi thường không đầy đủ hoặc chậm trễ. Sau những vụ biểu tình về quyền đất đai năm 2007, chính phủ thành lập một nhóm chuyên trách để thanh tra vài tỉnh miền Nam, nhưng ít có trường hợp của người đi kiện được giải quyết.

Việt Nam báo cáo:

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng. Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam), 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền con người. Người dân Việt Nam ngày càng tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người truy cập, chiếm 23,5% dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%). Ngoài hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân Việt Nam còn được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh truyền hình nước ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế lớn khác.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Luật pháp cho phép quyền tự do ngôn luận và báo chí; tuy nhiên, chính phủ vẫn tiếp tục giới hạn những quyền tự do này, nhất là đối với những phát biểu chỉ trích những nhân vật lãnh đạo nhà nước, quảng bá chính trị đa nguyên hay dân chủ đa đảng, hoặc đặt vấn đề về những chính sách mang tính nhạy cảm như nhân quyền, tự do tín ngưỡng, hoặc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc. Lằn ranh giữa ngôn luận cá nhân và công cộng vẫn tiếp tục được giải thích một cách tuỳ tiện…

ĐCSVN, chính phủ và những tổ chức quần chúng do Đảng kiểm soát đã kiểm duyệt tất cả các hình thức ấn loát, phát thanh, truyền hình, và báo điện tử. Qua Bộ Thông tin và Truyền thông (BTTTT), chính phủ kiểm soát và bổ sung quyền hành với những điều lệ của Đảng và điều luật an ninh quốc gia lớn mạnh để bảo đảm báo chí trong nước tự kiểm duyệt một cách hữu hiệu…

Mặc dù với sự tiếp tục tăng trưởng của những trang blog trên mạng, việc đàn áp tự do báo chí toàn khắp vẫn tồn tại trong suốt năm với kết quả là nhiều biên tập viên cao cấp bị đuổi và hai phóng viên bị bắt. Những hành động này làm dập tắt phong trào phóng sự điều tra xông xáo trước đó…

Chính phủ cấm dân chúng truy cập vào mạng qua những công ty cung cấp dịch vụ mạng ngoại quốc, họ cũng bắt các công ty cung cấp dịch vụ mạng trong nước lưu trữ tất cả những dữ kiện, tin tức gửi qua mạng trong ít nhất 15 ngày và đòi hỏi các công ty này cung cấp giúp đỡ kỹ thuật và văn phòng cho công an để họ dò xét các hoạt động trên mạng…

Trong khi dân chúng tận dụng việc truy cập mạng đang tăng trưởng chưa từng thấy, chính phủ vẫn kiểm soát thư điện, lục soát và dò xét những từ nhạy cảm và chặn những địa chỉ trên mạng có nội dung chính trị hay tôn giáo mà chính quyền cho là “phản cảm”…

Nhà chức trách dùng điều khoản 88 của luật hình sự về việc “phân phát tài liệu tuyên truyền chống phá nhà nước” để cấm dân chúng không truyền tải và phổ biến những tài liệu từ mạng mà chính phủ cho là vi phạm.

Nhà cầm quyền tiếp tục giam giữ và cầm tù những nhà bất đồng chính kiến đã dùng mạng Internet để phát biểu ý tưởng về nhân quyền và chủ nghĩa đa nguyên…

Việt Nam báo cáo:

Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng các đạo luật quan trọng và nhiều văn bản dưới luật liên quan, cụ thể là tại Điều 69 Hiến pháp 1992, và tại Nghị định số 88/ 2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Ở Việt Nam hiện có 380 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 115 vào năm 1990); 18 tổ chức công đoàn ngành, 6.020 tổ chức ở cấp địa phương, và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Chính phủ tuyệt đối cấm đoán việc tự do lập hội. Những đảng phái chính trị đối lập không được cho phép hoặc nhân nhượng. Chính phủ ngăn cấm tính hợp pháp của việc thành lập những tổ chức tư nhân độc lập và khuyến cáo người ta nên hoạt động trong những tổ chức quần chúng do Đảng lập sẵn, thường dưới sự che chở của MTTQ thuộc ĐCSVN. Tuy nhiên, đã có vài tổ chức bao gồm cả những nhóm tôn giáo không đăng ký đã có thể hoạt động ngoài khuôn khổ này mà không hoặc ít bị trở ngại với chính quyền…

Những thành viên của Khối 8406, một tổ chức chính trị chủ trương thành lập một chính quyền đa đảng đã tiếp tục bị sách nhiễu và giam cầm.

Việt Nam báo cáo:

Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em. Bên cạnh Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đang được tích cực triển khai, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em cũng được lồng ghép vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình. Các chương trình khám chữa bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả (khoảng 8,4 triệu trẻ, chiếm trên 90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí). Tỉ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao (năm học 2005 - 2006, tỷ lệ học sinh tiểu học đạt 95,04%, trung học cơ sở đạt 80,3%); tỷ lệ học sinh bỏ học giảm dần; nhiều chính sách quan tâm, ưu đãi được dành cho trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em di cư, trẻ em người dân tộc thiểu số… Cơ bản đã tạo được môi trường vui chơi giải trí an toàn, lành mạnh cho trẻ em (có khoảng 40% xã, phường và 80,3% số quận, huyện có điểm vui chơi cho trẻ em; 100% thư viện cấp tỉnh và 30% ở cấp huyện có phòng đọc dành cho trẻ em…). Trẻ em được tạo điều kiện bày tỏ ý kiến, tham gia vào hoạt động văn hóa, xã hội ở trường học và cộng đồng thông qua các diễn đàn quốc gia, quốc tế, Đội Thiếu niên Tiền phong, Câu lạc bộ Phóng viên nhỏ…

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Các tổ chức quốc tế và các cơ quan chính phủ tiếp tục tường trình rằng mặc dù chính phủ vận động bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các tổ chức chính phủ và quốc tế báo cáo rằng trẻ em tiếp tục có nguy cơ bị bóc lột kinh tế.

Giáo dục cho trẻ em dưới 14 tuổi là bắt buộc, miễn phí và không phân biệt. Dẫu vậy, qui định này không phải lúc nào cũng được các nhà chức trách tôn trọng, đặc biệt là ở các vùng quê nông thôn, nơi công quỹ và ngân sách gia đình cho giáo dục rất hạn chế; thêm vào đó, ở các vùng kinh tế nông nghiệp, trẻ em là một nguồn lao động đáng kể.

Có dư luận cho rằng trẻ em bị lạm dụng, tuy nhiên thiếu thông tin về mức độ của sự lạm dụng đó.Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), có khoảng 23.000 trẻ bụi đời dễ bị lạm dụng, và số trẻ này đôi khi bị công an ngược đãi và quấy nhiễu. Có 2 trung tâm trực thuộc LĐTBXH giúp đỡ các trẻ em nghèo túng. Các tổ chức trẻ cũng phát động các phong trào thu hút dư luận về vấn đề này.

Ở các thành phố lớn có trình trạng mãi dâm trẻ em, đặc biệt là trẻ em nữ, nhưng cũng có trẻ em nam. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, khá đông gái mại dâm dưới 18 tuổi. Một số trẻ em bị ép vào con đường mại dâm vì lý do kinh tế.

Việt Nam báo cáo:

Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, coi đó là một công cụ quan trọng để tiến tới công bằng và phát triển bền vững…

Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt 25,76% (nhiệm kỳ 2007-20011), đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có việc làm. Phụ nữ có mặt ở hầu hết các cơ quan hành chính và doanh nghiệp Nhà nước, với 68,7% cán bộ công chức và 30% chủ doanh nghiệp là nữ. Phụ nữ còn tham gia tích cực trong các tổ chức chính trị-xã hội và chiếm khoảng 30% trong ban chấp hành các cấp. Phụ nữ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất/quyền sở hữu nhà ở cùng với người chồng, được hưởng quyền bình đẳng như nam giới trong vấn đề quốc tịch. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn của nữ là 91%; 30% số người có trình độ sau đại học là nữ. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ là 73 trong khi nam giới là 70. Phụ nữ có quyền được nghỉ 4 tháng sau khi sinh con, hưởng nguyên lương và được phụ cấp thêm 1 tháng lương nữa.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Pháp luật cấm mãi dâm, tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều bất cập. Có nhiều những ước lượng khác nhau: báo cáo của chính phủ cho rằng có khoảng trên 30.000 gái mãi dâm trên toàn quốc, nhưng một số tổ chức phi chính phủ lại cho rằng con số này lên đến 300.000 trong cả nước, bao gồm gái mại dâm nghiệp dư hay làm theo thời vụ. Trong những năm trước, báo cáo cho rằng một số phụ nữ đã bị ép buộc vào con đường mại dâm, thường là nạn nhân của những hứa hẹn giả dối về những công việc có lương cao. Một số đông khác tự nguyện chọn con đường mại dâm vì tình trạng nghèo đói và thất nghiệp. Có một số trường hợp cá biệt bị cha mẹ cưỡng ép, hay đòi hỏi tiền bạc quá nhiều, buộc con gái mình phải làm mại dâm. Hội Phụ nữ, cùng với cái tổ chức phi chính phủ trong nước, đang tiến hành các chương trình giáo dục và cải tạo để ứng phó với các trường hợp lạm dụng này.

Mặc dù không bị kỳ thị trên pháp lý, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục bị kỳ thị ngoài xã hội. Mặc dù có rất nhiều điều khoản và qui định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong hôn nhân và ở nơi làm việc cũng như có nhiều điều khoản trong luật lao động bảo đảm ưu tiên cho họ, phụ nữ vẫn không đuợc đối xử công bằng.

Việt Nam báo cáo:

Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề dân tộc là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ…

Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia là Chương trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134) và Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135). Việc triển khai các chương trình này đã góp phần nâng cao rõ rệt đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa; cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với khoa học, kỹ thuật và áp dụng vào sản xuất, nâng cao ý thức trách nhiệm và đóng góp của người dân trong việc thúc đẩy phát triển và thu hẹp khoảng cách vùng miền. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đề ra các chính sách trợ cước trợ giá, cho hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển sản xuất, định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ một số dân tộc thiểu số có số dân rất ít người, cấp miễn phí 18 loại báo, tạp chí cho người dân ở vùng khó khăn.

▬ Hoa Kỳ báo cáo:

Mặc dù nhà nước chính thức cấm, nhưng xã hội vẫn tiếp tục kỳ thị những người thuộc dân tộc thiểu số. Cộng đồng dân tộc thiểu số hưởng được rất ít những thành quả tiến bộ của nền kinh tế đang phát triển mạnh.

Một số người thiểu số được cho là đã vượt biên sang Thái Lan và Campuchia để tìm cơ hội làm ăn tốt hơn, hoặc để tìm đường nhập cư qua những quốc gia khác. Nhân viên chính phủ theo dõi gắt gao một số sắc dân thiểu số, đặc biệt là ở vùng Cao nguyên miền Trung, với quan ngại rằng đạo Tin lành mà họ đang theo đuổi sẽ dẫn đến phong trào đòi ly khai của các sắc dân tiểu số.

Chính phủ đã tiếp tục dùng nhiều biện pháp an ninh ở vùng Cao nguyên miền Trung để đối phó với những quan tâm về những hoạt động ly khai của các dân tộc thiểu số có thể xảy ra. Theo một số báo cáo, công an đã đặc biệt quan tâm đến trường hợp một số người thiểu số đã điện thoại cho các cộng đồng của mình ở hải ngoại. Cũng có vài báo cáo rằng những người thiểu số đào thoát sang Campuchia đã bị công an Việt Nam, họat động trên cả hai phía biên giới, bắt về và sau đó bị đánh đập và câu lưu.

***

Trích dẫn bằng đó, xét ra đã quá đủ để quý độc giả có cơ sở ra phán quyết bên nào nói láo. Nếu quý vị thấy Hoa Kỳ nói láo, thì chắc là hơn trăm triệu cử tri Hoa Kỳ cũng thấy như vậy, và trong cuộc bầu cử tới, họ chỉ việc cho ê-kíp Obama về vườn, là xong.

Nếu quý vị kết luận là Việt Nam nói láo, thì hơi phiền. Theo báo cáo của Hoa Kỳ: “Hiến pháp [Việt Nam] không cho công dân quyền thay đổi chính phủ của họ một cách hoà bình, và công dân không thể tự do lựa chọn việc thay đổi pháp luật và nhân sự của nhà nước đương quyền”. Vậy, chỉ còn giải pháp dễ dãi hơn cả, là 86 triệu dân tiếp tục bị tập đoàn nói láo cai trị.

Tài liệu tham khảo:
Trích dẫn Báo cáo của Việt Nam lấy từ website của Bộ Ngoại giao Việt Nam; trích dẫn Báo cáo của Hoa Kỳ theo bản của X-Café dịch từ tài liệu trên website của Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội.

05/05/2009
Đinh Từ Thức

© 2009 talawas blog

BÁO CÁO QUỐC GIA KIỂM ĐIỂM ĐỊNH KỲ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105001/ns090423105036

I. Phương pháp soạn thảo Báo cáo Quốc gia.

A. Quy trình soạn thảo Báo cáo.

1. Báo cáo này được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (HĐNQ LHQ) nhằm kiểm điểm tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Ban soạn thảo đã được thành lập theo cơ chế Nhóm Công tác liên ngành với sự tham gia của các cơ quan liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Ban Tôn giáo Chính phủ (thuộc Bộ Nội vụ), Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Ủy ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao và Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao là cơ quan đầu mối soạn thảo Báo cáo.

B. Tổ chức tham vấn ý kiến về Báo cáo.

2. Việt Nam đã cử nhiều đoàn đi học hỏi kinh nghiệm quốc tế về soạn thảo báo cáo Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ (UPR) như tham dự Hội thảo tập huấn do Liên hợp quốc (LHQ) tổ chức và dự các phiên bảo vệ báo cáo UPR tại Hội đồng Nhân quyền; tổ chức các hội thảo trong nước có sự tham dự của chuyên gia LHQ và một số nước đã bảo vệ báo cáo nhằm giới thiệu về cơ chế UPR và kinh nghiệm làm báo cáo của các nước này.

3. Báo cáo được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến tích cực và cụ thể của các cơ quan Chính phủ, đoàn thể nhân dân và chính quyền địa phương thông qua các cuộc họp tham vấn. Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa Nhóm soạn thảo và các tổ chức xã hội có tính đại diện rộng rãi, trong đó có: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Liên hiệp Các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam, Hội Luật gia, Hội Nhà báo Việt Nam, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Viện Nghiên cứu Quyền con người, Hội Nông dân, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam.

II. Thông tin cơ bản về Việt Nam.

A. Giới thiệu chung.

4. Với 64 tỉnh và thành phố, đất nước Việt Nam có diện tích 331.216,6 km2 trải dọc từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc với phần đất liền nằm trên bán đảo Đông Dương, ở Đông Nam châu Á, cùng nhiều đảo và quần đảo. Sự trải dài về mặt địa lý và sự đa dạng của các vùng miền đã tạo nên tính đặc thù và sự giàu có về văn hóa, nhưng cũng là khó khăn không nhỏ trong việc đảm bảo và thực thi các quyền con người đối với mọi người dân Việt Nam.

5. Với số dân khoảng 86 triệu người (trong đó 75% sống ở nông thôn), Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. 54 dân tộc (người Kinh chiếm 86%) chung sống hòa thuận và có những bản sắc riêng về văn hóa, ngôn ngữ và tín ngưỡng. Nhiều tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, trong quá trình du nhập vào Việt Nam, đã hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa để cùng phát triển hoặc tạo nên những tôn giáo nội sinh mang đậm sắc thái Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Điều đó không chỉ tạo cho Việt Nam nét đặc thù của một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và là nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc suốt hơn 2.000 năm dựng nước và chống ngoại xâm, mà còn là cơ sở để Nhà nước Việt Nam thực hiện các chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người dân, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo đảm quyền phát triển nói chung và các quyền con người nói riêng một cách bình đẳng.

6. Sau hơn 30 năm chiến tranh, Việt Nam phải phát triển đất nước trong điều kiện đất nước đói nghèo, kinh tế kiệt quệ, cơ sở vật chất vô cùng thiếu thốn, lại phải khắc phục những hậu quả do chiến tranh để lại (nạn nhân chất độc da cam, rà phá bom mìn...). Nhờ chính sách Đổi mới từ 1986, Việt Nam đã có bước ngoặt tích cực về tăng trưởng kinh tế, tạo đà phát triển đất nước, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Kinh tế thị trường và sự mở cửa của đất nước cũng có những mặt trái như khoảng cách giàu – nghèo, nông thôn – thành thị; khả năng hòa nhập của các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật... Đây là thách thức đối với Việt Nam trong việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm người dân được hưởng thụ đầy đủ các quyền cơ bản. Những nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Nhà nước Việt Nam sẽ được xem xét một cách tổng thể trong bối cảnh đặc thù về lịch sử, đất nước, con người, xã hội nêu trên.

B. Hệ thống Nhà nước.

7. Trải qua lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam trân trọng giá trị thiêng liêng của các quyền con người, trước hết là quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do quyết định vận mệnh của mình, quyền được sống trong sự tôn trọng nhân phẩm. Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau này là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã khắc ghi những quyền này. Qua quá trình hoàn thiện để đáp ứng tình hình đất nước, các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và đặc biệt là Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân.

8. Hiến pháp 1992 quy định cụ thể cơ cấu và chức năng của hệ thống Nhà nước Việt Nam. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra với các chức năng lập hiến, lập pháp, hoạch định chính sách phát triển đất nước và giám sát các hoạt động của Nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong đó có Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát và kể cả của Chủ tịch nước đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý tổng thể mọi lĩnh vực đời sống xã hội cũng như đảm bảo việc thực thi Hiến pháp và pháp luật. Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm bảo đảm thi hành Hiến pháp, pháp luật cũng như mọi lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương thông qua cơ quan chấp hành là Ủy ban Nhân dân do Hội đồng Nhân dân bầu ra. Với các chức năng tư pháp, Tòa án Nhân dân Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

9. Việt Nam không ngừng đẩy mạnh cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan trong hệ thống Nhà nước, nhất là vai trò lập pháp và giám sát của Quốc hội, nhằm tăng cường hiệu quả, tính minh bạch và dân chủ của các thiết chế Nhà nước. Cơ chế giám sát được thúc đẩy một cách toàn diện trên các khía cạnh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính minh bạch và dân chủ của hệ thống Nhà nước cũng được tăng cường thông qua vai trò phản biện xã hội của hệ thống báo chí, truyền thông và các đoàn thể nhân dân. Báo chí Việt Nam trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân và là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan Nhà nước, góp phần mạnh mẽ vào quá trình chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) là tổ chức liên minh các dân tộc, tầng lớp nhân dân, có vai trò quan trọng trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và đại biểu dân cử (Điều 9 Hiến pháp 1992). MTTQVN cũng tham gia phản biện xã hội đối với các văn bản, chính sách của Nhà nước trước khi được thông qua. Sự tham gia trực tiếp của người dân thông qua các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn, khiếu nại, tố cáo và quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở thực sự là cơ chế giám sát hiệu quả nhất đối với hoạt động của Nhà nước.

III. Bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở cấp quốc gia.

10. Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp 1992, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe... không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền này, phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền.

11. Qua thực tiễn, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hiểu rõ quyền con người gắn với độc lập, hòa bình, dân chủ và phát triển. Việc duy trì một môi trường hòa bình, ổn định từ khi đất nước thống nhất năm 1975 đến nay là một thành tựu to lớn và cũng là nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ và thực hiện các quyền con người ở Việt Nam. Trong công cuộc Đổi mới, những điều chỉnh vĩ mô và các chương trình kinh tế xã hội được chú trọng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Những kết quả này đã tạo tiền đề cần thiết cho việc thực hiện các quyền của người dân trên mọi lĩnh vực.

12. Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Đây là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy các quyền con người, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MTTNK) của LHQ. Việc thực hiện “Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo” được Chính phủ thông qua vào tháng 5/2002 trên cơ sở Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001-2010 đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,82% năm 2007 và giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên đạt MTTNK về xóa đói giảm nghèo.

13. Chính phủ Việt Nam tập trung thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ các Chiến lược Cải cách Tư pháp đến 2020, Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật đến 2010 (định hướng đến 2020) và Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội đến 2010 (lồng ghép các MTTNK) kết hợp với cải cách hành chính sâu rộng, tăng cường triển khai quy chế dân chủ, thúc đẩy công bằng và an sinh xã hội... nhằm thúc đẩy đồng thời và hài hòa các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mọi người dân, phù hợp với lợi ích chung của dân tộc, của cộng đồng và những điều kiện đặc thù của đất nước.

14. Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật (trong đó có các nạn nhân chiến tranh) và người nhiễm HIV/AIDS. Với mỗi nhóm đối tượng, Nhà nước Việt Nam đều có các cơ chế, chính sách và ưu tiên cụ thể nhằm bảo vệ, hỗ trợ, tạo cơ hội cho từng nhóm phát triển và hòa nhập với đời sống xã hội. Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006, Luật Bình đẳng giới 2006 và Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình 2007 là những điển hình về nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này. Hiện nay Chính phủ cũng đang tích cực xây dựng dự thảo Luật về Người khuyết tật.

15. Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế chủ chốt, trong đó có Công ước về Quyền Dân sự, Chính trị, Công ước về Quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hoá; Công ước về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Chủng tộc, Công ước về Xoá bỏ mọi Hình thức Phân biệt Đối xử với Phụ nữ; là nước thứ hai trên thế giới và nước châu Á đầu tiên tham gia Công ước Quyền Trẻ em; phê chuẩn 17 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước Quốc tế về Quyền của Người khuyết tật và hiện đang nghiêm túc xem xét việc ký Công ước chống Tra tấn. Các văn bản pháp luật trong nước được ban hành hoặc sửa đổi theo hướng nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời không làm cản trở việc thực hiện các công ước này (Điều 3 và Điều 82 Luật Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật 2008).

16. Việt Nam luôn ủng hộ hoạt động của HĐNQ và hợp tác đầy đủ với các cơ chế nhân quyền LHQ. Việt Nam đã đón các Báo cáo viên Đặc biệt (BCVĐB) về Giam giữ Độc đoán và về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng (1998) và đang làm thủ tục mời 03 BCVĐB của LHQ về Quyền Giáo dục, về Quyền được Chăm sóc Sức khoẻ và về Đói nghèo Cùng cực vào thăm Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình thảo luận nhằm thành lập cơ chế nhân quyền khu vực ASEAN, tham gia nhiều hội nghị nhân quyền quốc tế và khu vực khác. Với chủ trương sẵn sàng đối thoại và hợp tác về quyền con người, Việt Nam đã thiết lập cơ chế đối thoại với các nước/đối tác Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thuỵ Sỹ đạt kết quả tích cực trong nhiều năm qua.

Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về thúc đẩy quyền con người, cụ thể:

A. Về các quyền dân sự và chính trị.

17. Quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền tự quyết định vận mệnh của mình, quyền bầu cử, ứng cử... là những quyền cơ bản nhất của con người, nhưng phải đến năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với thế giới rằng nước Việt Nam “đã trở thành một nước độc lập”, người dân Việt Nam mới thực sự được hưởng các quyền cơ bản này. Và kể từ thời điểm đó đến nay, dù phải trải qua chiến tranh, mọi người dân Việt Nam luôn được bảo đảm việc thụ hưởng ngày càng toàn diện và đầy đủ các quyền con người, trong đó có các quyền dân sự, chính trị.

18. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trên tinh thần đó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền về dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận đầy đủ các quyền con người (Điều 2 và 50). Nội dung các quyền này đã được thể hiện xuyên suốt qua các chương, mục của Hiến pháp và được cụ thể hoá tại nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dân sự, chính trị như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Đặc xá, Pháp lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo... Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử (Điều 52 Hiến pháp 1992) là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật của Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể. Các văn bản pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ các quyền dân sự, chính trị được thừa nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới và các công ước quốc tế về nhân quyền, đặc biệt là Công ước về Quyền Dân sự Chính trị.

19. Nhà nước Việt Nam nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế đảm bảo quyền con người trên thực tế. Hệ thống các cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích của công dân được củng cố. Nổi bật là vai trò của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước; việc bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp; hiệu quả của hệ thống cơ quan điều tra Nhà nước cũng như vai trò ngày càng tăng của các tổ chức chuyên môn như các đoàn luật sư, hội luật gia, cơ quan công chứng, văn phòng trợ giúp pháp luật... Vai trò và tiếng nói của các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Hội Chữ thập Đỏ, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Người Cao tuổi… trong việc tham gia quản lý Nhà nước và xã hội ngày càng được coi trọng.

20. Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng việc bảo đảm cho mọi người dân quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao (hơn 99%) tại kỳ bầu cử Quốc hội khoá XII, tháng 5/2007, cho thấy người dân ngày càng ý thức rõ hơn về quyền của mình và vai trò quan trọng của Quốc hội trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân. Trong mỗi kỳ họp Quốc hội, phần đại biểu Quốc hội chất vấn các thành viên Chính phủ được truyền hình trực tiếp, ngày càng đi vào thực chất và trở thành diễn đàn để người dân, thông qua đại biểu do họ bầu ra, chất vấn chính sách, cách thức điều hành của Chính phủ, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức.

21. Phát huy quyền làm chủ của người dân ở cấp địa phương – nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước, được coi là mục tiêu và động lực đảm bảo thắng lợi của công cuộc Đổi mới tại Việt Nam. Quy chế Dân chủ ở cơ sở do Nhà nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào tiến trình xây dựng, hoạch định và giám sát việc thực hiện chính sách của Nhà nước, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng; vị trí làm chủ của người lao động ở cơ sở không ngừng được nâng cao. 100% xã, phường, thị trấn đã thành lập Ban Thanh tra Nhân dân và 37/64 tỉnh thành chỉ đạo cơ sở thành lập Ban Giám sát Đầu tư Công cộng.

22. Quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân đã có sự đổi mới tích cực. Từ 2006 đến 2008, tỷ lệ giải quyết tố cáo khiếu nại của các cơ quan hành chính đạt 83,2%; các cơ quan thi hành án dân sự địa phương 92,5%. Pháp luật cũng quy định việc đền bù thiệt hại về vật chất và tinh thần cho những người bị oan sai.

23. Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng các đạo luật quan trọng và nhiều văn bản dưới luật liên quan, cụ thể là tại Điều 69 Hiến pháp 1992, và tại Nghị định số 88/ 2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Ở Việt Nam hiện có 380 hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 115 vào năm 1990); 18 tổ chức công đoàn ngành, 6.020 tổ chức ở cấp địa phương, và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội.

24. Việt Nam có khoảng 20 triệu người theo các tôn giáo khác nhau và 80% người dân có đời sống tín ngưỡng. Nhà nước Việt Nam nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu chính đáng của con người và không ngừng phấn đấu đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân. Tính đến 2008, ở Việt Nam có 12 tôn giáo, trong đó một số tôn giáo có đông tín đồ như Phật giáo, Công giáo, Tin lành ... . Các sinh hoạt tôn giáo, đặc biệt các ngày lễ lớn hàng năm của nhiều tôn giáo được tổ chức trọng thể với hàng trăm nghìn tín đồ tham gia. Đặc biệt, Đại lễ Phật đản LHQ năm 2008 được tổ chức trọng thể tại Hà Nội với sự tham dự của hơn 4.000 tăng ni, phật tử trong đó có khoảng 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ 74 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Các cơ sở thờ tự liên tục được cải tạo hoặc xây mới. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành được duy trì và mở rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử đi đào tạo tại nước ngoài (Mỹ, Pháp, Ý, Ấn Độ ...). Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam chủ động tham gia nhiều hoạt động y tế, văn hoá, xã hội, nhân đạo… đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước, đồng thời có quan hệ quốc tế rộng rãi; đại diện chức sắc các tôn giáo tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đối thoại tôn giáo, tín ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao đổi giáo lý, giáo luật tại các diễn đàn lớn như ASEM, ASEAN…

25. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân Việt Nam được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng. Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam), 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt về quyền con người. Người dân Việt Nam ngày càng tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người truy cập, chiếm 23,5% dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%). Ngoài hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân Việt Nam còn được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh truyền hình nước ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế lớn khác.

26. Nhà nước Việt Nam chủ trương đảm bảo quyền con người, song nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo môi trường lành mạnh cho toàn xã hội, vì lợi ích của mỗi người dân. Mục tiêu quan trọng của án phạt tù là nhằm giáo dục pháp luật cho người phạm tội để họ trở thành người có ích và sớm tái hoà nhập với xã hội. Hệ thống trại giam, nhà tù luôn được đầu tư nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phạm nhân. Quyền cơ bản của người chấp hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ, như quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Phạm nhân thi hành đủ 1/3 án phạt tù, nếu cải tạo tốt, được xét giảm thời gian chấp hành án mỗi năm một lần. Xuất phát từ chính sách khoan hồng, nhân đạo, vào những dịp lễ lớn, Nhà nước xem xét đặc xá cho những phạm nhân đáp ứng đủ các điều kiện theo Luật Đặc xá. Chỉ tính riêng dịp Tết Nguyên đán 2009, hơn 15.450 người đang chấp hành án phạt tù đã được đặc xá tha tù trước thời hạn.

27. Có thể nói, những thành tựu đạt được trong việc đảm bảo quyền dân sự, chính trị cho người dân thể hiện cam kết mạnh mẽ và nỗ lực không ngừng của Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn. Đây là tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục phấn đấu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân.

B. Về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.

28. Đến những năm cuối thập kỷ 80, Việt Nam vẫn là một nước nghèo; nền kinh tế tăng trưởng thấp, sản xuất trì trệ; đời sống nhân dân khó khăn; tình trạng thất nghiệp và mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư; nhiều nhu cầu của người dân về vật chất và tinh thần chưa được đáp ứng… Mặc dù khó khăn như vậy, song các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, được thể hiện rõ trong các chính sách phát triển đất nước của Chính phủ và được thực thi trên thực tế, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.

29. Sau hơn 20 năm Đổi mới, công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, bình quân 7,5%/năm. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế, đặc biệt trong vấn đề tạo việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, không chỉ tạo động lực cho phát triển kinh tế mà còn giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo điều kiện cho Nhà nước tập trung đầu tư nhiều hơn cho các mục tiêu ưu tiên như giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ các vùng khó khăn...

30. Hệ thống luật pháp của Việt Nam từng bước được bổ sung và hoàn thiện phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển hài hòa các mặt xã hội, bảo đảm cải thiện mọi mặt đời sống của người dân. Với nhiều nội dung mới, phù hợp với thực tiễn của cuộc sống, Hiến pháp năm 1992 và hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Bảo vệ Sức khỏe Người dân 1989, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi và bổ sung năm 2002 và 2006), Luật Giáo dục 1998 (sửa đổi năm 2005), Luật Đất đai 2003, Luật Bảo hiểm Xã hội 2006, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006... đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng và tương đối đầy đủ trong việc cụ thể hóa và thực hiện các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Hệ thống pháp luật của Việt Nam trên lĩnh vực này được đánh giá là đã tiếp cận với những chuẩn mực quốc tế và tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

31. Chính quyền địa phương được phân quyền mạnh hơn về quản lý tài chính, ngân sách, đầu tư, y tế, giáo dục... để chủ động triển khai những chính sách phát triển phù hợp với tình hình của địa phương mình. Các Ủy ban Quốc gia vì Sự tiến bộ của Phụ nữ, Ủy ban Quốc gia về Người Cao tuổi, Ủy ban Phòng chống Tham nhũng được thành lập để thực hiện chức năng tư vấn cho Chính phủ về phương hướng và giải pháp đối với những vấn đề liên quan; tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đôn đốc và giám sát việc thực hiện của các cơ quan chính phủ. Các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam... đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

32. Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội 2001 – 2010, Tầm nhìn đến 2020, lồng ghép chặt chẽ các MTTNK nhằm ưu tiên và tạo bước chuyển mạnh trong công tác xoá đói giảm nghèo; đổi mới giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân; giảm thất nghiệp và tạo việc làm; phát triển mạng lưới an sinh xã hội và xây dựng kết cấu xã hội bền vững.

33. Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là mục tiêu xuyên suốt của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Sau hơn 20 năm Đổi mới, mức sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 200 USD/người (năm 1990) lên 1024 USD/người (năm 2008). Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia từ hơn 60% vào năm 1990 đã giảm xuống còn 13,8% năm 2008. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam từng bước được nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế.

34. Nhà nước Việt Nam coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Ngân sách cho giáo dục tăng hàng năm, chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Mạng lưới trường học được phát triển đều khắp. Năm 2000, Việt Nam công bố hoàn thành phổ cập tiểu học, vượt trước 15 năm so với thời hạn của MTTNK. Việt Nam đang tiến hành phổ cập trung học cơ sở. Tính đến hết năm 2007, 42/63 tỉnh thành đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Hiện nay, Việt Nam được UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo dục.

35. Việt Nam tạo điều kiện để mọi người dân thụ hưởng quyền được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên các đối tượng phụ nữ, trẻ em và người dân tộc thiểu số. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược như tiêm chủng cho trẻ em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi, phòng chống lao, phòng chống HIV/AIDS... đã mang lại hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống còn 25,9‰ (2007), dưới 1 tuổi từ 31‰ (2001) xuống còn 16‰(2007); tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em chỉ còn 21,2% (2007); tỷ lệ tử vong ở phụ nữ sau sinh giảm từ 233/100.000 trẻ đẻ sống (1990) xuống 75/100.000 trẻ (2007). Hầu hết các xã đặc biệt khó khăn tại các vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế; đa số thôn, bản có y tế cộng đồng, góp phần cơ bản ngăn chặn các bệnh dịch xã hội hiểm nghèo, nâng cao sức khoẻ, cải thiện đời sống đồng bào.

36. Việt Nam đang tích cực triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Việc làm 2006 – 2010, tập trung vào chính sách cho vay giải quyết việc làm thông qua Quỹ Quốc gia về Việc làm và các Dự án Hỗ trợ, góp phần đẩy nhanh quá trình tìm kiếm việc làm của người lao động. Trong 8 năm thực hiện (2001 – 2008), cả nước đã có 12,44 triệu việc làm mới, trong đó thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội là gần 9,3 triệu, thông qua Quỹ Quốc gia về Việc làm là hơn 2,6 triệu. Kể từ 01/01/2009, lần đầu tiên Việt Nam áp dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp, góp phần trợ giúp tối đa cho người lao động trong quá trình tìm kiếm việc làm. Đây là một bước tiến bộ đáng ghi nhận của Việt Nam nếu so với các nước có cùng trình độ phát triển.

37. Hiến pháp 1992 nêu rõ công dân có quyền tham gia sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa (Điều 60). Chính phủ Việt Nam không ngừng xây dựng và triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của người dân. Bên cạnh các cơ chế chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn hoá, Chính phủ cũng ban hành chính sách khuyến khích bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của dân tộc, nhất là của các dân tộc thiểu số, trong đó có bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thống nhất trong sự đa dạng của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.

38. Thành công về tăng trưởng và ổn định kinh tế trong 20 đổi mới vừa qua đã góp phần không nhỏ để đảm bảo ngày càng tốt hơn không chỉ các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội cho mọi người dân mà còn cả các nhóm quyền khác.

C. Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.

1. Trẻ em.

39. Nhà nước Việt Nam luôn cam kết bảo vệ các quyền và lợi ích của trẻ em và tạo mọi điều kiện để trẻ em được thực thi đầy đủ các quyền của mình, thể hiện trước hết qua các quy định của Hiến pháp (Điều 65) và một số văn bản pháp luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Phòng chống HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Điện ảnh, Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình, Luật Tương trợ Tư pháp. Đặc biệt, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em (sửa đổi 2004) đã cụ thể hoá các nguyên tắc cơ bản của Công ước Quyền Trẻ em mà Việt Nam là thành viên, trong đó nhấn mạnh nguyên tắc không phân biệt đối xử và lợi ích tốt nhất của trẻ; trao cho trẻ em nhiều quyền hơn, từ những quyền mang tính thụ động như quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ đến những quyền mang tính chủ động là quyền bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.

40. Hệ thống các cơ quan bảo vệ quyền trẻ em bao gồm Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em, Hội Cứu trợ Trẻ em Tàn tật, Hội Bảo trợ Người Tàn tật và Trẻ Mồ côi Việt Nam. Hệ thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả các cấp trong toàn quốc.

41. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em. Bên cạnh Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đang được tích cực triển khai, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em cũng được lồng ghép vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình. Các chương trình khám chữa bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả (khoảng 8,4 triệu trẻ, chiếm trên 90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí). Tỉ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao (năm học 2005 – 2006, tỷ lệ học sinh tiểu học đạt 95,04%, trung học cơ sở đạt 80,3%); tỷ lệ học sinh bỏ học giảm dần; nhiều chính sách quan tâm, ưu đãi được dành cho trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em di cư, trẻ em người dân tộc thiểu số… Cơ bản đã tạo được môi trường vui chơi giải trí an toàn, lành mạnh cho trẻ em (có khoảng 40% xã, phường và 80,3% số quận, huyện có điểm vui chơi cho trẻ em; 100% thư viện cấp tỉnh và 30% ở cấp huyện có phòng đọc dành cho trẻ em...). Trẻ em được tạo điều kiện bày tỏ ý kiến, tham gia vào hoạt động văn hóa, xã hội ở trường học và cộng đồng thông qua các diễn đàn quốc gia, quốc tế, Đội Thiếu niên Tiền phong, Câu lạc bộ Phóng viên nhỏ...

42. Tuy nhiên, việc đảm bảo các quyền của trẻ em trong thời gian qua vẫn còn những thiếu sót do những khó khăn, thách thức đặt ra từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở hạ tầng trong nước lạc hậu, năng lực quản lý của các cơ quan hữu quan trong việc hoạch định, triển khai các chính sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em còn hạn chế.

2. Phụ nữ.

43. Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, coi đó là một công cụ quan trọng để tiến tới công bằng và phát triển bền vững. Quan điểm này được thể hiện trong Hiến pháp, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Phòng chống HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác về bình đẳng giới. Việt Nam đang tích cực triển khai trên toàn quốc Chiến lược Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, đến nay nhiều chỉ tiêu đã đạt trước kế hoạch. Quan điểm giới cũng được lồng ghép vào nhiều văn bản quốc gia quan trọng như Chiến lược Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo, Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội 2005-2010, các chiến lược phát triển ngành... Hiện Việt Nam đang nỗ lực xây dựng Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới cho giai đoạn 2011-2020.

44. Hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Hệ thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả các cấp trong toàn quốc.

45. Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt 25,76% (nhiệm kỳ 2007-20011), đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có việc làm. Phụ nữ có mặt ở hầu hết các cơ quan hành chính và doanh nghiệp Nhà nước, với 68,7% cán bộ công chức và 30% chủ doanh nghiệp là nữ. Phụ nữ còn tham gia tích cực trong các tổ chức chính trị-xã hội và chiếm khoảng 30% trong ban chấp hành các cấp. Phụ nữ được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất/quyền sở hữu nhà ở cùng với người chồng, được hưởng quyền bình đẳng như nam giới trong vấn đề quốc tịch. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn của nữ là 91%; 30% số người có trình độ sau đại học là nữ. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ là 73 trong khi nam giới là 70. Phụ nữ có quyền được nghỉ 4 tháng sau khi sinh con, hưởng nguyên lương và được phụ cấp thêm 1 tháng lương nữa.

46. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số giới (GDI) của Việt Nam là 105/177 nước và 91/157. Việt Nam có tên trong danh sách các nước xây dựng được số đo về sự trao quyền cho giới (GEM) với vị trí 52/93 nước. Theo Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á, "Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng giới... là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á".

47. Trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam quyết tâm khắc phục một số vấn đề còn tồn tại như tình trạng phân biệt đối xử, ngược đãi và bạo hành đối với phụ nữ, nạn mại dâm và nâng cao tỷ lệ phụ nữ tham chính ở các cấp.

3. Dân tộc thiểu số.

48. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam trong vấn đề dân tộc là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ. Nguyên tắc này được thể hiện trong Hiến pháp 1992 (Điều 5, 36, 39, 133) và các văn bản luật như: Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Quốc tịch, Luật Khuyến khích Đầu tư Trong nước, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Công nghệ Thông tin, Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng, Luật Giáo dục, Luật Xuất bản, Luật Thanh niên, Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em, Luật Bảo vệ Chăm sóc Sức khoẻ Nhân dân, Luật Tương trợ Tư pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Dạy nghề.

49. Hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và giúp thực hiện các quyền của người dân tộc thiểu số bao gồm Uỷ ban Dân tộc (cơ quan ngang Bộ), Hội đồng Tư vấn Dân tộc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em Việt Nam với phạm vi hoạt động ở tất cả các cấp trong toàn quốc.

50. Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia là Chương trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134) và Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135). Việc triển khai các chương trình này đã góp phần nâng cao rõ rệt đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa; cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với khoa học, kỹ thuật và áp dụng vào sản xuất, nâng cao ý thức trách nhiệm và đóng góp của người dân trong việc thúc đẩy phát triển và thu hẹp khoảng cách vùng miền. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đề ra các chính sách trợ cước trợ giá, cho hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn vay vốn phát triển sản xuất, định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ một số dân tộc thiểu số có số dân rất ít người, cấp miễn phí 18 loại báo, tạp chí cho người dân ở vùng khó khăn.

51. Những chủ trương, chính sách trên đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng bình đẳng hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày càng có nhiều cán bộ người dân tộc thiểu số giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan chính quyền từ cấp trung ương cho đến địa phương. Quốc hội khoá XII có 87 đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 17,65%. Tỷ lệ hộ nghèo đói trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh, bình quân khoảng 3-5%/năm. Các vùng đặc biệt khó khăn được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: 96% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số huyện và 95% xã đã có điện. 100% các xã có trường tiểu học, nhà mẫu giáo; 100% các huyện đều có trường trung học phổ thông. Đến cuối năm 2007, 71% số xã đặc biệt khó khăn đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 80% số xã đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. 100% số huyện đã có trung tâm y tế và bác sỹ, cán bộ y tế; một số dịch bệnh thường gặp ở vùng dân tộc và miền núi như sốt rét, bướu cổ, phong, lao được ngăn chặn và đẩy lùi; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng có nhiều tiến bộ.

52. Văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số được quan tâm giữ gìn và phát triển. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, di sản văn hóa vô giá của đồng bào dân tộc, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số đang được chú ý bảo tồn và ngày càng được sử dụng phổ biến hơn. Việt Nam có 30 dân tộc có chữ viết. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng 8 bộ giáo trình cho 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số (Khơ-me, Chăm, Hoa, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na, Thái và Mông), chính thức đưa vào dạy trong các trường tiểu học và trường phổ thông dân tộc ở 25 tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao. Đài Truyền hình Việt Nam đã phát kênh VTV5 bằng 10 thứ tiếng dân tộc; Đài Tiếng nói Việt Nam đã tăng thời lượng phát sóng và sản xuất hơn 4.000 chương trình đặc biệt phát bằng 13 thứ tiếng dân tộc, giúp đồng bào dân tộc tiếp cận thông tin tốt hơn.

4. Người khuyết tật.

53. Hiện nay Việt Nam có hơn 5,2 triệu người tàn tật, chiếm 6,63% dân số. Nhà nước Việt Nam luôn khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Quan điểm này phản ánh quy định trong Hiến pháp 1992 và được cụ thể hoá trong một số văn bản luật quan trọng như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em, Luật Trợ giúp Pháp lý, Luật Công nghệ Thông tin, Pháp lệnh về Người Tàn tật.

54. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương xây dựng và triển khai kế hoạch dài hạn về người khuyết tật do UNESCAP đề xướng. Việt Nam cũng đã ký Công ước Quốc tế về Quyền của Người Khuyết tật và đang tích cực chuẩn bị để phê chuẩn công ước này. Việt Nam đã xây dựng hệ thống các cơ quan, tổ chức có phạm vi hoạt động ở tất cả các cấp trong toàn quốc nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của người khuyết tật bao gồm Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Hội Bảo trợ Người Tàn tật và Trẻ Mồ côi, Hội Cứu trợ Trẻ em Tàn tật Việt Nam, Hội Người mù, Hội Nạn nhân Chất độc Da cam/Dioxin Việt Nam, Ban Điều phối Hỗ trợ hoạt động của Người Tàn tật, Hiệp hội Sản xuất Kinh doanh của Người Tàn tật.

55. Nhà nước Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để các quyền của người khuyết tật Việt Nam ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Nhiều người khuyết tật nặng, thương binh, bệnh binh, người bị di chứng chất độc da cam, trong đó có trẻ em, được Nhà nước trợ cấp và nuôi dưỡng. Mạng lưới chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng cho người khuyết tật đã được thiết lập từ trung ương đến cơ sở. Trong 10 năm qua, trên 300.000 người, trong đó có hàng chục ngàn trẻ em, được chỉnh hình phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí, được cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy; hàng trăm nghìn người khuyết tật được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Việt Nam đang xây dựng mô hình giáo dục hòa nhập, chuyển đổi và thẩm định sách giáo khoa chữ phẳng sang chữ nổi Braille, xây dựng hệ thống ngôn ngữ kí hiệu, thống nhất hệ thống chữ cho người mù. Hàng năm số trẻ khuyết tật đi học ở bậc trung học và bậc đại học đều tăng, nhiều học sinh khuyết tật đạt kết quả cao trong học tập. Cho đến nay có khoảng 100 cơ sở hướng nghiệp dạy nghề cho người khuyết tật và có khoảng 35.000 người khuyết tật được học nghề. Các công trình xây dựng công cộng, giao thông, văn hoá, thể dục thể thao đã được xây dựng, cải tạo để phù hợp hơn với chuẩn của người khuyết tật. Đối với những nạn nhân chất độc da cam/dioxin, một đặc thù của người khuyết tật Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đã có nhiều hình thức hỗ trợ nạn nhân trong cuộc sống, học tập, lao động, sản xuất, chăm sóc sức khoẻ, với số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng.

56. Ngoài những thành tích nêu trên, nhìn chung đời sống của người khuyết tật Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là những đối tượng thuộc diện nghèo. Điều kiện giáo dục, đào tạo nghề cho người khuyết tật vẫn còn nhiều hạn chế; vẫn còn tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử trong giáo dục, ở nơi làm việc, trong các hoạt động cộng đồng. Đây cũng là những vấn đề mà Việt Nam sẽ cố gắng khắc phục trong thời gian tới.

IV. Các kinh nghiệm thành công và thách thức.

A. Bài học kinh nghiệm thành công.

1. Bài học thứ nhất: đặt nhân tố con người vào trung tâm của sự phát triển đất nước.

57. Mọi sự phát triển chỉ có ý nghĩa khi nó là của mỗi con người và vì mỗi con người. Khi con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thì sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của nguồn lao động, cũng như sự phát triển các lĩnh vực khác của xã hội cũng đều vì mục tiêu phát triển con người và vì hạnh phúc của con người. Chính vì vậy, Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp phát triển đất nước. Mọi chính sách phát triển của Việt Nam luôn lấy con người làm trung tâm: phát triển kinh tế vì con người; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ và cải thiện môi trường.

58. Thông qua hoạt động lập pháp, Quốc hội đã tạo lập được khung pháp lý cho sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước. Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã thiết lập những chế định quan trọng nhất, định hướng cho sự phát triển của Nhà nước, điều chỉnh mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Chính phủ Việt Nam đã triển khai các Chiến lược Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật, Chiến lược Cải cách Tư pháp, Chương trình Cải cách Hành chính... nhằm mục tiêu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo đảm các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.

2. Bài học thứ hai: các quyền con người không thể tách rời độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

59. Mỗi cá nhân không thể có quyền tự do, không thể được bảo đảm các quyền cơ bản nếu như họ sống trong một đất nước chưa giành được độc lập, tự do. Độc lập dân tộc là điều kiện, cơ sở cho việc bảo đảm quyền con người. Giải phóng con người, trong đó có việc bảo đảm các quyền con người, gắn liền với giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất.

60. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình. Dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do và có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, được sống trong độc lập, tự do, dân chủ với tất cả quyền con người của mình và được bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Từng người dân Việt Nam đã và đang tích cực triển khai thực hiện dân chủ nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển mọi tiềm lực của nhân dân để phát triển đất nước. Đó là thành tựu to lớn, mở ra thời kỳ phát triển mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó cũng chính là những thành tựu dân chủ, nhân quyền cơ bản nhất mà nhân dân Việt Nam đã giành được.

3. Bài học thứ ba: kết hợp hài hòa giữa các giá trị phổ quát của các quyền con người và hoàn cảnh đặc thù riêng của quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con người.

61. Từng là nạn nhân của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược - sự vi phạm lớn nhất quyền con người, hơn ai hết Việt Nam hiểu rõ rằng quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng. Chính phủ Việt Nam cho rằng việc thực hiện quyền con người luôn luôn gắn với lịch sử, truyền thống và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực.

62. Do đặc thù là quốc gia đa dạng về dân tộc, tôn giáo với một nền kinh tế đang phát triển, xuất phát điểm thấp, lại phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, việc bảo đảm và thực thi các quyền con người ở Việt Nam có những ưu tiên cụ thể phù hợp với hoàn cảnh của đất nước: Nhà nước tập trung vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế, giáo dục; ưu tiên đặc biệt cho phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo điều kiện để người dân có đời sống tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo được tôn trọng và gắn liền với quyền lợi, trách nhiệm xã hội; tôn trọng và xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các dân tộc, tôn giáo khác nhau; tập trung phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin ở Việt Nam.

63. Tôn trọng tính phổ quát của các quyền con người, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người và nhiều công ước quốc tế khác trong lĩnh vực này, đồng thời nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ thành viên. Đây là nỗ lực to lớn của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Chính phủ Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng cam kết và thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền trước hết và chủ yếu là trách nhiệm của quốc gia thành viên

64. Việt Nam hết sức coi trọng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Đối thoại và hợp tác quốc tế vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau; qua đối thoại và hợp tác quốc tế Việt Nam đã giúp bạn bè và cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình và hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trong khu vực và trên thế giới.

4. Bài học thứ tư: giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế kết hợp với đảm bảo an sinh xã hội.

65. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước trong mọi tình huống là nhiệm vụ số một, là yêu cầu sống còn của mọi quốc gia. Có ổn định chính trị - xã hội, mới có thể phát triển. Nói một cách khác, bất cứ quốc gia nào mất ổn định đều không có thể phát triển, thậm chí tụt lùi, phải trả những giá đắt cho sự khôi phục và tồn tại. Để giữ vững và tăng cường ổn định chính trị - xã hội của đất nước, Việt Nam chú trọng xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững, bảo đảm cải thiện mọi mặt đời sống của nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái; một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; và một hệ thống an sinh xã hội tiến bộ đảm bảo sự phát triển đầy đủ và hài hòa của mọi người dân.

66. Các chính sách phát triển của Việt Nam thời gian qua đều gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao và ổn định trong nhiều năm (bình quân trên 7,5%/năm); song hành với sự gia tăng trong bảng xếp hạng chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số giới (GDI). Hiện nay, Việt Nam xếp thứ 64/127 nước trong bảng xếp hạng về phát triển giáo dục của UNESCO. Mặc dù là nước đang phát triển với GDP bình quân đầu người ở mức 1.000 USD, Chính phủ Việt Nam vẫn dành 15% tổng ngân sách quốc gia cho các dịch vụ y tế công cộng và giáo dục. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với việc đảm bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện cho sự phát triển con người bền vững ở Việt Nam.

5. Bài học thứ năm: nâng cao nhận thức và năng lực của người dân trong việc thụ hưởng các quyền.

67. Mỗi người dân là một chủ thể thụ hưởng các quyền con người và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng việc nâng cao ý thức người dân trong việc thụ thưởng các quyền con người trên cơ sở tuân thủ pháp luật.

68. Vai trò giám sát của nhân dân được tăng cường thông qua việc công khai và minh bạch hóa các hoạt động của Chính phủ và Quốc hội. Các phiên họp Quốc hội, đặc biệt là các phiên có trả lời chất vấn của các thành viên chính phủ, được truyền hình trực tiếp giúp người dân chủ động tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Cơ chế lấy ý kiến của người dân đối với các dự luật và chính sách của Nhà nước đang được áp dụng rộng rãi.

69. Nhà nước ban hành và bổ sung các văn bản pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cơ quan chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến phản ánh về những vấn đề mà nhân dân quan tâm. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia đã được triển khai nhằm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người dân, trong đó có tới 98% là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số... để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, đồng thời giúp họ nâng cao kiến thức về pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật. Hệ thống báo chí phát triển mạnh mẽ, không những góp phần đảm bảo cho người dân quyền được thông tin mà còn trở thành các diễn đàn để người dân chủ động thực hiện quyền làm chủ và tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống.

70. Một số luật đã được ban hành và sửa đổi nhiều lần như Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân, Luật Báo chí, Luật Khiếu nại, Tố cáo... ngoài mục đích bảo vệ và thực thi quyền công dân, còn là công cụ để người dân thực hiện quyền tham gia đời sống chính trị của mình.

B. Khó khăn và thách thức.

71. Công cuộc Đổi mới trong hơn 20 năm qua đã mang lại những thay đổi to lớn trên mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội ở Việt Nam, tạo điều kiện cho mọi người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền con người. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

72. Thứ nhất, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực quyền con người nói riêng, còn chưa đồng bộ, có chỗ còn chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó khăn, thậm chí hiểu sai, trong quá trình vận dụng và thực thi pháp luật ở cơ sở. Đây chính là vật cản lớn nhất đối với sự phát triển của xã hội cũng như trong việc thực thi các quyền con người. Nhận diện thách thức đó, Chính phủ Việt Nam đang triển khai Chiến lược Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trước mắt là rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này.

73. Thứ hai, đất nước Việt Nam trải dài hơn 2.000 km từ Bắc xuống Nam, trong đó địa hình núi đồi chiếm ba phần tư diện tích đất nước. Dân cư sống phân tán trên các vùng miền với ngôn ngữ, phong tục, tập quán và điều kiện sinh hoạt rất khác nhau. Đặc biệt, những người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, do hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, thông tin... nên trình độ học vấn còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật, chính sách cũng như năng lực tuân thủ pháp luật còn hạn chế. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan chính quyền, từ trung ương tới địa phương, trong việc xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể nhằm đảm bảo các quyền của người dân, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào cũng như thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng, nông thôn và thành thị.

74. Thứ ba, tuy đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định trong các năm qua, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, xuất phát điểm thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên tai, còn nhiều khó khăn. Mặc dù Chính phủ đã dành nhiều ưu tiên cho phát triển các vùng đặc biệt khó khăn thông qua các Chương trình 134, 135... nhưng do nguồn lực của đất nước còn hạn chế nên ở nhiều địa phương, cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thông tin, thể thao... còn nhiều thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ đầy đủ các quyền của người dân.

75. Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường kéo theo những vấn nạn xã hội đáng lo ngại. Thất nghiệp gia tăng; sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền còn lớn; những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS có chiều hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi trường sống bị ô nhiễm... Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán và định kiến mang tính địa phương vẫn còn nặng nề tạo nên khoảng cách về giới, nhất là trong nhận thức. Tư tưởng trọng nam khinh nữ; nạn ngược đãi phụ nữ, bạo lực trong gia đình vẫn tồn tại, nhất là ở những nơi trình độ dân trí còn thấp. Những vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng đến từng người dân trong việc hưởng thụ các quyền, đặc biệt là quyền sống và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, mà còn là thách thức đối với các cơ quan chính quyền trong việc xây dựng và triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

76. Thứ năm, những biến động của môi trường quốc tế đang có những tác động tiêu cực tới Việt Nam. Các loại bệnh, dịch bệnh chưa được giải quyết dứt điểm và tiếp tục diễn biến phức tạp, đi cùng với biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng đã và đang làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng nặng nề hơn. Những thách thức này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi người dân mà còn làm phân tán nguồn lực của đất nước, làm giảm hiệu quả của các chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển con người.

77. Thứ sáu, trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở trung ương và địa phương về quyền con người còn nhiều hạn chế: không chỉ không nắm được các quy định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước, do vậy có nơi có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân.

V. Các ưu tiên quốc gia và cam kết.

A. Ưu tiên quốc gia.

78. Nhằm vượt qua những khó khăn, thách thức nêu trên và để đạt được nhiều tiến bộ hơn nữa trong việc đảm bảo các quyền của người dân, Nhà nước Việt Nam đã định ra một số ưu tiên cho hoạt động của mình trong vòng 5 năm tới.

79. Xóa đói giảm nghèo sẽ tiếp tục là một trong các ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Tuy là một trong những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về Xoá đói Giảm nghèo trước thời hạn (trước 10 năm so với hạn đề ra của Tuyên bố Thiên niên kỷ), song những kết quả đạt được chưa thực sự bền vững. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ: đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo; củng cố thành quả giảm nghèo; nâng cao chất lượng cuộc sống và điều kiện sản xuất của nhóm hộ nghèo; hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi. Việt Nam đã xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, trong đó dành ưu tiên cho đối tượng thuộc các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người già, người tàn tật, trẻ em... với tổng kinh phí khoảng trên 43.000 tỷ đồng và sẽ phấn đấu để thực hiện chương trình này.

80. Theo Chương trình Quốc gia về Việc làm, Việt Nam phấn đấu bảo đảm việc làm cho khoảng 49,5 triệu lao động, tạo việc làm mới cho 8 triệu lao động trong 5 năm 2006 - 2010 và giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục triển khai các dự án vay vốn tạo việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, hỗ trợ phát triển thị trường lao động.

81. Việt Nam tiếp tục các chương trình cải cách pháp luật và hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền.

82. Việt Nam đã đề ra Chiến lược Xây dựng và Hoàn thiện Hệ thống Pháp luật với mục tiêu là xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, một Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trọng tâm của Chiến lược này là củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi các điều ước quốc tế nhân quyền mà Việt Nam tham gia; hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, nhất là tòa án; hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; thể chế hóa các chính sách về công bằng xã hội để đảm bảo mọi công dân được tiếp cận và hưởng thụ các loại dịch vụ công, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xoá đói giảm nghèo.

83. Việt Nam cũng đề ra Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020, nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, có hiệu quả và hiệu lực cao. Các trọng tâm triển khai bao gồm:

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hỗ trợ tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân;

- Cải cách thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, bảo đảm sự tham gia, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử;

- Hoàn thiện pháp luật về hình sự theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình và chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.

84. Việt Nam ưu tiên các chính sách chăm sóc sức khỏe và nâng cao thể chất của người dân như đẩy mạnh việc chủ động phòng, chống các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm, phát hiện dịch sớm, xử lý kịp thời, không để dịch lớn xảy ra, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân; đảm bảo cung cấp nước sạch, dịch vụ vệ sinh môi trường cho mọi người dân, ưu tiên hỗ trợ đối tượng nghèo, gia đình chính sách, vùng đồng bào dân tộc và vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn tiên tiến của khu vực và thế giới; từng bước đẩy lùi và xoá bỏ tệ nạn ma tuý. Các chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS, về dân số, kế hoạch hóa gia đình, về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (với tổng kinh phí khoảng trên 22.000 tỷ đồng), về vệ sinh an toàn thực phẩm (với tổng kinh phí khoảng hơn 1.000 tỷ đồng), về phòng, chống ma tuý cho giai đoạn từ 2006-2010 đã được xây dựng và triển khai.

85. Việt Nam ưu tiên phát triển mạng lưới an sinh xã hội, giải quyết mặt trái của kinh tế thị trường. Các ưu tiên này gồm việc dạng hóa các loại hình bảo hiểm xã hội, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của các nhóm người dễ bị tổn thương: người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người tàn tật, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số.

86. Việt Nam ưu tiên bồi dưỡng thế hệ trẻ và đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, có kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý.

87. Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giáo dục và Đào tạo đến năm 2010, gồm 7 dự án về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy, đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục, hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số và vùng có nhiều khó khăn, tăng cường cơ sở vật chất các trường học, tăng cường năng lực dạy nghề, với tổng kinh phí thực hiện là trên 20.270 tỷ đồng, đa phần là từ ngân sách Nhà nước.

B. Cam kết.

88. Với nhận thức sự nghiệp bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là một quá trình liên tục và luôn cần sự quan tâm của Nhà nước, Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục hợp tác với các quốc gia khác, với Liên hợp quốc và các cơ quan của tổ chức này để đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh thổ Việt Nam và trên toàn thế giới. Cụ thể:

a) Liên quan đến các công ước quốc tế về nhân quyền: Việt Nam xem xét và rút bảo lưu Điều 5 Nghị định thư về Buôn bán Trẻ em, Mại dâm Trẻ em và Văn hóa phẩm Khiêu dâm Trẻ em của Công ước Quyền Trẻ em; nghiên cứu gia nhập thêm một số công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, Công ước Chống Tra tấn; phê chuẩn Công ước về Quyền của Người Khuyết tật; Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung về Trấn áp, Trừng trị tội Buôn bán người, đặc biệt là Phụ nữ và Trẻ em.

b) Về hợp tác với các cơ chế nhân quyền: Việt Nam cam kết thực hiện các nghĩa vụ của các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tham gia tích cực vào hoạt động của một số cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người như Hội đồng Nhân quyền, Uỷ ban 3 Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng Kinh tế - Xã hội; tiếp tục đối thoại về nhân quyền với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam sẽ xem xét mời các Báo cáo viên đặc biệt về Quyền Lương thực, Chuyên gia Độc lập về Nhân quyền và Đói nghèo, Báo cáo viên về Giáo dục, Chuyên gia Độc lập về Tác động của Nợ nước ngoài đối với việc Hưởng thụ quyền, vào thăm Việt Nam trong thời gian tới, để hiểu thêm về tình hình Việt Nam và hỗ trợ Việt Nam đảm bảo tốt hơn quyền con người trong các lĩnh vực này.

c) Về các biện pháp thúc đẩy nhân quyền trên thực địa: Việt Nam cam kết tiếp tục chương trình cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế nhằm củng cố Nhà nước pháp quyền đảm bảo tốt hơn quyền làm chủ của công dân; đảm bảo quyền tiếp cận, trợ giúp pháp lý của công dân;

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, chú trọng tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, quan tâm phát triển mạng lưới an sinh xã hội, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo và các nhóm người dễ bị tổn thương, cho các vùng sâu vùng xa;

- Phấn đấu đạt phổ cập trung học cơ sở;

- Chú trọng phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chống phân biệt đối xử với nạn nhân của tệ buôn bán phụ nữ, trẻ em, và tạo việc làm, thu nhập cho nạn nhân của việc buôn bán phụ nữ, trẻ em, chú trọng giải quyết vấn đề lao động trẻ em, đặc biệt là vấn để trẻ em đường phố, bạo hành trẻ em; hợp tác chặt chẽ với các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực trong công tác chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, chống tội phạm xuyên quốc gia;

- Tiếp tục chương trình tiêm chủng vắc xin phòng chống 7 bệnh cho trẻ em, chú trọng công tác tuyên truyền phòng chống HIV/ AIDS; quan tâm công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, sức khoẻ sinh sản, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng;

- Đẩy mạnh thực hiện chính sách bình đẳng giới, tuyên truyền xóa bỏ phân biệt đối xử vì lý do giới tính; tạo cơ hội bình đẳng về giáo dục, việc làm và thu nhập cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ người dân tộc thiểu số, đẩy mạnh công tác phòng chống bạo lực gia đình, công tác tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức trọng nam khinh nữ;

89. Việt Nam mong muốn các nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ Việt Nam tăng cường năng lực cho cán bộ và người dân, nâng cao nhận thức về vấn đề quyền con người./.

____________________________________________________________________-

BÁO CÁO VỀ TÌNH HÌNH NHÂN QUYỀN Ở CÁC NƯỚC, NĂM 2008

Do Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phát hành, ngày 25/2/2009

http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/hrreport2008.html

LỜI TỰA

Tiến bộ của con người phụ thuộc vào chính tinh thần con người. Trong thời đại ngày nay, sự thật không thể chối cãi này trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, khi mà những thách thức của thế kỷ mới đòi hỏi chúng ta phải tập hợp mọi nhân tài để đưa dân tộc và thế giới của chúng ta tiến lên phía trước.

Bảo đảm quyền của nam giới, phụ nữ và trẻ em được tham gia đầy đủ trong xã hội và phát huy hết tiềm năng mà Chúa ban cho họ là một lý tưởng thúc đẩy đất nước ta từ khi mới ra đời. Việc bảo đảm quyền đó đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền và được khẳng định rõ trong bài phát biểu nhậm chức của Tổng thống Obama, khi Tổng thống nhắc nhở chúng ta rằng mọi thế hệ phải mang theo niềm tin rằng “mọi người đều bình đẳng và tự do, tất cả đều xứng đáng có cơ hội để mưu cầu hạnh phúc”.

Chính sách đối ngoại của chúng ta cũng phải thúc đẩy những giá trị vượt thời gian này, để người dân được quyền phát ngôn, tư duy, thờ cúng và tự do hội họp, định hướng công việc và cuộc sống gia đình bằng phẩm giá của mình và quyền được biết rằng giấc mơ của họ về một tương lai tươi sáng hơn ở trong tầm với.

Thúc đẩy nhân quyền là một nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của chúng ta. Chúng ta không chỉ theo đuổi thực hiện những lý tưởng của mình trên đất Mỹ mà còn thúc đẩy tôn trọng nhân quyền lớn hơn nữa khi hợp tác cùng nhân dân và các quốc gia khác trên thế giới. Một phần công việc của chúng ta sẽ được thực hiện trong khuôn khổ các hội nghị chính phủ và các đối thoại chính thức, vốn rất quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp này. Nhưng chúng ta không thể chỉ dựa vào biện pháp duy nhất để đối phó với sự độc tài và nô dịch hóa làm suy yếu tinh thần con người, hạn chế khả năng con người và hủy hoại những tiến bộ của con người.

Chúng ta sẽ biến nỗ lực này thành nỗ lực toàn cầu, không chỉ giới hạn ở cấp chính phủ. Chúng ta sẽ hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các chức sắc tôn giáo, các trường học và trường đại học, cá nhân công dân, vì tất cả đều đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một thế giới mà ở đó nhân quyền được chấp nhận, được tôn trọng và bảo vệ.

Những cam kết của chúng ta đối với nhân quyền được thúc đẩy bởi niềm tin vào các giá trị đạo đức của chúng ta và bởi nhận thức rằng chúng ta thúc đẩy chính an ninh, sự thịnh vượng và tiến bộ của mình khi nhân dân ở các vùng đất khác thoát khỏi bóng tối và xiềng xích để giành lấy cơ hội và các quyền chúng ta được hưởng và gìn giữ.

Với tinh thần đó, tôi trân trọng chuyển tới Quốc hội Báo cáo tình hình nhân quyền các nước trong năm 2008 của Bộ Ngoại giao.

Ngoại trưởng
Hillary Rodham Clinton

TỔNG QUAN VÀ CẢM ƠN

Vì sao báo cáo được soạn thảo

Báo cáo này được Bộ Ngoại giao trình lên Quốc hội theo khoản 116(d) và 502B(b) của Đạo luật Viện trợ Nước ngoài (FAA) năm 1961 đã được sửa đổi, bổ sung. Đạo luật này quy định vào ngày 25/2 hàng năm, Ngoại trưởng phải trình lên Chủ tịch Hạ viện và Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện “một báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình hình nhân quyền được quốc tế công nhận theo quy định của tiểu mục (A): ở những quốc gia nhận viện trợ theo quy định tại mục này và tiểu mục (B): ở tất cả các quốc gia khác là thành viên Liên Hợp Quốc và không là đối tượng của báo cáo nhân quyền theo quy định của Đạo luật này”. Chúng tôi cũng bổ sung các báo cáo về một số quốc gia không thuộc các nhóm đã được liệt kê theo các quy định nêu trên và do vậy, các báo cáo này không nằm trong yêu cầu của Quốc hội.

Trách nhiệm của Hoa Kỳ là phải lên tiếng nhân danh những chuẩn mực nhân quyền quốc tế đã được chính thức hóa từ đầu những năm 1970. Năm 1976, Quốc hội ban hành đạo luật tạo ra chức Điều phối viên về Nhân quyền tại Bộ Ngoại giao - chức vụ sau này được nâng lên thành Trợ lý Ngoại trưởng. Năm 1994, Quốc hội tạo ra chức Cố vấn Cao cấp về Nữ quyền. Luật cũng quy định chính sách đối ngoại và thương mại của Hoa Kỳ phải tính tới tình hình nhân quyền và việc thực hiện quyền của người lao động ở các quốc gia và hàng năm phải trình lên Quốc hội báo cáo về tình hình này các quốc gia.

Các báo cáo được soạn thảo như thế nào

Năm 1993, Ngoại trưởng tăng cường hơn nữa công tác nhân quyền tại các sứ quán của chúng ta, yêu cầu tất cả các phòng, ban của mỗi sứ quán phải cung cấp thông tin và kiểm chứng các báo cáo về vi phạm nhân quyền. Những nỗ lực mới nhằm gắn kết việc xây dựng chương trình hoạt động với việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền cũng được thực hiện. Năm 1994, Bộ Ngoại giao đã tái cơ cấu Cục các vấn đề Nhân quyền và Nhân đạo và đổi tên thành Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, thể hiện cách tiếp cận rộng hơn và tập trung hơn các vấn đề có tác động qua lại lẫn nhau: nhân quyền, quyền của người lao động và dân chủ. Các báo cáo hàng năm về tình hình nhân quyền ở các nước là một phần trong những nỗ lực đó, đồng thời là minh chứng cho nỗ lực liên tục của cơ quan này trong việc thông tin về các vụ vi phạm nhân quyền. Các báo cáo phản ánh một năm làm việc cật lực của hàng trăm cán bộ Bộ Ngoại giao, nhân viên Chính phủ Hoa Kỳ ở Washington cũng như ở nước ngoài.

Các sứ quán của chúng ta - những đơn vị chuẩn bị các dự thảo báo cáo đầu tiên - thu thập thông tin trong cả năm từ nhiều nguồn khác nhau: từ các quan chức chính phủ, các luật gia, lực lượng vũ trang, các nhà báo, những người theo dõi tình hình nhân quyền, các học giả và các nhà hoạt động về quyền lao động. Việc thu thập thông tin như vậy có thể rất mạo hiểm. Các cán bộ ngoại giao Hoa Kỳ thường phải nỗ lực hết mình, đôi khi phải ở trong những hoàn cảnh rất nguy hiểm, để tiến hành điều tra báo cáo về vi phạm nhân quyền, giám sát bầu cử và hỗ trợ những người gặp nguy hiểm, chẳng hạn như những người bất đồng chính kiến và những người bảo vệ nhân quyền khi các quyền của họ bị chính chính phủ của họ đe dọa.

Sau khi các sứ quán hoàn tất dự thảo, văn bản được gửi tới Washington để Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động phối hợp với các vụ của Bộ Ngoại giao xem xét kỹ lưỡng. Trong khi thẩm tra, phân tích và biên tập báo cáo, nhân viên Bộ Ngoại giao cũng dựa trên những nguồn thông tin riêng, bao gồm báo cáo của các nhóm nhân quyền Hoa Kỳ, báo cáo của các quan chức chính phủ nước ngoài, đại diện các cơ quan Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế và khu vực, các học giả và phương tiện truyền thông. Các nhân viên cũng tham khảo các chuyên gia về quyền của người lao động, các vấn đề tị nạn, các chủ đề về quân đội và cảnh sát, phụ nữ và các vấn đề pháp lý. Nguyên tắc chỉ đạo là phải đảm bảo mọi thông tin liên quan được đánh giá một cách khách quan, toàn diện và công bằng.

Các báo cáo lần này sẽ được sử dụng làm nguồn thông tin phục vụ việc hoạch định chính sách, triển khai công tác ngoại giao, cung cấp viện trợ, đào tạo và phân bổ nguồn lực. Các báo cáo này cũng là cơ sở để Chính phủ Hoa Kỳ hợp tác với các nhóm tư nhân nhằm thúc đẩy việc tôn trọng các quyền con người được quốc tế công nhận.

Báo cáo về tình hình nhân quyền ở các nước đề cập tới các quyền cá nhân, dân sự, chính trị và quyền của người lao động đã quy định trong Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền. Các quyền đó bao gồm quyền không bị tra tấn, không phải chịu các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn nhẫn, phi nhân tính hoặc hạ thấp danh dự, không bị bỏ tù mà chưa qua xét xử, không bị thủ tiêu hay giam giữ bí mật, không bị vi phạm trắng trợn quyền được sống, quyền tự do và an ninh của mỗi người.

Để đảm bảo nhân quyền trên toàn cầu đòi hỏi phải đưa sự tôn trọng nhân phẩm vào trong quá trình quản lý và thực thi pháp luật. Mọi người đều có quyền có quốc tịch, quyền bất khả xâm phạm được thay đổi chính phủ của họ bằng biện pháp hòa bình và được hưởng các quyền tự do cơ bản, như quyền tự do ngôn luận, lập hội, hội họp, đi lại và quyền tự do tôn giáo mà không bị phân biệt đối xử vì lý do chủng tộc, tôn giáo, nguồn gốc hay giới tính. Quyền được tham gia công đoàn tự do là điều kiện cần thiết của một xã hội và một nền kinh tế tự do. Do đó, các báo cáo này đánh giá các quyền chủ yếu của người lao động đã được quốc tế công nhận, bao gồm quyền lập hội, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, cấm các hình thức lao động cưỡng bức, lạm dụng lao động trẻ em, độ tuổi tối thiểu của trẻ em khi tham gia lao động và các điều kiện làm việc có thể chấp nhận được.

Trong Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, ban biên tập các báo cáo tình hình nhân quyền các nước gồm: Tổng biên tập Stephen Eisenbraun; Các giám đốc phòng ban: Bruce Connuck, Kay Mayfield và Michael Orona; Các biên tập viên cao cấp: Jonathan Bemis, Douglas B. Dearborn, Daniel Dolan, Jerome L. Hoganson, Patricia Meeks Schnell, Julie Turner và Rachel Waldstein; Các biên tập viên: Naim Ahmed, Sabrina Bahir, Joseph S. Barghout, Katherine Berglund, Sarah Beringer, Alisha Bhagat, Sarah Buckley, Laura Carey, Elise Carlson-Rainer, Ebenezer Concepcion, Sharon C. Cooke, Susan Corke, Stuart Crampton, Frank B. Crump, Mollie Davis, Cortney Dell, Morton Dworken, Jennifer Evans, Verinda Fike, Joan Garner, Karen Gilbride, Jeffrey Glassman, Edward Grulich, Cheryl Harris, Patrick Harvey, Matthew Hickey, Alexandra Hoey, Victor Huser, Stan Ifshin, Sami Jiries, Simone Joseph, Jennifer King, Jane Kim, Sidney Kwiram, Lawrence Lesser, Jessica Lieberman, Katie McLain, John McKane, Michael McKenna, Gregory Maggio, Jessica Megill, Nicole Morales, David Mikosz, Leonel Miranda, Stephen E. Moody, Jennie Munoz, Sandra Murphy, Daniel L. Nadel, Catherine Newling, Susan O’Sullivan, Meredith Pierce, Drue Preissman, Peter Sawchyn, Amy Schmisseur, Wendy Silverman, Erin Spitzer, Rachel Spring, Brian Stout, James Todd, Rachel Waldstein, Nicole Wilett, Mikel Wood và Isabelle Zsoldos; Cộng tác viên: Lynne Davidson; Trợ lý biên tập: Adrienne Bory, Karen Chen, Carol Finerty, Elizabeth Mokaba và Kimberly Jorgensen; và Trợ lý kỹ thuật Eunice Johnson.

GIỚI THIỆU

Đặc trưng của năm qua thể hiện trên ba xu hướng: đòi hỏi quyền tự do cá nhân và tự do chính trị gia tăng trên toàn thế giới; các chính phủ ra sức hạn chế những quyền tự do này; nhân quyền được phát huy mạnh mẽ nhất ở các nền dân chủ có sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội dân sự mạnh mẽ.

Các báo cáo mà Quốc hội yêu cầu mô tả việc các chính phủ trên toàn cầu thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền trong năm 2008. Chúng ta hy vọng rằng các báo cáo này sẽ thu hút sự tập trung đối với các vụ vi phạm nhân quyền và hành động để chấm dứt những vụ vi pham đó. Đồng thời, chúng ta cũng hy vọng rằng những tiến bộ khó khăn lắm mới đạt được vì quyền tự do của con người được ghi nhận trong các báo cáo này sẽ cổ vũ những người vẫn đang đấu tranh cho các quyền của họ nhưng luôn gặp phải nhiều trở ngại lớn.

Các báo cáo này sẽ là nguồn thông tin giúp hoạch định chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ và là tài liệu tham khảo cho các chính phủ khác, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, những người bảo vệ nhân quyền và các phóng viên. Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ không chỉ tập trung vào việc phòng vệ hiệu quả mà còn thúc đẩy một nền ngoại giao mạnh và tích cực ủng hộ phát triển kinh tế và chính trị. Một chính sách nhân quyền mạnh mẽ tái khẳng định các giá trị Mỹ và thúc đẩy lợi ích quốc gia của chúng ta. Như Tổng thống Obama khẳng định trong bài phát biểu nhậm chức “Hoa Kỳ là người bạn của mỗi quốc gia, mỗi con người và của mỗi em thơ, những người đang tìm kiếm một tương lai hòa bình và được tôn trọng phẩm giá…”, nhưng với “những kẻ bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng những tiếng nói bất đồng, nên nhớ rằng quý vị đang đi ngược lại lịch sử; nhưng chúng tôi sẽ chìa bàn tay nếu quý vị từ bỏ nắm đấm”.

Kể từ những ngày đầu lập quốc, chúng ta đã dốc sức thực hiện công lý và thúc đấy tôn trọng đầy đủ các quyền tự do cơ bản cho mọi công dân. Những nỗ lực này được thúc đẩy và duy trì bởi hệ thống quản lý dân chủ, có trách nhiệm, bởi pháp quyền, giới truyền thông tự do và quan trọng hơn cả là sự năng động của người dân chúng ta.

Khi xuất bản báo cáo này, Bộ Ngoại giao luôn ý thức được rằng thành tích nhân quyền của chúng ta cũng bị theo dõi cả trong nước lẫn trên trường quốc tế. Như Tổng thống Obama mới đây đã khẳng định rõ “chúng ta không chấp nhận việc phải lựa chọn giữa sự an toàn và những lý tưởng của chúng ta”. Chúng ta không coi việc các nước khác trong cộng đồng quốc tế chỉ trích thành tích nhân quyền của chúng ta là sự can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta - dù đó là lời chỉ trích của các chính phủ khác hoặc các chủ thể phi chính phủ - và các chính phủ khác cũng không nên coi sự chỉ trích đối với thành tích nhân quyền của họ cũng là sự can thiệp vào công việc nội bộ. Chúng ta và tất cả các quốc gia có chủ quyền khác có nghĩa vụ quốc tế phải tôn trọng các quyền con người phổ quát và các quyền tự do của công dân chúng ta. Các quốc gia khác có trách nhiệm lên tiếng khi họ thấy rằng những nghĩa vụ này không được thực hiện đầy đủ.

Chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục lắng nghe và đáp ứng ngay lập tức những quan ngại đối với tình hình nhân quyền của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục đệ trình báo cáo lên các tổ chức quốc tế, phù hợp với nghĩa vụ của chúng ta trong các công ước quốc tế về nhân quyền mà chúng ta là một bên tham gia. Luật pháp, các chính sách và thực tiễn Hoa Kỳ đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây và sẽ tiếp tục còn thay đổi. Ví dụ, ngày 22/1/2009, Tổng thống Obama đã ký ba pháp lệnh đóng cửa các nhà tù tại Guantanamo và xem xét lại chính sách của Mỹ về việc giam giữ và thẩm vấn tù nhân.

Thông tin trong các báo cáo này được thu thập từ các chính phủ và các thể chế đa phương, các tổ chức chính phi chính phủ trong nước và quốc tế, các học giả, các luật sư, các nhóm tôn giáo và truyền thông. Các báo cáo đã phải trải qua quá trình lâu dài để kiểm tra số liệu, thông tin nhằm đảm bảo tính chính xác cao và khách quan. Báo cáo tình hình mỗi nước chỉ trình bày tình hình nước đó. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể rút ra những nhận xét tổng thể.

Thứ nhất, trong năm 2008 phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do cá nhân và tự do chính trị nhiều hơn tiếp tục bị đàn áp ở nhiều nước trên thế giới. Một số quốc gia đã ban hành các luật và quy định cản trở, hạn chế và rất hà khắc đối với các tổ chức phi chính phủ và truyền thông, kể cả Internet. Nhiều người bảo vệ nhân quyền dũng cảm đấu tranh một cách hòa bình để đòi các quyền của bản thân họ và của đồng bào họ đã bị sách nhiễu, đe dọa, bắt giam, bỏ tù, giết hại hoặc bị trả thù bằng những hành vi bạo lực.

Thứ hai, các vụ vi phạm nhân quyền vẫn là biểu hiện của tình trạng tê liệt trầm trọng hơn trong hệ thống chính trị. Những vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất có xu hướng xảy ra ở những quốc gia mà những kẻ cai trị vô trách nhiệm nắm giữ quyền lực nhưng không bị kiểm soát hoặc ở những nơi chính phủ thất bại hoặc sụp đổ, thường do xung đột nội bộ hoặc mâu thuẫn bên ngoài.

Thứ ba, các hệ thống chính trị mạnh mẽ chắc chắc sẽ tôn trọng nhân quyền hơn. Các quốc gia ở đó nhân quyền được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ nhất là những quốc gia hội tụ được những yếu tố về bầu cử, thể chế và xã hội sau:

• Các tiến trình bầu cử tự do và công bằng không chỉ bao gồm việc bỏ phiếu minh bạch và kiểm phiếu trung thực vào ngày bầu cử, mà quá trình chạy đua còn cho phép sự cạnh tranh thực sự và tôn trọng đầy đủ các quyền tự do ngôn luận, hội họp hòa bình và lập hội.
• Các thể chế quản lý mang tính đại diện, có trách nhiệm, minh bạch và dân chủ, trong đó có các cơ quan tư pháp độc lập, tuân thủ pháp quyền để đảm bảo những nhà lãnh đạo được bầu một cách dân chủ cũng quản lý một cách dân chủ và đáp ứng ý chí và nguyện vọng của người dân, và
• Các tổ chức xã hội dân sự mạnh, trong đó có các tổ chức phi chính phủ độc lập và giới báo chí tự do.

Tuy nhiên, ngay cả ở các quốc gia có những yếu tố này thì vi phạm nhân quyền đôi khi vẫn xảy ra. Các cuộc bầu cử dân chủ có thể bị thất bại bởi những điều bất thường. Đó có thể là sự lạm dụng quyền lực và xử oan sai. Những quốc gia có các thiết chế quản lý dân chủ yếu kém và nền kinh tế khó khăn còn lâu mới có thể đáp ứng được nhu cầu và mong đợi của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tham nhũng có thể làm suy giảm lòng tin của công chúng. Ở một số quốc gia, một phần dân chúng từ lâu bị đẩy ra ngoài lề và chưa được tham gia đầy đủ vào đời sống quốc gia họ. Bất ổn do xung đột nội bộ hoặc xung đột xuyên biên giới có thể cản trở sự tôn trọng và tiến bộ về nhân quyền. Tuy nhiên, khi đã đạt được những yếu tố về bầu cử, thể chế và xã hội này thì triển vọng sẽ khả quan hơn khi các vấn đề được giải quyết, sai lầm được sửa chữa và tình hình được cải thiện.

Tựu trung lại, ba xu hướng này cho thấy nền ngoại giao mạnh mẽ của Hoa Kỳ cần phải tiếp tục hành động và lên án các vụ vi phạm nhân quyền, đồng thời chúng ta xem xét thận trọng tình hình của chính chúng ta. Những xu hướng này khẳng định hơn nữa nhu cầu phối hợp ngoại giao với các chiến lược sáng tạo, giúp xây dựng các hệ thống chính trị mạnh và hỗ trợ xã hội dân sự.

Dưới đây, độc giả sẽ theo dõi phần tổng quan nhấn mạnh các xu hướng chính tại mỗi khu vực địa lý. Phần trình bày tổng quan mỗi khu vực sẽ kèm theo phân tích một số nước (xếp theo trình tự chữ cái) được chọn vì có những diễn biến nổi bật theo hướng tích cực, tiêu cực hoặc cả hai - được trình bày theo trình tự thời gian trong năm 2008. Để xem thông tin chi tiết và toàn diện hơn, độc giả nên đọc phần báo cáo riêng tình hình từng nước.

Tổng quan các khu vực

Châu Phi

Một số quốc gia châu Phi là nhân tố ổn định trong khu vực, đồng thời là những ví dụ điển hình về hòa bình và ổn định nhờ tôn trọng pháp quyền. Tuy nhiên, trong năm qua, tình hình dân chủ, nhân quyền ở khu vực tiếp tục gặp những thách thức nghiêm trọng, đặc biệt là một số quốc gia trong tình trạng xung đột và những quốc gia khác mà ở đó văn hóa pháp quyền còn quá mong manh hoặc không tồn tại.

Ở nhiều quốc gia, các lực lượng an ninh chính phủ tiếp tục vi phạm các quyền của người dân nhưng không hề bị truy cứu. Ở một số quốc gia, việc lực lượng an ninh đánh đập có hệ thống người bị giam giữ và tù nhân vẫn là một vấn đề nghiêm trọng, điều kiện ở các trại giam và nhà tù rất tồi tàn và đe dọa mạng sống con người. Nhiều người bị giam giữ rất lâu trước khi xét xử, hàng tháng, thậm chí hàng năm trước khi bị đưa ra xét xử.

Với những quốc gia ngập chìm trong xung đột, chấm dứt bạo lực vẫn là vấn đề cơ bản để cải thiện tình hình nhân quyền. Các phe phái tham chiến không thực hiện được các hiệp định chính trị nhằm mang lại hòa bình và ổn định. Xung đột bạo lực tiếp tục hoặc mới nổ ra ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô, Sô-ma-li và Xu-đăng, dẫn đến tình trạng giết hại tùy tiện, cưỡng hiếp và đẩy người dân vào tình trạng vô gia cư. Chính phủ Xu-đăng tiếp tục hợp tác với các nhóm bán quân sự đánh bom và phá hủy các làng mạc, sát hại hoặc khiến cho hàng trăm nghìn dân thường vô tội bị biến thành người vô gia cư.

Nhiều quốc gia châu Phi vẫn có các chế độ cai trị độc tài. Chẳng hạn như ở Zim-ba-bu-ê, Chính quyền Mugabe phát hiện ra một chiến dịch khủng bố dẫn đến cảnh giết hại, mất tích và đánh đập hàng trăm thành viên và những người ủng hộ đảng đối lập sau các cuộc bầu cử bất bình đẳng và không tự do ngày 29/3. Sự đàn áp, hạn chế và quản lý yếu kém của chính phủ khiến hàng chục nghìn người rơi vào tình cảnh vô gia cư, làm gia tăng tình trạng mất an ninh lương thực, gây ra dịch tả khiến đến cuối năm đã có 1.500 người chết. Các cuộc bầu cử tổng thống bị hoãn lại trước đó ở Bờ Biển Ngà tiếp tục bị trì hoãn. Một cuộc đảo chính đã lật đổ chính phủ được bầu lên dân chủ ở Mauritania. Sau cái chết của Lansana Conte, Tổng thống lâu năm của Ghi-nê, quân đội đã nắm quyền trong một cuộc đảo chính và bãi bỏ hiến pháp.

Tuy nhiên, cũng có một số điểm sáng. Ăng-gô-la tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên kể từ năm 1992 và ở Gha-na và Zăm-bi-a cũng đã diễn ra các cuộc bầu cử dân chủ, hòa bình, có trật tự. Tuân thủ pháp quyền và trình tự thủ tục xét xử đúng đắn đã được thực hiện ở Ni-giê-ri-a khi các ứng cử viên đối lập trong cuộc bầu cử tổng thống 2007 tôn trọng phán quyết của Tòa án Tối cao Ni-giê-ri-a về việc bầu Umaru Musa Yar'Adua làm Tổng thống. Tòa Hình sự Quốc tế của Liên Hợp Quốc ở Ru-an-đa đã kết án một cựu đại tá quân đội Ru-an-đa mức án tù chung thân vì tổ chức quân đội giết hại 800.000 người Tutsi và bênh vực người Hutus trong cuộc diệt chủng tại Ru-an-đa năm 1994.

Tình hình ở một số quốc gia điển hình

Trong năm, tình hình nhân quyền ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô (DRC) tồi tệ hơn, hủy hoại nghiêm trọng tiến bộ của quốc gia này kể từ các cuộc bầu cử năm 2006. Bất chấp việc ký thỏa thuận hòa bình Gôma hồi tháng 1 và sự hiện diện của lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, xung đột tiếp tục diễn ra ở miền Bắc và Nam Kivu suốt cả năm. Các lực lượng an ninh và tất cả các nhóm vũ trang tiếp tục hành động mà không hề bị truy cứu trách nhiệm, liên tục tiến hành các vụ vi phạm nghiêm trọng như giết hại bừa bãi, mất tích, bắt giam tùy tiện, đánh đập, cưỡng hiếp, cướp bóc và sử dụng lính trẻ con. Cuộc xung đột này tiếp tục làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo tồi tệ nhất ở châu Phi, khiến mỗi tháng có tới 45.000 người Công-gô bị chết, tổng số hơn 1 triệu người vô gia cư trong nước, các nhóm vũ trang tiến hành hàng chục cuộc tấn công vào các nhân viên cứu trợ nhân đạo. Tình trạng bạo lực tình dục tiếp diễn tràn lan, tính đến tháng 6 riêng ở Bắc Kivu đã có hơn 2.200 vụ cưỡng hiếp. Trong năm, các lực lượng an ninh sách nhiễu, đánh đập, trả thù và bắt các nhà hoạt động nhân quyền ở địa phương và các phóng viên, khiến quyền tự do báo chí bị suy giảm nghiêm trọng.

Thành tích nhân quyền của Eritrea tồi tệ hơn. Chính phủ tiếp tục có những vụ vi phạm nghiêm trọng, trong đó lực lượng an ninh gây ra các vụ giết hại không bị xét xử nhưng không hề bị truy cứu. Đảng Mặt trận Nhân dân vì Dân chủ và Công lý (PFDJ) là đảng chính trị hợp pháp duy nhất và không có cuộc bầu cử toàn quốc nào diễn ra kể từ khi Ertriea giành được độc lập năm 1993. Hiến pháp, được phê chuẩn năm 1997, nhưng chưa bao giờ được thực hiện. Báo chí độc lập bị cấm và hầu hết các phóng viên độc lập bị giam giữ hoặc đã chạy trốn ra nước ngoài. Việc Chính phủ tập trung thanh niên để thực hiện nghĩa vụ quân sự gia tăng năm 2008. Có những báo cáo đáng tin cậy cho biết những người trốn nghĩa vụ quân sự bị đánh đập trong khi giam giữ; các lực lượng an ninh bắn tất cả những ai cố gắng vượt biên sang Ethiopia. Quyền tự do tôn giáo, vốn bị hạn chế khắt khe, càng ngặt nghèo hơn nữa. Vào cuối năm, hơn 3.000 tín đồ công giáo thuộc các nhóm không đăng ký đã bị bỏ tù, hơn 35 chức sắc và các mục sư giáo hội Tin Lành, một số trong đó bị giam giữ hơn ba năm mà không hề bị cáo buộc hay xét xử. Ít nhân có ba tù nhân tôn giáo đã chết trong khi bị giam cầm, do bị đánh đập và không được chữa trị.

Tình trạng bạo lực sau các cuộc bầu cử địa phương, bầu cử quốc hội và tổng thống ở Kenya tháng 12/2007 đã chấm dứt hồi tháng 2 khi tiến trình hòa giải quốc tế đã đem lại một thỏa thuận hình thành chính phủ liên minh theo đó Tổng thống Mwai Kibaki tiếp tục tại vị và ứng cử viên đối lập Raila Odinga được bổ nhiệm giữ chức thủ tướng - một vị trí mới được lập ra. Hòa giải chính trị đã tạo ra một khuôn khổ cải tổ để điều tra và giải quyết những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực, khiến khoảng 15.000 người bị giết hại và hơn 500.000 người khác rơi vào tình cảnh vô gia cư. Tuy nhiên, tiến bộ cải cách còn chậm chạp và nỗ lực giải quyết các hậu quả kinh tế, xã hội vẫn chưa hoàn thành. Riêng việc triển khai lực lượng an ninh tới Mount Elgon để trấn áp nhóm phiến quân đã gây ra các vụ vi phạm nhân quyền do các lực lượng an ninh tiến hành.

Thành tích nhân quyền của Mauritania rất tồi tệ, công dân không có quyền được thay đổi chính phủ, tình trạng bắt bớ tùy tiện, tổng thống và thủ tướng bị giam cầm sau cuộc đảo chính ngày 6/8. Tổng thống đã được thả hồi tháng 12. Tuy nhiên, quân đội dưới danh nghĩa Hội đồng Nhà nước Tối cao, tiếp tục nắm quyền. Cuối năm, Tướng Mohamed Aziz giữ chức vụ người đứng đầu nhà nước. Thành viên của cộng đồng quốc tế, trong đó có Liên minh châu Phi, đã lên án mạnh mẽ cuộc đảo chính này. Trước cuộc đảo chính ngày 6/8, Chính phủ được bầu lên một cách dân chủ lúc đó đã ủng hộ luật chống nô lệ mới và cho phép thảo luận công khai những vấn đề trước đây được coi là cấm kỵ, chẳng hạn như tình trạng chia rẽ sắc tộc và bất bình đẳng xã hội. Chính phủ cũng ủng hộ những nỗ lực hòa giải dân tộc liên quan đến vụ trục xuất những người Mauritani gốc Phi giai đoạn 1989-1991 thông qua chương trình hồi hương, phối hợp với Cao ủy Liên Hợp Quốc về người Tị nạn (UNHCR).

Tại Nigeria, tòa án tiếp tục phân xử kết quả bầu cử trong các cuộc bầu cử tổng thống, thống đốc và bầu cử quốc hội năm 2007 vốn có nhiều sai sót nghiêm trọng. Ngày 12/12, Tòa án Tối cao bác đơn phúc thẩm của hai ứng cử viên tổng thống đối lập, giữ nguyên kết quả bầu cử dành cho Tổng thống Yar'Adua. Hai ứng cử viên đối lập đã tôn trọng phán quyết của Tòa. Trong năm, các tòa án bầu cử hủy 9 cuộc bầu thượng nghị sĩ và 11 cuộc bầu thống đốc. Bạo lực tiếp tục xảy ra ở vùng đồng bằng Niger sản xuất dầu, với hơn 400 người (người Nigeria bản xứ và người bị đi đày) đã bị bắt cóc trong khoảng 100 vụ xảy ra trong năm. Tháng 11, bạo lực sắc tộc-tôn giáo bùng phát ở Jos, khiến hàng trăm người chết và hàng vạn người bị mất nhà cửa. Tham nhũng tiếp tục tàn phá đất nước giàu tài nguyên này và nỗ lực của Ủy ban chống Tội phạm Kinh tế và Tài chính suy giảm, không có nhiều tiến bộ đạt được trong việc truy tố các quan chức liên bang, bang và địa phương bị cáo buộc tham nhũng.

Ở Sô-ma-li, giao tranh giữa Chính phủ Liên bang tạm quyền (TFG)/Lực lượng Quốc phòng Ê-ti-ô-pi và quân đội của họ, Hội đồng Quân đội Hồi giáo, các nhóm chống chính phủ và cực đoan, các tổ chức khủng bố và quân du kích đã dẫn đến tình trạng vi phạm nhân quyền tràn lan, trong đó có vụ giết hại hơn 1.000 dân thường, đẩy hàng trăm nghìn người vào cảnh vô gia cư, gây ra các vụ bắt cóc, mất tích và tấn công các phóng viên, các nhân viên cứu trợ, các nhà lãnh đạo xã hội dân sự và các nhà hoạt động vì nhân quyền. Tiến trình chính trị nhằm thiết lập hòa bình và an ninh ở quốc gia này vẫn tiếp tục khi TFG và Liên minh vì Sự nghiệp Giải phóng Sô-ma-li đạt được Thỏa thuận Djibouti ngày 9/6 và bắt đầu thực hiện các điều khoản của đạo luật này. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm chạp và bị cản trở bởi đấu tranh nội bộ.

Ở Xu-đăng, xung đột tại Đa-fua đã bước sang năm thứ 5. Dân thường tiếp tục chịu ảnh hưởng của nạn diệt chủng. Số liệu của Liên Hợp Quốc năm 2008 cho thấy từ khi bắt đầu, cuộc xung đột kéo dài này đã khiến hơn 2,7 triệu người trở thành vô gia cư và 250.000 người khác chạy sang tị nạn tại nước Cộng hòa Chad. Các cuộc tấn công của chính phủ, quân đội liên minh với chính phủ và giữa các bộ lạc khiến nhiều dân thường bị giết hại. Quân chính phủ dội bom làng mạc, giết hại những người vô gia cư trong nước và phối hợp với quân đội để san phẳng làng mạc. Chính phủ ngăn cản các nỗ lực trợ giúp nhân đạo; phiến quân và những kẻ cướp bóc giết hại các nhân viên cứu trợ nhân đạo. Những kẻ tấn công không rõ danh tính đã giết các nhóm gìn giữ hòa bình của Liên minh châu Phi và Liên Hợp Quốc, còn quân đội Chính phủ tấn công một sứ giả gìn giữ hòa bình. Ngày 10/5/2008, Phong trào vì Công lý và Bình đẳng, một nhóm phiến quân Đa-fua, đã tấn công Omdurman, gần Khartoum. Chính phủ đã tiến hành các vụ giam giữ vì động cơ chính trị và sắc tộc và gây ra các vụ mất tích tại Omdurman và Khartoum sau vụ tấn công. Chính phủ hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do báo chí, thông qua kiểm duyệt trực tiếp và tiến hành kiểm duyệt hàng ngày. Từ năm 2005, khi Hiệp định Hòa bình Toàn diện (CPA) giữa miền Nam và miền Bắc được ký kết, khoảng 2,1 triệu người vô gia cư và người tị nạn đã trở về miền Nam. Tuy nhiên, căng thẳng về việc thực hiện CPA vẫn còn, giao tranh giữa các lực lượng miền Bắc và miền Nam đã phá hủy phần lớn thị trấn Abyei, giết hại dân thường và đẩy hơn 50.000 người vào tình trạng vô gia cư.

Chính phủ bất hợp pháp tại Zim-ba-bu-ê vi phạm có hệ thống các quyền con người, các vụ vi phạm này gia tăng đáng kể, cùng với cuộc khủng hoảng nhân đạo đang leo thang do tình trạng đàn áp, tham nhũng, các chính sách kinh tế và lương thực mang tính hủy hoại mà Chính quyền Mugabe kiên trì áp dụng, bất chấp những hậu quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng nhân đạo. Xã hội dân sự và các tổ chức nhân đạo là mục tiêu theo dõi của Chính phủ và các nhóm du kích vì họ cố gắng bảo vệ các quyền công dân và trợ giúp nhân đạo. Lệnh cấm kéo dài gần ba tháng đối với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo cũng như tình trạng mất an ninh lương thực và đói nghèo. Sau khi lệnh cấm được dỡ bỏ, Chính quyền Mugabe tiếp tục cản trở nỗ lực cứu trợ nhân đạo. Đến cuối năm, hàng triệu người Zim-ba-bu-ê không được đảm bảo về lương thực.

Chính quyền lũng đoạn tiến trình chính trị, kể cả các cuộc bầu cử tổng thống, bằng hành động trả thù, bạo lực, tham nhũng và bầu cử gian lận, phủ nhận quyền của công dân được thay đổi chính phủ. Các lực lượng an ninh và những người ủng hộ đảng cầm quyền giết hại, bắt cóc và đánh đập thành viên của đảng đối lập, lãnh đạo phong trào sinh viên, các nhà hoạt động xã hội và dân thường Zim-ba-bu-ê nhưng không hề bị truy cứu. Phong trào vì Thay đổi Dân chủ (MDC) đã giành đa số ghế tại quốc hội trong cuộc bầu cử ngày 29/3, tuy nhiên kết quả của cuộc chạy đua giành chức tổng thống không được công bố cho tới ngày 2/5, gây ra nghi ngờ về uy tín và sự độc lập của Ủy ban Bầu cử Zim-ba-bu-ê. Tình trạng bạo lực do chính phủ bảo trợ trong giai đoạn này dẫn đến bầu cử lại ngày 27/6 đã khiến 190 người chết, hàng trăm người bị thương và hàng chục nghìn người vô gia cư. Ủy ban Bầu cử tuyên bố Mugabe chiến thắng trong cuộc bầu cử lại sau khi ứng cử viên của MDC là Morgan Tsvangirai - người đã giành đa số phiếu phổ thông trong vòng đầu – rút lui do tình trạng bạo lực của chính quyền Mugabe nhằm vào MDC và những người ủng hộ phong trào này và nhận thức rằng không thể có một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Các cuộc đàm phán do Cộng đồng Phát triển Nam Phi (SADC) ủy nhiệm đã dẫn tới một hiệp định chia sẻ quyền lực ngày 15/9. Tuy nhiên, đến cuối năm do chính phủ không khoan nhượng, các điều khỏa của thỏa thuận này đã không được thực thi và quốc gia này vẫn trong tình trạng khủng hoảng.

Đông Á-Thái Bình Dương

Trong năm qua, khu vực Đông Á-Thái Bình Dương rộng lớn chứng kiến cả tiến bộ lẫn sự thụt lùi về hình nhân quyền, đặc biệt là trách nhiệm đối với những vụ vi phạm từ trước, quyền tự do ngôn luận và báo chí, tiến bộ về dân chủ và tình trạng buôn người.

Các quốc gia trong khu vực tiếp tục chấp nhận những vụ vi phạm trước đó. Trong năm, Ủy ban song phương về Sự thật và Hữu nghị, được thành lập để đánh giá tội ác do người Inđônêxia và người Timo vi phạm trong giai đoạn trưng cầu dân ý đòi độc lập cho Đông Timo năm 1999, đã đưa ra bản báo cáo cuối cùng. Tổng thống Inđônêxia thừa nhận những thông tin trong báo cáo quy trách nhiệm cho Lực lượng Vũ trang Inđônêxia. Bên cạnh đó, tháng 8, Tòa án Đặc biệt Căm-pu-chia xét xử bọn Khmer Đỏ đã soạn lại những nguyên tắc nội bộ để đẩy nhanh việc truy tố tội ác man rợ của chế độ Khmer Đỏ trong giai đoạn 1975-1979. Tuy nhiên, đến cuối năm các phiên tòa xét xử vẫn chưa diễn ra.

Một số quốc gia đã gia tăng đàn áp để đáp trả những nỗ lực của người dân nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền con người. Việt Nam tăng cường hạn chế đối với quyền tự do báo chí và ngôn luận. Ở Trung Quốc, Chính quyền tăng cường đàn áp tôn giáo và văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Tạng và Khu tự trị của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương và tăng cường giam giữ và gây khó khăn cho những người bất đồng và những người khiếu kiện.

Những kẻ cai trị khác không được bầu lên để nắm quyền thì cố tình che đậy sự bất hợp pháp bằng các hình thức dân chủ giả hiệu và lũng đoạn luật pháp để đạt mục đích của mình. Chính quyền My-an-ma đã tiến hành trưng cầu dân ý về bản hiến pháp trong đó đầy rẫy những điều bất thường và cả sự đe dọa ngay sau khi cơn bão Nargis hoành hành. Mặc dù hiến pháp đã có hiệu lực hồi tháng 5, theo các điều khoản trong hiến pháp, chính quyền quân sự sẽ tiếp tục “thực hiện quyền chủ quyền quốc gia” cho đến khi tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng được tổ chức năm 2010. Hiến pháp đảm bảo rằng quân đội sẽ tiếp tục nắm quyền chủ đạo trong đời sống chính trị bất chấp kết quả của tiến trình bầu cử. Vào cuối năm, chính quyền đã áp dụng các bản án nghiêm khắc đối với hơn 100 nhà hoạt động vì dân chủ đã tham gia cuộc biểu tình của các sư sãi năm 2007 và những cá nhân đã tham gia nỗ lực cứu trợ sau cơn bão Nagis. Nhiều người đã bị chuyển đến các nhà tù ở các vùng xa xôi hẻo lánh, bị cô lập với gia đình. Tại Fiji, Tòa án Tối cao ra phán quyết công nhận cuộc đảo chính 2006 tại Fiji, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ trước quyết định của chính phủ lâm thời không tổ chức bầu cử vào tháng 3/2009.

Buôn người là một vấn đề nữa mà tiến bộ đạt được ở mỗi nơi mỗi khác. Một số quốc gia đã ban hành đạo luật chống buôn người mới, ví dụ như Thái Lan và Căm-pu-chia và bắt đầu đã điều tra và truy tố một loạt tội danh buôn người, như buôn nam giới để bóc lột sức lao động. Tuy nhiên ở Malaysia, nhiều báo cáo của các tổ chức phi chính phủ và truyền thông cáo buộc các nhân viên hải quan Malaysia dính líu đến việc buôn người tị nạn My-an-ma dọc biên giới Thái Lan và Malaysia.

Tình hình ở một số quốc gia điển hình

Chính quyền quân sự My-an-ma tiếp tục có những biện pháp đàn áp, không cho người dân được quyền thay đổi chính phủ và gây ra các vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Chính quyền đàn áp tàn bạo những người bất đồng chính kiến, giết hại tùy tiện, gây ra các vụ mất tích và đánh đập. Các nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ bị sách nhiễu, giam giữ tùy tiện với số đông và bị kết án tới 65 năm tù. Chính quyền giam giữ những người bị bắt và tù nhân trong những điều kiện đe dọa tới mạng sống của họ. Chính quyền tiếp tục tấn công vào các khu vực dân tộc thiểu số.

Chính quyền liên tục vi phạm đời sống riêng tư của công dân và hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, tự do tôn giáo và tự do đi lại. Bạo lực và phân biệt đối xử với phụ nữ và người dân tộc thiểu số và tình trạng buôn người tiếp tục diễn ra. Các quyền của người lao động bị hạn chế và tình trạng cưỡng bức lao động vẫn tiếp diễn. Chính phủ không có hành động nào để truy tố hoặc trừng phạt những người có trách nhiệm về các vụ vi phạm đó. Chính quyền không hề đếm xỉa đến vấn đề phúc lợi của nguời dân khi cố tình tiến hành trưng cầu dân ý dối trá ngay sau thảm họa của cơn bão đã làm hàng chục nghìn người chết, lại còn ngăn chặn và trì hoãn trợ giúp quốc tế mà lẽ ra đã có thể cứu sống nhiều người.

Thành tích nhân quyền của chính phủ Trung Quốc vẫn rất tồi tệ và xấu đi trong một số lĩnh vực. Chính phủ tiếp tục hạn chế các quyền riêng tư của người dân và kiểm soát chặt chẽ quyền tự do ngôn luận, báo chí (cả Internet), quyền tự do hội họp, đi lại và lập hội. Các nhà chức trách tiến hành nhiều vụ giết hại tùy tiện, đánh đập, ép cung phạm nhân và cưỡng bước lao động. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc còn tăng cường bắt giam và gây khó khăn đối với các nhân vật bất đồng chính kiến, những người khiếu kiện, các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, các luật sư bào chữa. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế và địa phương tiếp tục phải đối mặt với tình trạng kiểm duyệt và hạn chế gắt gao.

Thành tích nhân quyền của Trung Quốc tồi tệ hơn trong một số lĩnh vực. Đàn áp mạnh mẽ về tôn giáo và văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở Khu tự trị của người dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương và Tây Tạng. Các vụ vi phạm lên đến cao điểm trước những sự kiện lớn như Olympic và bạo loạn ở Tây Tạng. Cuối năm, Chính phủ gây khó dễ đối với những người ký vào Hiến chương 08 kêu gọi cải cách và tôn trọng các quyền con người phổ quát và bắt nhà văn Liu Xiaobo vì tham gia soạn thảo bản Hiến chương. Tháng 10, các quy định tạm thời liên quan đến Olympic đã được chính phủ thông qua thành các quy định chính thức, lâu dài, theo đó các phóng viên có nhiều quyền tự do hơn.

Chính phủ Malaysia nhìn chung tôn trọng các quyền của công dân. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực vẫn còn vấn đề, trong đó có việc cấm người dân được thay đổi chính phủ. Mặc dù phàn nàn rằng đảng cầm quyền đã khai thác quyền lực của các vị trí đang nắm, nhưng các đảng đối lập vẫn giành được kết quả đáng kể 82/222 ghế Quốc hội trong cuộc bầu cử ngày 8/3, không cho liên minh cầm quyền có được 2/3 đa số cần thiết để sửa đổi Hiến pháp đang có hiệu lực. Chính phủ tiếp tục hạn chế các quyền tự do báo chí, hội họp, lập hội, tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Chính phủ đã bắt các lãnh đạo đảng đối lập và các phóng viên. Những người viết nhật ký mạng cũng bị bắt vì những lý do chính trị. Vẫn xảy ra tình trạng người bị giam giữ tại các đồn cảnh sát bị chết và cảnh sát có những hành vi vi phạm đối với người bị giam giữ; các trại giam giữ người di cư quá tải, quan ngại về sự vô tư và độc lập của cơ quan tư pháp. Một số chủ lao động đã bóc lột những người lao động di cư và Ma-lai gốc Ấn bằng hình thức ép lao động, hoặc sử dụng lao động trẻ em tại các đồn điền.

Thành tích nhân quyền của Bắc Triều Tiên vẫn cực kỳ tồi tệ. Mặc dù chính quyền tiếp tục kiểm soát hầu hết mọi khía cạnh đời sống của công dân, tước bỏ các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập hội và hội họp và hạn chế quyền tự do đi lại và các quyền của công nhân, vẫn có những báo cáo trong nước về tình trạng lạm dụng thường xuyên gia tăng. Tuy nhiên, rất khó để xác định chắc chắn những báo cáo này. Các báo cáo về những vụ giết hại tùy tiện, mất tích, giam giữ tùy tiện, trong đó có các tù nhân chính trị, tiếp tục làm bức tranh cuộc sống tại đất nước đóng cửa này trở nên xám xịt hơn. Được biết là một số người tị nạn bị buộc phải hồi hương đã bị trừng phạt nặng và có thể bị đánh đập. Cũng đã có những báo cáo về hình thức tử hình công khai.

Bất chấp tình hình chính trị rất rối ren, nhưng Thái Lan đã tránh được tình trạng gián đoạn vi hiến trong quản lý đất nước. Tuy nhiên, tiếp tục có những báo cáo cho biết cảnh sát có liên quan đến các vụ giết hại và mất tích phi pháp. Vẫn còn tình trạng cảnh sát có hành vi vi phạm đối với người bị giam giữ và các tù nhân và tình trạng tham nhũng trong lực lượng cảnh sát. Các cuộc nổi dậy đòi ly khai ở miền nam đã dẫn đến nhiều vụ vi phạm nhân quyền, trong đó có nhiều vụ giết hại tùy tiện do những người nổi dậy là người Hồi giáo gốc Ma-lai, các tình nguyện viên là các tín đồ Phật giáo và các lực lượng an ninh chính phủ đã gây ra. Chính phủ vẫn duy trì một số hạn chế về quyền tự do ngôn luận và báo chí, cụ thể thông qua việc sử dụng các điều khoản làm tổn hại tới Quốc vương. Thành viên một số nhóm sắc tộc không có giấy tờ phù hợp tiếp tục bị hạn chế đi lại. Tuy nhiên, Đạo luật Quốc tịch 2008, có hiệu lực ngày 28/2, giúp tăng khả năng những người này được trở thành công dân chính thức.

Trên nhiều phương diện, Chính phủ Việt Nam tiếp tục hạn chế các quyền công dân. Công dân không thể thay đổi chính phủ, các phong trào chính trị đối lập bị cấm, Chính phủ tiếp tục đàn áp những người bất đồng. Các cá nhân bị giam giữ tùy tiện vì tiến hành các hoạt động chính trị và bị tước quyền được xét xử công bằng và đúng trình tự, thủ tục. Trong quá trình bị bắt, giam giữ và thẩm vấn, các nghi can cũng bị phi phạm các quyền. Tình trạng tham nhũng là vấn đề nghiêm trọng trong lực lượng công an, tuy nhiên họ không hề bị truy cứu trách nhiệm. Chính phủ tiếp tục hạn chế các quyền cá nhân của công dân và quyền tự do bày tỏ. Trong năm, báo chí tiếp tục bị đàn áp, khiến một số biên tập viên cao cấp của các báo bị cách chức, hai phóng viên bị bắt. Những hành động này đã làm chững lại xu hướng điều tra mạnh mẽ hơn của báo chí trước đây. Những hạn chế về hội họp, đi lại và lập hội vẫn được duy trì. Các tổ chức nhân quyền độc lập bị cấm. Bạo lực, phân biệt đối xử với phụ nữ và buôn người vẫn là những vấn đề nghiêm trọng. Chính phủ hạn chế các quyền của người lao động, bắt hoặc gây khó dễ đối với một số nhà hoạt động trong lĩnh vực lao động.

Châu Âu và Âu-Á

Những thách thức chủ yếu tại khu vực này vẫn là củng cố các nền dân chủ mới, ngăn chặn không cho chính phủ áp đặt các hạn chế và đàn áp các tổ chức phi chính phủ đấu tranh cho nhân quyền và giải quyết tội kỳ thị và phỉ báng, đồng thời bảo vệ các quyền tự do cơ bản trong bối cảnh di cư, chủ nghĩa dân tộc gia tăng và suy thoái kinh tế.

Ở một số quốc gia hậu Xô-viết, những tiến bộ giành được trước đó về nhân quyền và dân chủ vẫn được duy trì hoặc xu hướng độc tài vẫn tiếp tục. Một số cuộc bầu cử đã không đáp ứng đủ tiêu chuẩn dân chủ do tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu đưa ra và quyền tự do truyền thông vẫn bị vi phạm. Các phóng viên bị giết hại hoặc gây khó khăn. Luật thường hạn chế chứ không bảo vệ quyền tự do ngôn luận.

Trong cuộc xung đột hồi tháng 8, khởi nguồn từ Nam Ossestia – khu vực ly khai thuộc Gru-zi-a – có tin là các hoạt động quân sự của các lực lượng Nga và Gru-zi-a đã sử dụng vũ lực tùy tiện và gây ra tổn thất lớn cho dân thường, trong đó có nhiều phóng viên. Sau khi Nga tiến vào Nam Ossetia, đã có những cáo buộc rằng các lực lượng du kích Nam Ossetia đã tham gia vào các vụ hành quyết, đánh đập tấn công người thiểu số, thiêu rụi nhà cửa và ít nhất 150.000 người Gru-zi-a rơi vào tình cảnh vô gia cư do chiến sự.

Các lực lượng Nga và Nam Ossetia chiếm giữ các ngôi làng thuộc ngoại ô biên giới hành chính Nam Ossetia và Abkhazia, một khu vực ly khai khác ở Gru-zi-a. Mặc dù vào ngày 10/10 các lực lượng Nga đã rút hầu hết khỏi các vùng ngoài Abkhazia và Nam Ossetia, nhưng họ chặn không cho người Gru-zi-a và các tổ chức quốc tế vào hai khu vực này, khiến cư dân ở trong tình trạng nguy hiểm và khó kiểm soát được tình hình khu vực trong vấn đề nhân quyền và tuân thủ luật nhân đạo.

Ở nhiều quốc gia, các chính phủ ngăn cản quyền tự do báo chí. Ở Azerbaijan, ngày càng xảy ra nhiều vụ tấn công nhằm vào các phóng viên nhưng những kẻ tấn công không hề bị truy cứu, trong khi các phóng viên vẫn bị tù vì những cáo buộc hình sự có chủ tâm. Nga vẫn là một nơi nguy hiểm đối với các phóng viên. Trong năm, một vài người trong số này đã bị giết hại hoặc bị tấn công dã man. Tại Bê-la-rút, Tổng thống Lukashenka đã ký đạo luật truyền thông mới, hạn chế hơn nữa các quyền tự do báo chí, kể cả xuất bản trên Internet. Những diễn biến mới ở Gru-zi-a, trong đó có việc lực lượng đối lập mất quyền kiểm soát đối với Đài Truyền hình Imedi, từng là đài truyền hình quốc gia độc lập duy nhất còn lại, đã làm dấy lên những quan ngại đáng kể về sự đa dạng của các phương tiện truyền thông.

Ở một số quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các đảng đối lập là mục tiêu đàn áp của chính phủ. Chính phủ Bosnia và Herzegovina đã buộc một tổ chức phi chính phủ quốc tế chống tham nhũng phải đóng cửa trong một vài ngày sau khi có thông báo cáo buộc quan chức chính phủ tham nhũng. Ở Nga, các nhà chức trách tăng cường sách nhiễu nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nhạy cảm về chính trị và trong năm chính phủ đã sửa đổi luật về chủ nghĩa cực đoan, khiến chính phủ dễ dàng đưa ra những cáo buộc đối với một tổ chức. Văn bản luật cũ vốn đã làm dấy lên nhiều quan ngại về hạn chế đối với quyền tự do lập hội và chỉ trích chính phủ một cách hợp pháp. Tại Bê-la-rút, mặc dù việc trả tự do cho 9 tù nhân chính trị là động thái được hoan nghênh, những vẫn còn quan ngại về những hạn chế tùy tiện của chính phủ đối với quyền tự do hội họp và lập hội và thường xuyên gây khó dễ cho các nhà hoạt động độc lập. Ở Nga, cảnh sát đôi khi sử dụng vũ lực để ngăn cản các nhóm tham gia các cuộc biểu tình hòa bình, đặc biệt là các cuộc biểu tình của phe đối lập.

Trong khu vực có cả dấu hiệu tích cực lẫn tiêu cực về vấn đề quản lý dân chủ. Ở khía cạnh tích cực, Chính phủ được bầu lên dân chủ ở Kô-xô-vô đã tuyên bố độc lập ngày 17/2 và đã đưa ra bản hiến pháp và các bộ luật với các điểu khoản về nhân quyền mẫu mực. Tuy nhiên, các quốc gia khác không đạt được những kết quả khả quan như vậy. Cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 2 ở Ác-mê-ni-a sai sót nghiêm trọng và kéo theo những cuộc biểu tình hòa bình nhưng chính phủ cuối cùng cũng đã dập tắt bằng bạo lực. Ở Nga, cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 3 bộc lộ nhiều vấn đề cả trong chiến dịch tranh cử lẫn trong ngày bầu cử: truyền thông do chính phủ kiểm soát hoặc ủng hộ chính phủ thiên vị đảng cầm quyền và các ứng cử viên của đảng này, các nhà chức trách không cho các ứng cử viên đảng đối lập đăng ký, thiếu cơ hội bình đẳng khi tiến hành tranh cử và gian lận phiếu bầu. Các cuộc bầu cử Quốc hội ở Bê-la-rút không đáp ứng được những cam kết của OSCE về bầu cử dân chủ và tất cả 110 người thắng cử đều là những người ủng hộ chính phủ. Các cuộc bầu cử ở A-zéc-bai-zan cũng không đáp ứng những yêu cầu chủ yếu của OSCE.

Những lo ngại về nhân quyền không chỉ dừng lại ở phía Đông lục địa này. Một số nền dân chủ vững mạnh ở Tây và Trung Âu cũng phải vật lộn với nhiều khó khăn do dòng người di cư mới từ Trung Đông, châu Phi và những nơi khác đến khiến các nguồn lực kinh tế-xã hội bị căng trải và dẫn đến những hạn chế đối với người nhập cư và nhiều cáo buộc về việc đối xử không nhân đạo. Ở nhiều quốc gia, các trại tạm giam dành cho những ngưới không có giấy tờ tùy thân rất sơ sài, các trại giam dành cho những người bị giam giữ khác còn tồi tệ hơn. Đại đa số các loại hình tội ác nghiêm trọng ở U-crai-na trong năm liên quan đến người châu Phi, Trung Đông và người châu Á. Ở Nga, các cuộc tấn công mang tính chất bài ngoại và mang tính chất sắc tộc vốn trầm trọng và gia tăng tiếp tục diễn ra. Có nhiều biểu hiện về chủ nghĩa chống người Do Thái ở nhiều quốc gia trong khu vực và các vụ tấn công bằng bạo lực đối với người Do Thái vẫn là một mối lo ngại. Ở một số quốc gia, cả Ý và Hung-ga-ri, thành viên cộng đồng người Rô-ma là đối tượng của tình trạng bạo lực xã hội, trong một số trường hợp còn xảy ra thường xuyên và gây chết người nghiêm trọng hơn những năm trước.

Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và Anh tìm cách cấm ngôn luận có tính phỉ báng để bảo vệ người thiểu số trước tình trạng phân biệt đối xử và bạo lực. Tuy nhiên, một số nhà quan sát nhân quyền lo ngại rằng quy định này sẽ hạn chế quyền tự do ngôn luận.

Tình hình ở một số quốc gia điển hình

Ở Ác-mê-ni-a có sự thụt lùi đáng kể về dân chủ như tình trạng bạo lực tồi tệ nhất sau bầu cử ở khu vực Cáp-ca-dơ trong những năm gần đây. Sau các cuộc biểu tình nhìn chung là hòa bình kéo dài vài tuần sau cuộc bầu cử tổng thống đầy tranh cãi hồi tháng 2, Chính phủ đã dùng vũ lực để giải tán những người biểu tình ngày 1-2 tháng 3, khiến đụng độ xảy ra và làm 10 người chết. Tình trạng bạo lực khiến Chính phủ phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong 20 ngày và cấm phương tiện truyền thông độc lập được đưa tin, trong thời gian đó chính phủ hạn chế nghiêm ngặt các quyền tự do dân sự. Khoảng thời gian còn lại trong năm, có những hạn chế nghiêm ngặt đối với quyền tự do hội họp hòa bình và bày tỏ chính kiến mà không bị trả thù; một số người ủng hộ phe đối lập đã bị kết tội và lĩnh những mức án nặng vì những lý do có vẻ liên quan đến chính trị. Tin cho biết đến cuối năm, 59 người ủng hộ đảng đối lập vẫn bị tù vì những lý do có vẻ liên quan đến chính trị; không quan chức chính phủ nào bị truy tố vì liên quan đến các tội ác gây ra trong thời gian bầu cử. Bất chấp những thành công của một nhóm tìm kiếm sự thật có tính cân bằng về chính trị do chính phủ lập ra để điều tra các vụ việc xảy ra hồi tháng 3, môi trường dân chủ vẫn ảm đạm bởi tình trạng sách nhiễu, trả thù và giám sát thuế đối với giới truyền thông độc lập và các nhà hoạt động của xã hội dân sự.

Ở A-zéc-bai-zan, Ilham Aliyev đã được bầu lại làm tổng thống nhiệm kỳ hai hồi tháng 10 trong một tiến trình mà các nhà quan sát đánh giá là không đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế về bầu cử dân chủ, bất chấp một số cải thiện của chính phủ trong vấn đề quản lý bầu cử. Những bất cập này gồm hạn chế nghiêm trọng việc tham gia chính trị và đối với truyền thông, gây áp lực và hạn chế các nhà quan sát và sai sót trong kiểm phiếu bầu cử và các tiến trình lên danh sách. Trong năm, hạn chế và áp lực đối với truyền thông trở nên tồi tệ hơn. Một tổ chức phi chính phủ giám sát truyền thông cho biết trong nửa đầu của năm 2008 có 22 hành động phỉ báng và tấn công phóng viên, tăng hơn so với 11 vụ trong cùng kỳ năm 2007 nhưng không ai bị truy cứu trách nhiệm. Một số phóng viên vẫn bị tù vì những cáo buộc mà nhiều người cho là vì động cơ chính trị. Ngày 30/12, Chính phủ thông báo là từ ngày 1/1/2009 sẽ không cho phép Đài châu Âu Tự do/Đài Tự do, Đài tiếng nói Hoa Kỳ và BBC được tiếp tục phát trên sóng đài truyền hình quốc gia và sóng FM. Nếu không có các phương tiện truyền thông quốc tế này, công chúng không còn được tiếp cận với tin tức trung thực từ bất cứ phương tiện truyền thông phát sóng rộng rãi nào.

Tại Bê-la-rút, thành tích nhân quyền của Chính phủ vẫn rất tồi tệ, các giới chức thường xuyên gây ra các vụ vi phạm nghiêm trọng. Bất chấp những đảm bảo trước đó của Chính phủ, các cuộc bầu cử quốc hội tổ chức hồi tháng 9 không tự do mà cũng chẳng công bằng. Các giới chức không chịu trách nhiệm vì những vụ mất tích có động cơ chính trị trước đó. Điều kiện nhà tù cực kỳ tồi tàn và có những báo cáo cho biết vi phạm đối với tù nhân và những người bị giam giữ vẫn diễn ra. Bộ máy tư pháp thiếu sự độc lập. Chính phủ hạn chế hơn nữa các quyền tự do dân sự, trong đó có tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội và tự do tôn giáo. Các lực lượng an ninh quốc gia tùy tiện sử dụng vũ lực ùy để giải tán những người biểu tình hòa bình. Tham nhũng vẫn là một vấn nạn. Các tổ chức phi chính phủ và các đảng phái chính trị bị sách nhiễu, phạt, bị truy tố và đóng cửa hoạt động. Các chức sắc tôn giáo bị phạt hoặc trục xuất vì hành đạo và một số nhà thờ bị đóng cửa.

Ở Gru-zi-a, Tổng thống Mikheil Saakashvili đã tái đắc cử hồi tháng 1 trong một cuộc bầu cử mà các nhà quan sát quốc tế cho là phù hợp với các tiêu chuẩn bầu cử dân chủ của OSCE. Tuy nhiên, các quan sát viên quốc tế cũng chỉ ra những thách thức nghiêm trọng, đó là những cáo buộc về trả thù, gây áp lực và sai sót trong vấn đề kiểm phiếu. Những vấn đề này cũng xảy ra trong các cuộc bầu cử quốc hội hồi tháng 5. Có những cáo buộc về các vụ giam giữ vì động cơ chính trị. Tính đa dạng của truyền thông đã suy giảm khi các lực lượng đối lập mất quyền kiểm soát đối với đài truyền hình quốc gia độc lập duy nhất còn lại. Có tin là trong cuộc xung đột hồi tháng 8, các hoạt động quân sự của Gru-zi-a và Nga tùy tiện sử dụng vũ lực khiến nhiều dân thường bị giết hại, trong đó có cả một số phóng viên.

Thành tích nhân quyền trong nước của Liên bang Nga tiếp tục xu hướng tiêu cực với nhiều báo cáo về các vấn đề nhân quyền và các vụ vi phạm trong năm của chính phủ và trong xã hội. Có tin là trong cuộc xung đột hồi tháng 8, các hoạt động quân sự của Gru-zi-a và Nga tùy tiện sử dụng vũ lực khiến nhiều dân thường bị giết hại, trong đó có cả một số phóng viên. Thành tích nhân quyền của chính phủ vẫn rất nghèo nàn ở Bắc Cáp-ca-dơ, có tin là lực lượng an ninh liên quan đến các vụ giết hại, đánh đập, lạm dụng, bạo lực và đối xử tàn tệ, nhưng không bị truy cứu. Tại Chechnya, Ingushetia và Dagestan, các lực lượng an ninh bị cáo buộc trách nhiệm đối với các vụ giết hại bừa bãi và bắt cóc vì động cơ chính trị; trong năm thứ hai đã có sự gia tăng đáng kể số vụ giết hại cả dân thường và quan chức tại Ingushetia, thường do những kẻ không rõ danh tính tiến hành.

Các quyền tự do tiếp tục bị hạn chế, phản ánh sự thiếu trách nhiệm của Chính phủ đối với công dân. Áp lực của chính phủ làm suy giảm quyền tự do bày tỏ và sự độc lập của truyền thông và Nga vẫn là một môi trường nguy hiểm cho phóng viên tác nghiệp. 5 phóng viên đã bị giết hại, một là tại Ingushetia, do cảnh sát gây ra. Những vụ giết hại các phóng viên từ những năm trước vẫn chưa được giải quyết. Chính phủ hạn chế quyền tự do hội họp, cảnh sát đôi khi dùng bạo lực ngăn cản không cho các nhóm tham gia các cuộc biểu tình hòa bình. Sự thù hằn và sách nhiễu của các giới chức đối với một số tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là những tổ chức giám sát nhân quyền và những tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, phản ánh hạn chế tổng thể không gian dành cho xã hội dân sự. Với một hệ thống chính trị tập trung cao độ, quyền lực tập trung vào tổng thống và văn phòng thủ tướng, những vấn đề xảy ra trong cuộc bầu cử Duma Quốc gia tháng 12/2007 đã lặp lại trong cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 3, không đáp ứng nhiều tiêu chuẩn quốc tế về bầu cử dân chủ.

Cận Đông và Bắc Phi

Trong năm qua, Trung Đông được đặc trưng bởi những thách thức nghiêm trọng đối với việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, mặc dù khu vực cũng đã có một số bước tiến đáng kể.

Một số chính phủ, bao gồm Ai Cập, I-ran, Li-bi, Xi-ri, tiếp tục bỏ tù các nhà hoạt động vì tín ngưỡng của họ. Ayman Nour, người về thứ hai trong cuộc bầu cử tổng thống Ai Cập năm 2005, vẫn bị tù ở Ai Cập trong suốt thời gian báo cáo này tường trình (mặc dù đã được thả ngày 18/2/2009). Chính phủ I-ran thường xuyên giam giữ và truy tố các nhà hoạt động ủng hộ nữ quyền và sinh viên, các nhà hoạt động công đoàn và những người bảo vệ nhân quyền. Các giới chức I-ran tiếp tục đàn áp các tổ chức xã hội nhân sự, đáng chú ý là việc đóng cửa Trung tâm Bảo vệ Quyền con người ngày 21/12 khi trung tâm này chuẩn bị kỷ niệm 60 năm ngày ra đời Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền. Chính phủ Li-bi hồi tháng 3 thông báo đã thả nhà hoạt động chính trị Fathi El-Jahmi, nhưng trong năm ông vẫn bị giam tại Trung tâm y tế Tripoli và thỉnh thoảng mới được về thăm gia đình. Tại Xi-ri, Chính phủ đã giam giữ một số thành viên cao cấp của cộng đồng nhân quyền, cụ thể là các cá nhân liên quan tới hội đồng quốc gia của tổ chức Tuyên Ngôn vì Sự thay đổi Dân chủ Quốc gia Damascus, một tổ chức lãnh đạo của các nhóm đối lập đòi cải tổ.

Cùng với việc được truy cập thông tin rộng rãi hơn thông qua Internet và truyền hình vệ tinh là những hạn chế lớn hơn đối với truyền thông, kể cả những người viết nhật ký mạng. Tại Ai Cập, cảnh sát bị cáo buộc đã giam giữ và đánh đập những người viết nhật ký mạng. Người viết nhật ký mạng nổi tiếng nhất I-ran, Hossein Derakhshan, bị bắt hồi cuối năm. Tunisia hạn chế quyền tự do truyền thông, các nhà chức trách bắt hoặc gây khó dễ đối với những người viết nhật ký mạng. Ở I-rắc, các phóng viên tiếp tục đấu tranh cho sự an toàn trong khi đưa tin về các vấn đề chính trị, nữ quyền và vấn đề đồng giới. Mặc dù số vụ giết hại phóng viên ở I-rắc trong năm qua có giảm, nhưng tỉ lệ bị giết hại vẫn còn cao.
Nhiều quốc gia trong khu vực tiếp tục hạn chế quyền tự do tôn giáo và bày tỏ. I-ran giam giữ 7 chức sắc của đạo Baha’i từ tháng 5 và Tổng thống I-ran tiếp tục không công nhận Israel. Ả-rập Xê-út nghiêm cấm theo các đạo khác ngoài Hồi giáo dòng Suni, các nhóm tôn giáo thiểu số bị phân biệt đối xử trong vấn đề học hành, việc làm và đại diện trong chính quyền. Ở Ai Cập, các tín đồ tôn giáo không được chính phủ công nhận chịu nhiều khó khăn ở góc độ cá nhân và tập thể. Ở các quốc gia khác, như Ba-ranh và An-giê-ri, đã ban hành luật phân biệt đối xử hoặc giống như Gioóc-đa-ni, tiếp tục các chính sách thiên vị đối với các tôn giáo đa số.

Tình trạng phân biệt đối xử về pháp luật và xã hội cũng như tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tiếp tục diễn ra trên toàn khu vực. Các nhà hoạt động vì nữ quyền ở I-ran bị sách nhiễu, vi phạm, bị bắt và bị kết tội “gây nguy hại đối với an ninh quốc gia” vì tham gia các cuộc biểu tình hòa bình và yêu cầu đối xử bình đẳng theo luật của I-ran thông qua chiến dịch 1 triệu chữ ký. Tuy nhiên, các nước khác trong khu vực đã chứng kiến những tiến bộ đáng kể về nữ quyền và phụ nữ đã tích cực đóng vai trò lãnh đạo tại các chính quyền trung ương và địa phương. Tại Cô-oét, 27 phụ nữ đã chạy đua trong các cuộc bầu cử toàn quốc hồi tháng 5/2008, mặc dù không một ứng cử viên nào đắc cử. Cũng trong năm, Các tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất đã bổ nhiệm một nữ thẩm phán và hai nữ đại sứ.

Trong vài năm qua, một số quốc gia ở Trung Đông đã có những bước tiến đáng kể trong việc giải quyết các vụ vi phạm lao động và tăng cường tiêu chuẩn lao động. Ô-man và Ba-ranh đã ban hành các đạo luật toàn diện chống buôn người, Gioóc-đa-ni đã mở rộng các điều khoản bảo vệ trong luật lao động đối với những người nước ngoài làm giúp việc trong các gia đình. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức nghiêm trọng về vấn đề bảo vệ người lao động nước ngoài và thực hiện các luật và quy định lao động hiện hành đối với mọi người lao động, đặc biệt là lao động trong ngành xây dựng và những người giúp việc trong gia đình.

Tình hình ở một số quốc gia điển hình

Tại Ai Cập, trong năm qua Chính phủ không tôn trọng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội và tự do tôn giáo. Cụ thể, các vụ bắt giam những người viết nhật ký mạng có vẻ như chủ yếu liên quan tới nỗ lực của họ nhằm tổ chức các cuộc biểu tình trên các blog của họ và tham gia vào các cuộc biểu tình trên đường phố và các hoạt động khác. Đạo luật về tình trạng khẩn cấp, ban hành năm 1967, vẫn có hiệu lực; các lực lượng an ninh tùy nghi sử dụng vũ lực, đánh đập, lạm dụng tù nhân và những người bị giam giữ, nhưng trong hầu hết các trường hợp họ đều không bị truy cứu.

Chính phủ I-ran tăng cường chiến dịch trả đũa có hệ thống đối với các nhà cải cách, các học giả, các phóng viên và những người bất đồng chính kiến bằng cách bắt giữ tùy tiện, đánh đập và xét xử bí mật, đôi khi kết thúc bằng những bản án tử hình. Những công dân có hai quốc tịch Iran và Mỹ và những người I-ran có tiếp xúc hoặc tới Mỹ, tiếp tục là đối tượng bị trả thù và sách nhiễu. Trước các cuộc bầu cử quốc hội hồi tháng 3, Hội đồng Guardian đã bác khoảng 1.700 ứng cử viên có tư tưởng cải cách, cho rằng họ không đủ tiêu chuẩn tham gia tranh cử.

Tình hình an ninh chung ở I-rắc về cơ bản đã cải thiện, đã có sự hòa giải và giảm căng thẳng ở một số tỉnh. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực của các lực lượng nổi dậy và cực đoan chống lại dân thường làm suy yếu khả năng duy trì pháp quyền của chính phủ, gây ra nhiều vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và lan rộng. Tuy nhiên, cũng đã có một số diễn biến tích cực trong đó có việc thông qua Luật bầu cử cấp tỉnh ngày 24/9 kêu gọi tiến hành bầu cử ở 14 tỉnh có đa số người Ả-rập vào ngày 31/1/2009 và các cuộc bầu cử vào cuối năm ở ba tỉnh của người Cuốc và Tameem (Kirkuk). Việc thông qua đạo luật cho phép thành lập Cao ủy độc lập về Quyền con người theo quy định của Hiến pháp hôm 16/11 là một bước tiến nữa trong việc thể chế hóa việc bảo vệ các quyền này.

Tại Gioóc-đa-ni, các nhà hoạt động xã hội dân sự bày tỏ lo ngại về một luật mới về vấn đề lập hội, mặc dù chưa được thực hiện, nhưng luật này cho phép Chính phủ từ chối đăng ký của các tổ chức phi chính phủ vì bất cứ lý do gì; giải tán các hội và can thiệp vào việc quản lý, tổ chức thành viên và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Theo các tổ chức phi chính phủ quốc tế và địa phương, tình hình ở các nhà tù tiếp tục quá tải, thiếu nhân viên, không đủ lương thực, thuốc men và hạn chế việc thăm nuôi. Mặc dù Luật Gioóc-đa-ni cấm đánh đập nhưng tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho biết đánh đập diễn ra phổ biến và thường xuyên. Công dân và các tổ chức phi chính phủ có báo cáo cho biết tù nhân chính trị, kể cả những người Hồi giáo bị kết tội chống lại an ninh quốc gia, bị vi phạm nhiều hơn so với các tù nhân khác, nhưng cảnh sát có hành vi vi phạm đối với tù nhân không hề bị truy cứu trách nhiệm. Phụ nữ nắm giữ rất ít vị trí lãnh đạo trong chính quyền, mặc dù vẫn nhiều hơn ở những nơi khác trong khu vực; bạo lực trong nước và những tội danh gọi là tội bôi nhọ danh dự vẫn tồn tại dai dẳng. Luật báo chí năm 2007 bỏ điều khoản bỏ tù đối với các phóng viên vì tội danh ý thức hệ. Tuy nhiên, việc giam giữ hạn chế và bỏ tù phóng viên vì bôi nhọ danh dự và vu khống tiếp tục được ghi nhận trong các điều khoản của bộ luật hình sự. Nhiều phóng viên cho biết sự đe dọa áp dụng các hình phạt nghiêm khắc dẫn đến tình trạng tự kiểm duyệt. Tháng 7, Luật Lao động đã được sửa đổi, với đối tượng điều chỉnh là những người lao động nông nghiệp và người giúp việc gia đình, giúp bảo vệ họ theo một số điều khoản trong luật.

Năm thứ tư liên tiếp, bạo lực trong nước và các cuộc chiến chính trị đã cản trở khả năng cải thiện tình hình nhân quyền của Li-băng. Ngày 7/5, những tay súng đối lập thuộc Đảng Hizballah, đảng đối lập với Đảng Shia và là một tổ chức khủng bố, đã kiểm soát sân bay quốc tế Beirut và một số khu vực thuộc phía tây Beirut. Ngày 21/5, sau khi 84 người bị chết và khoảng 200 người bị thương, các nhà lãnh đạo đã đạt được thỏa thuận chấm dứt bạo lực và đối đầu chính trị kéo dài 18 tháng. Bất chấp việc đình chiến và việc quốc hội bầu Tổng thống Michel Sleiman hồi tháng 5, Hizballah vẫn có ảnh hưởng đáng kể ở nhiều vùng trên cả nước; Chính phủ không đạt được tiến bộ rõ rệt nào trong việc giải tán và giải giáp các nhóm vũ trang, trong đó có Hizballah.

Chính phủ Xi-ri tiếp tục vi phạm các quyền riêng tư của công dân và áp đặt những hạn chế đáng kể đối với quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp và lập hội trong bầu không khí tham nhũng và vô trách nhiệm của chính phủ. Các lực lượng an ninh đã giải tán các cuộc hội họp của các tổ chức nhân quyền và bắt giam các nhà hoạt động, các nhà tổ chức và những người chỉ trích chính phủ khác mà không theo trình tự luật pháp đúng đắn. Trong năm, Chính phủ đã kết án tù đối với một số thành viên nổi bật của cộng đồng nhân quyền, đặc biệt là các cá nhân liên quan đến hội đồng quốc gia của Tổ chức Tuyên ngôn vì sự Thay đổi Dân chủ Quốc gia Damascus (DDDNC), một tổ chức lãnh đạo của các nhóm đối lập đòi cải cách.

Tại Tuy-ni-di, Chính phủ tiếp tục đàn áp mạnh mẽ, có hệ thống quyền tự do bày tỏ và lập hội. Chính phủ không khoan nhượng trước chỉ trích công khai của các nhà hoạt động đối lập và nhân quyền, trả thù, tiến hành điều tra hình sự và gây khó dễ đối với biên tập viên, phóng viên để hạn chế sự chỉ trích. Các giới chức kiểm duyệt gắt gao các ấn phẩm in và trực tuyến, thường xuyên sách nhiễu phóng viên. Các lực lượng an ninh đã giết hại một nhà biểu tình chính trị và những người giam giữ bị đánh đập, cưỡng hiếp, ép cung.

Nam và Trung Á

Năm 2008, Nam và Trung Á được đánh dấu bởi những cuộc tấn công đối với các quyền cơ bản, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và lập hội.

Một số chính phủ trong khu vực tiếp tục sách nhiễu các phóng viên và các cơ quan truyền thông, một số quốc gia tiếp tục hạn chế quyền tự do tiếp cận thông tin trên Internet, đặc biệt ở Trung Á. Tại Kyrgyzstan, Chính phủ đã loại bỏ các chương trình của một đài truyền hình độc lập nổi tiếng khỏi hệ thống đài phát thành truyền hình của nhà nước. Một nhà cung cấp dịch vụ Internet do chính phủ kiểm soát tại Kazakhstan thỉnh thoảng chặn một số tin tức cụ thể và các trang web dành cho phe đối lập. Cả hai chính phủ này đều áp dụng những hình phạt nặng đối với tội phỉ báng dành cho các phóng viên và trong một số trường hợp, phóng viên phải rời bỏ các quốc gia này do lo sợ về sự an toàn của bản thân. Như trong những năm trước, phóng viên tác nghiệp tại Turkmenistan bị Chính phủ sách nhiễu, bắt bớ, giam giữ trong các trung tâm điều trị tâm lý. Tại Áp-ga-nít-xtan, Chính phủ đã kết tội một sinh viên báo chí vì tội phỉ báng và kết án tù chung thân do truyền bá một bài báo tải từ mạng Internet về nữ quyền ở các nước Hồi giáo. Tòa án phúc thẩm đã giảm mức án xuống còn 20 năm tù. Tại Pa-kít-xtan, các vụ bắt bớ phóng viên đã giảm sau cuộc bầu cử chính phủ mới. Tuy nhiên, những kẻ không rõ danh tính tiếp tục trả thù, bắt cóc và giết hại phóng viên, đặc biệt ở khu vực có xung đột nội bộ. Tại Sri-lan-ka, các quan chức quốc phòng và chính phủ thường có những phát biểu đe dọa các cơ quan truyền thông độc lập sau một số cuộc tấn công các thành viên của giới báo chí chưa được giải quyết.

Quyền tự do tôn giáo bị tấn công với việc quốc hội Kazakhstan, Kyrgyzstan và Tajikistan đưa ra các luật tăng cường hạn chế đối với quyền tự do tôn giáo, ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhóm tôn giáo thiểu số và bạo lực chống các nhóm thiểu số ở bang Orissa của Ấn Độ. Những hành động này diễn ra trong bối cảnh chính phủ Kazakhstan, Tajikistan và Uzbekistan tăng cường sách nhiễu các nhóm tôn giáo thiểu số. Turkmenistan hoan nghênh chuyến thăm của một phóng viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về Tự do tôn giáo, nhưng chính phủ vẫn kiểm soát và theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo.

Trong khu vực vẫn tồn tại những vấn đề nghiêm trọng về quyền lao động. Tình trạng lao động trẻ em vẫn xảy ra trong ngành nông nghiệp và chế tạo tại Áp-ga-nít-xtan, Pa-kít-xtan và Ấn Độ. Tại Kyrgyzstan và Tajikistan, lao động trẻ em phổ biến trong ngành sản xuất bông và các ngành khác, còn Uzbekistan tiếp tục buộc nhiều học sinh phải làm việc trên những cánh đồng trồng bông. Mặc dù Chính phủ Kazakhstan đang có những bước tiến để xóa bỏ nạn lao động trẻ em, những tình trạng này vẫn xảy ra trong ngành bông và sản xuất thuốc lá. Cưỡng ép lao động, đặc biệt trong các khu vực phi chính thức lớn và trong các nhóm thiểu số chịu thiệt thòi, tiếp tục xảy ra ở Nê-pan, Pa-kít-xtan và Ấn Độ. Các nhà tổ chức lao động ở Băng-la-đét cho biết cảnh sát có những hành vi trả thù và lạm dụng và tăng cường giám sát.

Mặc dù một số chính phủ trong khu vực hạn chế đối lập chính trị và cấm cạnh tranh bầu cử thực sự, nhưng ở Nam Á đã có những cải thiện về bầu cử và cạnh tranh chính trị. Tại Pa-kít-xtan, hai đảng chính trị đối lập chính là Đảng Nhân dân Pa-kít-xtan và Đảng Liên đoàn Nawaz Hồi giáo Pa-kít-xtan đều giành đa số trong cuộc bầu cử quốc hội rất cạnh tranh và hình thành chính phủ liên minh, chấm dứt 9 năm quân đội cầm quyền. Nhân dân Man-đi-vơ đã bầu một cựu tù nhân chính trị làm tổng thống trong một cuộc bầu cử tự do và công bằng, thay đổi một cách hòa bình nhà lãnh đạo châu Á tại vị lâu nhất. ủy ban Bầu cử Độc lập của Áp-ga-nít-xtan đã nỗ lực chuẩn bị cho vòng hai cuộc bầu cử của Áp-ga-nít-xtan kể từ khi Ta-li-ban sụp đổ. Các cuộc bầu cử ở Nê-pan đã cho ra đời cơ quan lập pháp nhiều đại diện nhất trong lịch sử quốc gia và quốc hội mới sau đó đã tuyên bố Nê-pan là nước cộng hòa dân chủ theo hình thức liên bang, giải tán một cách hòa bình nền quân chủ chuyên chế. Băng-la-đét đã tổ chức các cuộc bầu cử quốc hội tự do và công bằng với một số điểm bất thường và đôi khi vẫn xảy ra tình trạng bạo lực. Các cuộc bầu cử và sau đó là cuộc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình đã chấm dứt hai năm của chính phủ được quân đội bảo trợ. Tại Bu-tan, các cuộc bầu cử hạ viện đã chấm dứt giai đoạn chuyển tiếp sang một nền quân chủ lập hiến và hạn chế, có sự giám sát và tham gia thực sự của người dân.

Tình hình một số quốc gia điển hình

Mặc dù tình hình nhân quyền ở Áp-ga-nít-xtan đã được cải thiện đáng kể từ khi Ta-li-ban sụp đổ năm 2001, tình hình nhân quyền của nước này vẫn tồi tệ do các tổ chức chính quyền trung ương yếu kém và tình trạng nổi dậy nghiêm trọng. Ta-li-ban, Al-Qa’ida và các nhóm cực đoan khác tiếp tục tấn công các quan chức chính phủ, các lực lượng an ninh, các tổ chức phi chính phủ và các nhân viên cứu trợ nhân đạo khác và dân thường không vũ trang. Tiếp tục có báo cáo về các vụ bắt bớ và giam giữ tùy tiện, giết hại không bị xét xử, đánh đập, điều kiện nhà tù thiếu thốn. Sự đàn áp của chính phủ và các nhóm vũ trang ngăn cản giới truyền thông hoạt động tự do.

Tại Băng-la-đét, tình trạng bạo lực đã giảm đáng kể. Chính phủ lâm thời đã tổ chức được các cuộc bầu cử thành công, tuy nhiên thành tích nhân quyền vẫn là một mối quan ngại lớn. Tuyên bố tình trạng khẩn cấp do Chính phủ đưa ra hồi tháng 1/2007 và dỡ bỏ ngày 17/12 đã hạn chế nhiều quyền cơ bản, kể cả quyền tự do bày tỏ, tự do lập hội và quyền được bảo lãnh. Phong trào chống tham nhũng của chính phủ nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng nhưng cũng dấy lên quan ngại về sự công bằng và bình đẳng theo luật. Mặc dù các vụ sát hại phi pháp đã giảm, nhưng các lực lượng an ninh tiếp tục có những vi phạm nghiêm trọng, trong đó tiến hành các vụ giết hại tùy tiện, chết trong khi bị giam giữ, bắt giam tùy tiện, sách nhiễu phóng viên. Một số thành viên lực lượng an ninh vi phạm nhưng không bị truy cứu trách nhiệm và có những hành vi như đánh đập. Chính phủ không điều tra đến tận gốc các vụ giết hại không bị xét xử.

Tại Kazakhstan, lực lượng chính trị đối lập bị Chính phủ sách nhiễu bằng những cáo buộc hình sự mang động cơ chính trị và hạn chế quyền hội họp. Chính phủ tiếp tục sách nhiễu các phóng viên và các cơ quan truyền thông độc lập và có xu hướng ủng hộ phe đối lập. Vào cuốc năm, Chính phủ xem xét sửa đổi luật điều chỉnh các đảng chính trị, truyền thông và bầu cử. Một số đại diện của xã hội dân sự và các đảng chính trị đối lập chỉ trích tiến trình cho rằng thiếu sự minh bạch. Chính phủ cũng đang xem xét việc sửa đổi luật tôn giáo mà nếu được ban hành đạo luật này sẽ là bước thụt lùi nghiêm trọng về quyền tự do tôn giáo.

Mặc dù Kyrgyzstan có một xã hội dân sự mạnh và một giới truyền thông độc lập, nhưng trong năm qua Chính phủ tăng cường kiểm soát nhiều khía cạnh của đời sống dân sự. Các luật mới và các điều khoản sửa đổi đã áp đặt thêm hạn chế đối với quyền hội họp công cộng, tự do tôn giáo và truyền thông. Tháng 10, mạng lưới phát thanh truyền hình quốc gia đã không cho Đài Tự do/Đài châu Âu phát sóng, giảm sự tiếp cận của công chúng đối với nguồn thông tin độc lập này. Chủ tịch Ủy ban Bầu cử Trung ương đã chạy ra nước ngoài sau khi cho biết bà bị con trai tổng thống ép phải cho đăng ký một ứng cử viên đối lập trong các cuộc bầu cử hội đồng địa phương hồi tháng 10.

Nê-pan trở thành nước cộng hòa dân chủ theo hình thức liên bang ngay sau các cuộc bầu cử hồi tháng 4, cho ra đời một quốc hội có thành phần đại diện đa dạng nhất trong lịch sử đất nước. Mặc dù có các báo cáo về tình trạng bạo lực chính trị, trả thù và những điều bất thường trong quá trình bỏ phiếu, nhưng các quan sát viên cho biết các cuộc bầu cử đều phản ánh ý chí của người dân. Bạo lực, ép cung và trả thù xảy ra liên tục trong năm, miễn truy cứu đối với những kẻ vi phạm nhân quyền, đe dọa truyền thông, bắt bớ tùy tiện, giam giữ lâu dài trước khi xét xử là những vấn đề nghiêm trọng. Thành viên của nhóm Maoist, Liên đoàn thanh niên Cộng sản có liên hệ với nhóm Maoist và các nhóm nhỏ, thường là các nhóm sắc tộc có vũ trang, tiến hành nhiều vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, như sử dùng vũ lực tùy tiện, bất hợp pháp, đánh đập và bắt cóc. Một số nhóm vũ trang, chủ yếu ở khu vực Terai, đã tấn công dân thường, quan chức chính phủ, thành viên các nhóm sắc tộc cụ thể, đánh lẫn nhau hoặc tấn công các phần tử Maoist.

Pa-kít-xtan đã quay trở lại với chế độ dân chủ. Các đảng đối lập đã thắng trong các cuộc bầu cử quốc hội hồi tháng 2 và thành lập chính phủ liên minh. Liên minh chỉ tồn tại một khoảng thời gian trong năm nhưng chính phủ vẫn tiếp tục nắm quyền. Tháng 9, Asif Ali Zardari, chồng của cựu Thủ tướng Benazir Bhutto, kế nhiệm Pervez Musharraf làm tổng thống. Chính phủ mới đã bổ nhiệm trở lại 5 trong số 13 thẩm phán tòa án tối cao mà Musharraf đã cách chức trong tuyên bố tình trạng khẩn cấp hồi tháng 11/2007, trong khi 3 người khác nghỉ hưu hoặc từ chức. Tổng tư lệnh quân đội rút 3.000 sĩ quan quân đội khỏi các vị trí trong chính quyền dân sự mà họ đã nắm giữ trong nhiệm kỳ của Musharraf. Bất chấp những bước tiến tích cực này, tình hình nhân quyền vẫn tồi tệ. Các hoạt động quân sự ở vùng tây bắc của đất nước đã làm khiến 1.150 dân thường bị giết hại, các cuộc tấn công ở khu vực đó đã giết hại 825 dân thường nữa, xung đột giữa các giáo phái giết hại khoảng 1.125 người, các cuộc đánh bom cảm tử giết hại hơn 970 người. Đến cuối năm, chiến sự tiếp diễn với du kích quân khiến 200.000 người trở thành vô gia cư.

Tại Xri-lan-ka, sự tôn trọng nhân quyền của Chính phủ được bầu lên một cách dân chủ đã giảm khi xung đột vũ trang leo thang trong cuộc nội chiến kéo dài 25 năm ở nước này. Đến cuối năm, ít có tiến triển trong việc đưa các nhóm thiểu số tham gia vào nền chính trị và các nhóm này tiếp tục bị nhóm đa số vi phạm nhân quyền, như giết hại hoặc mất tích. Chính phủ trục xuất hầu hết các nhân viên cứu trợ nhân đạo quốc tế khỏi khu vực xung đột phía bắc. Mặc dù chính phủ đã có những bước đi đầu tiên trong việc giải quyết vấn để sử dụng lính trẻ em của các nhóm du kích thân chính phủ, nhưng vấn đề này vẫn chưa được giải quyết. Chính phủ không điều tra và truy tố được bất cứ lực lựợng an ninh nào vi phạm nhân quyền và không thực thi các điều khoản hiến pháp về giám sát các cơ quan chính phủ. Xã hội dân sự bị trả thù, giới truyền thông độc lập và các phóng viên luôn trong tình trạng áp lực vì các phần tử thân chính phủ tấn công và đe dọa.

Mặc dù có những cải thiện khiêm tốn, nhưng Chính phủ Turkmenistan tiếp tục có những vi phạm nghiêm trọng và tình hình nhân quyền vẫn tồi tệ. Những tự do về chính trị và dân sự tiếp tục bị hạn chế nghiêm ngặt. Tháng 6, các giới chức đã bắt nhà hoạt động chính trị đồng thời là cựu tù nhân chính trị Gulgeldy Annaniyazov sau khi ông bị cáo buộc quay về nước bất hợp pháp và kết án ông trong một vụ xử kín với mức án 11 năm tù. Các cuộc bầu cử quốc hội hồi tháng 12 không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ tiếp tục nỗ lực sửa đổi luật, kể cả hiến pháp, để phù hợp với các công ước quốc tế.

Chính phủ Uzbekistan đã có những bước tiến giải quyết các mối quan ngại về nhân quyền như quyền của bị cáo, nạn buôn người và lao động trẻ em trong ngành sản xuất bông. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục có những vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và việc đánh đập xảy ra có hệ thống trong khi thực thi luật. Các giới chức buộc nhiều trẻ em phải hái bông, đôi khi cho các em sống trong những điều kiện hết sức tồi tàn. Các nhà hoạt động nhân quyền và các phóng viên chỉ trích chính phủ tiếp tục bị sách nhiễu, bị bắt giam tùy tiện, bị truy tố vì động cơ chính trị và bị đánh đập.

Tây Bán cầu

Các chính phủ trong khu vực tiếp tục giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền trong quá khứ bằng việc đảm bảo công lý cho các nạn nhân và chấm dứt tình trạng miễn truy cứu trách nhiệm. Tại Cô-lôm-bi-a, một số sĩ quan chỉ huy đã bị điều tra vì các vụ vi phạm nhân quyền quan trọng. Văn phòng Trưởng Công tố đang điều tra 27 quan chức quân đội, trong đó có ba tướng lĩnh và bốn đại tá bị sa thải khỏi lực lượng vũ trang hồi cuối tháng 10 vì bị cáo buộc dính líu đến vụ giết hại 11 em nhỏ ở Soacha, gần Bogota. Một số cuộc điều tra cũng đang được tiến hành ở Chi-lê và Ác-hen-ti-na. Một số cáo trạng đã được đưa ra trong các vụ vi phạm từ những năm 1970 và 1980. Tại Pê-ru, nhà nước tiếp tục truy tố cựu Tổng thống Fujimori và các cựu quan chức chính phủ khác vì tham nhũng và vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Các nhóm giám định pháp y đã khai quật hài cốt và xác định xác của hàng trăm người bị mất tích hoặc bị giết hại và chôn tại các hang động bí mật trong những năm của thập kỷ 1980 và 1990. Ủy ban Chống miễn truy cứu của Liên Hợp Quốc tại Goa-tê-ma-la tiếp tục điều tra 15 vụ nhân quyền nổi bật liên quan đến giết hại phụ nữ, giết hại tài xế xe buýt, buôn người, tấn công và giết hại những người hoạt động công đoàn và những người bảo vệ nhân quyền.

Nhìn chung, các cơ quan bầu cử trên toàn Tây Bán cầu đều duy trì được sự độc lập và động lực mà họ có được trong những năm gần đây. Nhiều tiến trình bầu cử, chẳng hạn như bầu cử tổng thống ở Pa-ra-goay, bầu cử tổng thống sơ bộ ở Hôn-đu-rát và trưng cầu dân ý ở Bô-li-vi-a và Ê-cu-a-đo, được đánh giá là tự do và công bằng. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ. Tại Ni-ca-ra-goa, tình trạng gian lận, trả thù và bạo lực diễn ra phổ biến trong các cuộc bầu cử cấp tỉnh, thành. Tại Vê-nê-zu-ê-la, Chủ tịch ủy ban bầu cử tuyên bố gần 300 ứng cử viên thị trưởng và thống đốc bang (hầu hết là thuộc phe đối lập) không đủ điều kiện tranh cử vì vi phạm hành chính.

Trong một số trường hợp, các chính phủ dùng các tiến trình chính trị, chẳng hạn như trưng cầu dân ý về hiến pháp, để theo đuổi những chính sách đe dọa, làm suy yếu các quyền tự do dân chủ và các thể chế, giảm kiểm soát và cân bằng, hoặc củng cố quyền hành pháp. Ở Ê-cu-a-đo, Hiến pháp 2008 bao gồm những điều khoản yêu cầu truyền thông cung cấp cho Chính phủ thời lượng phát sóng tự do, làm dấy lên quan ngại về quyền tự do ngôn luận và báo chí sẽ bị ảnh hưởng. Tại Vê-nê-zu-ê-la, việc thông qua 26 đạo luật “cho phép”, một số trong đó phản ánh những khía cạnh của cuộc trưng cầu dân ý hiến pháp 2007 không thành công, đã đưa vào các điều khoản giảm thẩm quyền của các quan chức được bầu lên và tăng cường tập trung hóa quyền lực.

Cũng có những mối đe dọa đối với quyền tự do báo chí. Tại Vê-nê-zu-ê-la, các cơ quan báo chí và các phóng viên độc lập tiếp tục bị các quan chức cao cấp của chính phủ sách nhiễu, trả thù trên các phương tiện truyền thông của nhà nước. Đài truyền hình độc lập của Vê-nê-zu-ê-la, đài Globovision là đối tượng của cuộc tấn công bằng hơi cay của những người ủng hộ chính phủ. Chính phủ Nicaragoa dùng các biện pháp hành chính, tư pháp và tài chính để làm suy yếu việc thực thi quyền tự do ngôn luận. Mặc dù Chính phủ Bô-li-vi-a nhìn chung tôn trọng quyền tự do báo chí, nhưng chính phủ này vẫn duy trì mối quan hệ thù địch đối với báo giới. Một số tổ chức phi chính phủ cáo buộc rằng Tổng thống Morales và các quan chức chính phủ đã đưa ra những phát biểu miệt thị báo giới, phớt lờ tình trạng bạo lực đối với các phóng viên và các cơ quan truyền thông, chính trị hóa nội dung truyền thông nhà nước và ban hành các luật hạn chế truyền thông độc lập.

Cu-ba tiếp tục là nhà nước độc tài duy nhất ở Tây bán cầu sau cuộc chuyển giao quyền lực phi dân chủ từ Fidel Castro sang cho em trai là Raul Castro.

Tình hình ở một số quốc gia điển hình

Tại Bô-li-vi-a, Chính phủ nỗ lực đưa hiến pháp mới đầy tranh cãi ra trưng cầu dân ý trên toàn quốc, phe đối lập đòi quyền tự trị trong khu vực lớn hơn, những yêu cầu về tài trợ của Chính phủ dẫn đến hàng loạt cuộc đối đầu bạo lực và các vụ biểu tình quy mô lớn. Tình trạng bạo lực lên đến đỉnh điểm hồi tháng 9 ở bang Pando với 13 người chết và thống đốc bang bị bắt giam bất hợp pháp và kéo dài. Tháng 5 và 6, các bang miền đông tổ chức trưng cầu dân ý về quyền tự trị, Chính phủ liên bang không công nhận và cộng đồng quốc tế không giám sát. Cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc hồi tháng 8 giúp hầu hết các thống đốc và Tổng thống Evo Morales tiếp tục tại vị, củng cố Đảng Phong trào tiến lên chủ nghĩa xã hội của Tổng thống và nỗ lực của đảng này nhằm tiến hành bỏ phiếu thông qua hiến pháp mới.

Trong bối cảnh cuộc xung đột vũ trang kéo dài 44 năm với các tổ chức khủng bố, Chính phủ Cô-lôm-bi-a tiếp tục nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền, đặc biệt thực hiện Luật Công lý và Hòa bình, một tiến trình giúp xác minh khoảng 164 nghìn tội ác và tiến đến cải cách hệ thống tư pháp quân đội. Trong 10 tháng đầu năm, số vụ giết hại giảm 6%, bắt cóc giảm 14% so với năm 2007, trong khi đó các vụ điều tra về dính líu giữa các chính trị gia và các nhóm bán quân sự phát hiện 70 nghị sĩ và 15 thống đốc có liên quan, một số trong số này đã bị bỏ tù. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề xã hội và các vụ vi phạm nhân quyền của Chính phủ, trong đó có giết hại không bị xét xử, hợp tác quân đội với các nhóm vũ trang bất hợp pháp, sách nhiễu phóng viên và các nhóm nhân quyền. Các tổ chức khủng bố, đáng chú ý là Lực lượng Vũ trang Cách mạnh Cô-lôm-bi-a và Quân đội Giải phóng Quốc gia đã tiến hành nhiều vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, trong đó có giết hại vì mục đích chính trị, bắt cóc, ép dời bỏ nhà cửa hàng loạt, tuyển binh lính trẻ con và tấn công các nhà hoạt động nhân quyền, giáo viên và các nhà hoạt động công đoàn.

Tại Cu-ba, so với năm trước có sự gia tăng đàn áp quyền tự do ngôn luận và hội họp. Sách nhiễu gia tăng đối với những người bất đồng chính kiến, trong đó các quan chức an ninh hoặc các nhóm do chính phủ tổ chức đánh đập các nhà hoạt động. Chính phủ còn gia tăng sử dụng biện pháp giam giữ tạm thời và thả mà không có cáo buộc nào để đe dọa các nhà hoạt động và ngăn cản không cho họ tổ chức các hoạt động. Ít nhất có 219 tù nhân chính trị bị tù trong các điều kiện thiếu thốn và đe dọa mạng sống, bị đánh đập và không cho điều trị bệnh. Những người được thả trong năm là những người đã thụ án xong. Chính phủ tiếp tục hạn chế không cho công dân tiếp cận các nguồn thông tin độc lập, cụ thể là hạn chế truy cập Internet, bất chấp thực tế là lần đầu tiên họ đã cho phép công dân được sở hữu máy tính cá nhân.

Goa-tê-ma-la đã có nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền. ủy ban chống Miễn truy cứu của Liên Hợp Quốc ở Goa-tê-ma-la tiếp tục điều tra các vụ vi phạm nhân quyền nổi bật và mở rộng năng lực điều tra qua việc hình thành một đơn vị công tố viên mới. Tuy nhiên, tình trạng bạo lực lan tràn và không bị truy cứu vẫn tiếp tục xảy ra. Thành viên lực lượng cảnh sát quốc gia gây ra các vụ giết hại không bị xét xử và trong nhiều trường hợp, các giới chức đã thuyên chuyển các sĩ quan cảnh sát hoặc sa thải họ chứ không điều tra và truy tố những người bị cáo buộc vi phạm. Hình thức bạo lực khác xuất phát từ các vụ của các băng nhóm, cưỡng hiếp, ép cung, tội phạm có tổ chức và buôn bán ma tuý. Những người hoạt động công đoàn bị đe dọa sử dụng bạo lực hoặc bị những kẻ tấn công không rõ danh tính giết hại. Tình trạng tham nhũng trong chính phủ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. Các điều tra công khai cho thấy tình trạng thiếu lòng tin đối với hầu hết các cơ quan chính phủ.

Chính phủ của Đảng Sandinista ở Ni-ca-ra-goa gạt bỏ các quan sát viên quốc tế có uy tín khỏi các cuộc bầu cử cấp tỉnh, thành hồi tháng 11. Những cuộc bầu cử này có tình trạng gian lận phổ biến, nhiều điều bất thường và cả đe dọa trả thù. Quốc gia này tiếp tục không tôn trọng pháp quyền, để xảy ra tình trạng tham nhũng có hệ thống và cơ quan tư pháp và cả các cơ quan chính phủ khác đều bị chính trị hóa. Chính phủ và các chủ thể khác đe dọa trả thù và gây khó khăn cho các phóng viên và các nhóm xã hội dân sự không ủng hộ các chính sách của chính quyền.

Tại Vê-nê-zu-ê-la, cộng đồng các tổ chức phi chính phủ cho biết có sự suy giảm cả các quyền dân chủ và nhân quyền, với những hệ quả nghiêm trọng. Trong năm Quốc hội thông qua 26 bộ luật trong đó có các điều khoản hạn chế phạm vi thẩm quyền của các quan chức được bầu lên, tăng cường tập trung quyền lực. Chính phủ bị cộng đồng quốc tế chỉ trích và cáo buộc vi hiến khi tuyên bố 272 ứng cử viên trong các cuộc bầu cử thị trưởng và thống đốc bang là không đủ điều kiện tranh cử; đa số các ứng cử viên này là thuộc phe đối lập. Tổng thống Chavez tuyên bố ý định đưa ra trưng cầu dân ý một bản hiến pháp nữa vào ngày 15/2/2009 cho phép bỏ điều khoản quy định nhiệm kỳ đối với tổng thống và lần đầu tiên áp dụng đối với tất cả các quan chức được bầu lên. Có rất nhiều hạn chế đáng kể và nhiều mối đe dọa đối với quyền tự do bày tỏ, kể cả tự do truyền thông. Các quan chức chính phủ công khai miệt thị và đe dọa trả thù các cơ quan truyền thông độc lập và các phóng viên trên phương tiện truyền thông của nhà nước. Chính phủ kiện ra tòa một đài truyền hình Vê-nê-zu-ê-la độc lập, cáo buộc rằng mạng lưới truyền thông này muốn ám sát Tổng thống Chavez. Các cá nhân và các mạng lưới truyền thông cũng bị cáo buộc kích động bạo lực và gây bất ổn cho chính phủ sau khi họ đưa ra các phát biểu chỉ trích chính phủ hoặc kêu gọi hành động chống chính phủ. Các cơ quan và quan chức chính phủ và các cơ quan truyền thông liên quan đến chính phủ tăng cường chống người Do Thái thông qua các bình luận chống Do Thái có tác động lan tỏa trong toàn xã hội, dưới hình thức phát ngôn, vẽ tranh biếm họa, phá hoại các công trình nghệ thuật và tấn công các cơ sở Do Thái.

Kết luận

Ngày 10/12/2008 kỷ niệm 60 năm ngày ra đời Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Trong nhiều thập kỷ kể từ ngày Tuyên ngôn ra đời, đã có những tiến bộ rõ rệt trên mọi lục địa vì quyền con người mà Tuyên ngôn đã ghi nhận. Nhưng cũng 60 năm sau, hàng trăm triệu người vẫn bị các chính phủ của họ tước bỏ các quyền tự do cơ bản.

Hoa Kỳ là một quốc gia được xây dựng dựa trên nhân quyền và pháp quyền. Khi đưa ra những báo cáo này, chúng ta muốn đó là một nguồn thông tin, hy vọng và giúp đỡ người dân ở mọi nơi đang bị đàn áp, bị bịt miệng và đẩy ra ngoài lề. Chúng ta cam kết hợp tác ở mọi cấp độ - quốc gia, khu vực và toàn cầu - để đảm bảo rằng các quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn Thế giới được bảo vệ và tôn trọng.