Tuesday, March 17, 2009

Không khai thác Bauxite Tây Nguyên ??

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO

V/v làm rõ một số ý kiến tại cuộc Tọa đàm về bauxite ngày 20/2/2009

Trân trọng kính gửi:

-đ/c Trương Tấn Sang UV Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư

-đ/c Ngô Văn Dụ Bí thư TW Đảng CSVN, Chánh Văn phòng TW Đảng

Tôi được mời tham gia cuộc Tọa đàm về bauxite do VP TW tổ chức ngày 20/2/2009. Do thời lượng Tọa đàm có hạn, vì chưa có điều kiện phát biểu, chấp hành ý kiến chỉ đạo của đ/c Ngô Văn Dụ- chủ trì Tọa đàm, tôi xin được trình bầy với Ban Bí thư và Văn phòng TW Đảng CSVN một số ý kiến như sau:

1/ Trước hết tôi hoàn toàn đồng tình với đa số các ý kiến tại cuộc Tọa đàm đều cho rằng việc lựa chọn nhà thầu TQ vào Tây Nguyên là một nguy cơ rất lớn đối với an ninh quốc phòng. Trong các tham luận công khai, tôi cũng như các nhà khoa học đều hiểu, nhưng chưa nêu thẳng vấn đề: lựa chọn nhà thầu TQ là một sai lầm cố ý của TKV(Tập đoàn Than và Khoáng sản ).. Tôi xin nói rõ hơn như sau:

-Là cán bộ của TKV, đến nay tôi đã có kinh nghiệm (hiểu rõ cách đấu thầu) qua không ít hơn 6 cuộc đấu thầu quốc tế các dự án nhiệt điện chạy than của TKV khi tôi được giao trực tiếp tham gia (là gíam đốc cty Tư vấn), hay quản lý (là trưởng ban điện lực) và phụ trách (là Tổng giám đốc cty nhiệt điện). Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, và với tiêu chí là lợi ích tối đa lâu dài của đất nước (chứ không phải của chủ đầu tư) thì không thể có một nhà thầu TQ nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án bauxite nào.

-Để chọn được nhà thầu TQ, TKV đã hạ rất thấp các tiêu chuẩn công nghệ trong đấu thầu, đã lựa chọn công nghệ thải bùn đỏ bằng công nghệ “ướt” rất lạc hậu và rất nguy hại cho môi trường mà cả thế giới đã không còn chấp nhận (ngay cả TQ, Nga và Ấn Độ cũng đang chuyển dần các nhà máy của mình từ công nghệ “ướt” sang công nghệ “khô”, các nước ở vùng nhiệt đới có mưa nhiều giống như Tây Nguyên cũng không áp dụng công nghệ này). Đây là một quyết định để dẫn tới việc chỉ các nhà thầu TQ có thể tham gia đấu thầu và có thể chào giá rất thấp (vì TQ đang có sẵn công nghệ, đang cần phải “bán sắt vụn” lại có dịp để “chuyển giao” sang VN).

-Việc nâng công suất nhà máy lên gấp 2 lần so với quy hoạch ban đầu và triển khai đồng loạt cả hai dự án lớn cũng được TKV làm theo “lời khuyên” của nhà thầu TQ, với lý do làm “nhỏ” thì các nhà thầu sẽ không tham gia. Thực tế cho thấy, tuy đã làm “lớn”, nhưng do cố tình lựa chọn công nghệ lạc hậu chỉ có ở TQ, nên cũng chẳng có nhà thầu nào khác (ngoài các nhà thầu TQ) tham gia đấu thầu.

Ngoài ra, tương tự như dự án luyện đồng Sinh Quyền, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm alumina cũng rất quan trọng. Tôi e ngại rằng (để đấu thầu, giảm chi phí đầu tư), chất lượng sản phẩm alumina do TQ chào sẽ rất thấp để sau này TQ sẽ mua lại với giá rẻ mạt (như hiện đang mua loại đồng của Sinh Quyền). TQ không có công nghệ nguồn về nhôm, cũng phải đi nhập của các nước phát triển, còn sản phẩm alumina của TQ có chất lượng khác nhau và có tiêu chuẩn thấp hơn so với của các nước phát triển.

2/Về ý kiến cho rằng cần phát triển bauxite hơn phát triển cây công nghiệp (của các đ/c Hoàng Sỹ Sơn- phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng và Phan Tuấn Pha- Bí thư tỉnh ủy Đắk Nông)

Cả hai đ/c đại diện cho Đảng bộ và UBND các tỉnh có dự án bauxite đều phát biểu ủng hộ tiếp tục triển khai các dự án bauxite vì hai lý do chính: (i) bauxite có lợi thế hơn sản phẩm nông nghiệp (cà phê, chè, điều, cau su) vì giá bán sản phẩm nông nghiệp rất biến động; và (ii) nếu không khai thác bauxite thì (bauxite vẫn chỉ là đất), 20-30 năm nữa con cháu chúng ta sẽ phê phán chúng ta tại sao không khai thác!.

(i) Trước hết, tôi cho rằng cả hai ý kiến này đều không chính xác, và nếu xem xét kỹ thì đây là những ý kiến phản khoa học, do thiếu thông tin. Bauxite gắn chặt với vùng đất đỏ bazan trên Tây Nguyên là tài nguyên khoáng sản có hạn, không tái sinh, còn cây công nghiệp là nguồn tài nguyên vô hạn, có tái sinh (nhờ được trồng trên đất bazan tài sản vô giá của quốc gia này). Thế mạnh cạnh tranh cốt lõi của Tây Nguyên là đất đỏ bazan. Phát triển cây công nghiệp góp phần duy trì và làm tăng thêm mầu xanh cho môi trường, giảm các nguy cơ như lũ ống, lũ quyét, hạn hán kéo dài, duy trì và phát huy được thế mạnh của đất đỏ bazan. Còn khai thác bauxite sẽ làm mất đi thế mạnh của Tây Nguyên, hủy diệt mầu xanh, làm thay đổi thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan, làm tăng thêm nguy vơ về hạn hán kéo dài, lũ ống, lũ quyét xẩy ra nhiều hơn. Nếu tiếp tục cho phát triển các dự án bauxite như cách làm hiện nay, về lâu dài cái giá phải trả của VN là không phát triển được cây công nghiệp trên vùng Tây Nguyên (do sẽ thiếu nước ngọt, thổ nhưỡng đất bazan thay đổi) và có nguy cơ còn làm mất và ô nhiễm nguồn nước ngọt để phát triển kinh tế cho các tỉnh vùng hạ lưu (Đồng Nai, Bình Dương, TP. HCM v.v.).

(ii) Giá bán sản phẩm nông nghiệp tuy có biến động nhưng nhu cầu tiêu dùng của cả loài người về cà phê, chè, đều là ổn định, được tiêu thụ ở rất nhiều nước, không có sản phẩm thay thế. Giá bán sản phẩm bauxite biến động rất lớn, nhu cầu của TG cũng thay đổi và chỉ được sử dụng chủ yếu tập trung ở một số nước có ngành chế tạo xe hơi và máy bay như Mỹ, Nhật, Đức, Nga, TQ. Tôi xin cập nhật những thông tin gần đây nhất: giá bán nhôm trên Thị trường Giao dịch Kim loại Luân Đôn (LME) giao động rất lớn, giá thấp nhất 1040U$/tấn (1993) và cao nhất lên tới 3249 U$/tấn (2006). Chỉ từ tháng 7/2008 đến tháng 10/2008 giá nhôm tại LME đã giảm từ 3300 xuống còn 1885 rồi 1500 U$/tấn. Theo đánh giá của các chuyên gia về nhôm, hiện nay giá bán hòa vốn đối với 75% các nhà máy phải là 2500U$/tấn trong khi giá thành sản xuất bình quân của thế giới 2700-3200U$/tấn. Vì thế các nước đã và đang tiếp tục cắt giảm sản lượng (chỉ tính riêng năm 2008: TQ đã cắt giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với công suất 3,22-3,70 triệu tấn/năm, 10% sản lượng alumina; tập đoàn Alcoa của Mỹ đã giảm 18% sản lượng nhôm tương đương với 3,5 triệu tấn/năm; Brazin giảm tới 40% sản lượng nhôm; Nga- giảm 25%, Tadzickistan (thuộc LX cũ)- 10% v.v.). Trong các năm tới thị trường và giá bán của sản phẩm bauxite sẽ còn tiếp tục biến động theo chiều hướng xấu đi: dự báo năm 2009, nhu cầu alumina của TQ chỉ có 27,83 tr. tấn, trong khi tổng công suất của các nhà máy sản xuất lên tới 32,97 tr.tấn (thừa 5,14 tr.tấn).

(iii) Về ý kiến (của tỉnh Đắc Nông) cho rằng cần khai thác bauxite ngay bây giờ chứ không để giành cho thế hệ sau, “nếu không khai thác thì bauxite cũng chỉ là đất thôi”: đây cũng là ý kiến phản khoa học và ngắn về tầm nhìn. Tôi xin báo cáo như sau:

-Nếu hiện nay chúng ta sớm phát triển ngành công nghiệp bauxite-nhôm, thì chúng ta phải đối mặt với một bất cập rất lớn không thể vượt qua là thiếu điện giá rẻ. Trên thế giới các nước đều gắn nhôm với thủy điện, vì chỉ có thủy điện mới cho giá rẻ (dưới 3cents/kWh) trong khi tỷ trọng chi phí về điện trong chi phí sản xuất nhôm rất cao (chiếm tới 40-65%). Gần đây, Ngân hàng xuất nhập khẩu TQ đã phải cho vay bù lãi suất tới 2-3%/năm để một công ty nhôm của TQ đầu tư 3,2 tỷ U$ xây dựng nhà máy nhôm ở Mã Lai vì hai lý do: (i)Khuyến khích việc đưa các dự án nhôm tiêu hao nhiều điện năng ra nước ngoài (trong khi TQ cũng không phải thiếu điện trầm trọng như VN); (ii) Nhà máy nhôm này (do TQ nắm không ít hơn 50%) được quyền mua toàn bộ sản lượng điện của nhà máy thủy diện Bakun công suất 2400MW sẽ được Mã Lai xây dựng ở tỉnh Saravac với giá bán điện chỉ có 2 cents/kWh. Dự án thủy điện này cũng do một tổng công ty nhà nước khác của TQ là Sinohydro xây dựng. Toàn bộ sản phẩm nhôm sẽ được bán lại cho TQ. Các tập đoàn nhôm UC Ruasal (Nga) và Alcoal (Mỹ) cũng coi việc đầu tư vào các nhà máy thủy điện để có được nguồn điện lớn với giá rẻ là ưu tiên số 1 trong hoạt động của mình. Toàn bộ tiềm năng về thủy điện của các tỉnh Tây Nguyên, nếu được khai thác hết cũng chỉ tương đương với dự án nói trên của Mã Lai.

-Nếu sau 20-30 năm nữa chúng ta mới phát triển ngành công nghiệp nhôm, thì con cháu chúng ta sẽ không “phê phán chúng ta là dốt”, như ý kiến của đ/c bí thư tỉnh Đắc Nông, ngược lại, thế hệ mai sau sẽ phải cám ơn chúng ta là đã rất thông minh, có tầm nhìn xa về khoa học công nghệ. Nhân đây tôi xin nói rõ hơn:

+Tại cuộc hội thảo đầu tiên về bauxite ở Đắk Nông tháng 12/2007 do tỉnh Đắt Nông và TKV tổ chức, trong tham luận của mình tôi đã lưu ý đến bom Napal- là một loại bom cháy, có sức hủy diệt cao là một phát minh của Đại học Ha Vớt Hoa Kỳ, rất có hại trong chiến tranh, nhưng rất có ích trong phát triển kinh tế.

+Theo dự báo của các nhà khoa học, sau 20-30 năm nữa, trình độ khoa học công nghệ (trong đó có các công nghệ về hóa-lý) sẽ cho phép chúng ta áp dụng phát minh trên của Đại học Ha Vớt trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Kim loại nhôm sẽ được sử dụng để phát điện (có thể thay cho dầu mỏ, khí đốt và than đá hay uranium đang dần cạn kiệt) với hiệu suất rất cao. Theo tính toán của các nhà khoa học, để sản xuất ra 1 “đơn vị nhôm”, chúng ta cần 1 “đơn vị năng lượng” (đơn vị này hiện nay rất lớn). Nhưng sau 20-30 năm nữa, trình độ công nghệ cho phép thực hiện qui trình ngược lại, từ 1 “đơn vị nhôm” chúng ta có thể sản xuất ra được gần 2 “đơn vị năng lượng” dựa trên nguyên lý hoạt động của bom Napal (phản ứng ô xy hóa của kim loại nhôm tinh khiết cho phép chúng ta thu được một lượng nhiệt rất lớn).

+Ngoài ra hiện nay ô xít nhôm Al2O3 (là alumina- sản phẩm của các dự án bauxite Tây Nguyên để xuất khẩu) mới chỉ được dùng làm nguyên liệu thô cho ngành luyện nhôm và sản xuất một số hóa chất đơn giản khác. Nhưng trong tương lai, cũng như các loại ô xít kim loại khác sẽ được sử dụng để khử khí thải CO2 trong các nhà máy nhiệt điện để thu được khí CO (là một dạng khí cháy, có nhiệt năng cao) có thể tái sử dụng lại ngay cho chính các nhà máy nhiệt điện hay cho các lò hơi công nghiệp. Trên thế giới hiện nay đã có rất nhiều thành tựu (bản quyền và bí quyết công nghệ) trong vấn đề này (chủ yếu cũng là của Mỹ).

+Trên quan điểm khoa học và công nghệ, Đảng ta đã rất sáng suốt khi trong Báo cáo chính trị của Đại hội X đã bỏ cụm từ “khai thác bô-xít và sản xuất alumin” ra khỏi danh mục các sản phẩm cần được hỗ trợ đầu tư phát triển, thay vào đó, đã khẳng định “Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô”. Tôi cho rằng, ý kiến của đ/c Bí thư tỉnh Ủy Đắk Nông tại cuộc Tọa đàm là không có tính khoa học và càng không phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng.

3/Về ý kiến cho rằng công nghệ của TQ là tốt: Tại cuộc Hội thảo do Liên hiệp các hội KHKT VN (VUSTA) tổ chức ngày 19/1/1009 vừa qua, trong Báo cáo của mình tôi đã nêu rõ một ví dụ về công nghệ lạc hậu, không hiệu quả (công nghệ luyện đồng) mà TQ mới chuyển giao cho TKV trong dự án đồng Sinh Quyền gần đây. Tôi cho rằng không cần nhắc lại. Nhân đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm: Những nhà máy alumina phía Nam TQ (mà TKV đã tổ chức cho một số cán bộ ngoài TKV đi thăm quan) sử dụng loại bô xít (sa khoáng) khác hẳn với bô xít của Tây Nguyên (phong hóa) về nguồn gốc. Quá trình sản xuất alumina thực chất là các quá trình hóa-lý. Việc lựa chọn công nghệ phải dựa trên kết quả phân tích về thành phần thạch học và thành phần hóa học của quặng chứ không thể sao chép “copy” và đánh giá công nghệ bằng mắt thường. Ngoài ra, chất lượng quặng bauxite của VN (tuy chưa có được đánh giá chi tiết, nhưng) căn cứ vào các thông tin hiện có, thì không cao, đòi hỏi phải tuyển để nâng cao chất lượng trước khi áp dụng công nghệ Bayer.

4/ Về ý kiến cho rằng khai thác bauxite sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và không chiếm nhiều đất canh tác của các tỉnh Tây Nguyên:

-Trước hết, về kinh tế, các nhà khoa học đều khẳng định điều ngược lại. Rất may, lần nào, theo báo cáo tại cuộc Tọa đàm của chính đ/c Hoàng Sỹ Sơn- phó Chủ tịch tỉnh Lâm Đồng, các dự án bauxite hàng năm chỉ đóng góp 120-150 tỷ đồng cho ngân sách địa phương chứ không phải 1500-2000 tỷ (được phóng đại lên 10 lần) như trả lời trên báo của đ/c Chủ tịch tỉnh Đắk Nông. Thực ra mức đóng góp này là không tương xứng so với số tiền rất lớn VN phải đi vay để đầu tư, và thấp hơn nhiều nếu chúng ta đầu tư vào mục đích khác, không phải là bauxite.

-Về diện tích chiếm đất, tuy diện tích không lớn so với toàn vùng lãnh thổ của Tây Nguyên, nhưng diện tích đất bị các dự án chiếm dụng vĩnh viễn lại là những nơi có giá trị canh tác cao, và (theo báo cáo của sở TNMT Đắk Nông) lớn hơn nhiều lần diện tích được tạo ra hàng năm (so với thành tích mở rộng khai hoang, trồng rừng) của các địa phương này.

5/Về nội dung bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: tôi cho rằng ý kiến của đ/c Chủ tịch VUSTA (Hồ Uy Liêm) nêu trong Tọa đàm (đã không đại diện cho các nhà khoa học) là rất khiếm nhã. Tôi nghĩ cá nhân đ/c Hồ Uy Liêm cần chính thức xin lỗi Đại tướng về lời phát biểu gây nghi ngờ nội dung bức thư.

Tôi hoàn toàn ủng hộ và thêm cảm phục Đại Tướng về bức thư đầy tâm huyết và đầy trách nhiệm đó. Bản thân tôi đã từng làm đại diện cho Bộ Mỏ và Than của VN làm việc tại Ban Thư ký của COMECON trong cùng thời gian phía Chính Phủ VN đưa dự án bô-xít Tây Nguyên vào Chương trình hợp tác đa biên của COMECON (ngoài tôi, khi đó còn có nhiều người khác chứng kiến như các anh Dương Đức Ưng- đại diện cho Bộ Cơ khí Luyện Kim (nay là Bộ Công thương), Lê Dũng- đại diện cho UB KHKT (nay là Bộ Khoa học công nghệ) v.v.). Chúng tôi có đủ thông tin và điều kiện để tìm hiểu dự án này. Những vấn đề Đại tướng đã nêu trong thư là hoàn toàn chính xác. Khi đó (và cả bây giờ), Liên Xô và các nước thành viên COMECON rất cần bô-xít của VN để luyện nhôm cung cấp cho ngành chế tạo xe hơi, máy bay, và trang thiết bị quân sự-quốc phòng. Liên Xô (cũ) không cần chè của VN (khi đó người dân LX chỉ dùng chè của Ấn Độ hay của Srilanca), mà chỉ cần bô-xit của VN, những vẫn khuyên VN không phát triển dự án bô-xít mà phát triển các nông trường chè.

6/Về nhiều ý kiến cho rằng bài tham luận của TKV là “rất hay nhưng khó tin”. Nhân đây, tôi cũng xin bình luận thêm như sau:

-Trước hết, có thể thống nhất một điều là: VN lần đầu tiên triển khai các dự án bauxite, chưa có kinh nghiệm thực tế, nên những vấn đề đang được nêu ra đều chỉ nằm trên giấy (kể cả nhận định của Bộ Công thương, hay cam kết của TKV), còn dừng ở mức độ lý thuyết, dựa trên các thông tin trên TG (của các nhà khoa học) đều chưa được thực tế chứng minh đúng/sai . Điều có thể ai cũng đã nhận ra là tính rủi ro (về mọi mặt: công nghệ, kỹ thuật, môi trường, an ninh, quốc phòng, v.v...) trên thực tế quá cao, còn những giải pháp mới chỉ là "khẩu hiệu".

-Bản thân tôi là một cán bộ làm việc ở TKV từ khi TKV mới được thành lâp đến nay (hiện nay tôi được giao giữ chức Giám đốc Công ty Năng lượng Sông Hồng -TKV, là chi nhánh của TKV tại Hưng Yên để phát triển bể than Đồng bằng sông Hồng), tôi cũng cho rằng những "giải pháp" của TKV không có cơ sở khoa học, mới chỉ dừng lại ở mức độ nói về vấn đề bùn đỏ ( có độ pH cao), TKV cam kết là không nguy hại, có thể xử lý được. Nhưng, như trên tôi đã nêu, bùn đỏ sẽ ít nguy hiểm khi được xử lý bằng công nghệ thải "khô", còn với công nghệ thải "ướt" như TKV và các nhà thầu TQ đang áp dụng ở Tây Nguyên (chất lỏng 54,4%, chất rắn 45,6%) thì lại rất nguy hại bởi các lý do sau: (i) "Khô" có nghĩa là ít chất sút ăn da lẫn trong bùn đỏ; (ii) Nếu thải "khô", các thành phần cỡ hạt khác nhau của bùn đỏ sẽ đông cứng lại thành chất rắn, ít nguy hại nếu bị trôi lấp. Còn "ướt" thì dung dịch bùn đỏ sẽ phân ly thành nhiều pha với các cỡ hạt khác nhau, trong đó có pha cỡ hạt siêu nhỏ gồm các kim loại nặng độc hại sẽ ngấm xuống đất, còn các pha cỡ hạt lớn lại không thể liên kết lại với nhau khi gặp mưa rất nguy hiểm, dễ bị trôi lấp; (iii) Với công nghệ "khô" thì các đập chắn của các hồ bùn đỏ không phải chịu lực, chỉ có chức năng "chắn". Ngược lại, với công nghệ thải "ướt", các đập của hồ bùn đỏ (theo lựa chọn của TKV cao tới 25m, dài 282m, nằm trên độ cao 850m so với mực nước biển) sẽ giống như các đập hồ thủy điện, phải chịu lực do áp lực thủy tĩnh của bùn đỏ ướt tạo ra, nên kém an toàn.

-TKV nói sẽ rất coi trọng vấn đề xử lý vấn đề bùn đỏ theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, vì lợi ích của chủ đầu tư, các thiết kế hồ bùn đỏ đều lấy theo tiêu chuẩn GB của TQ. Với qui mô hồ thải bùn đỏ lớn như của TKV (rộng 116ha), các nước trên thế giới phải đầu tư hàng trăm triệu US$, trong khi hồ bùn đỏ của TKV do TQ thiết kế có mức đầu tư ít hơn nhiều lần. Thực tế các dự án nhiệt điện của TKV do các nhà thầu TQ thực hiện đã cho thất, các tiêu chuẩn GB của TQ thường thấp hơn nhiều so với của các nước khác, trong khi đó các nhà thầu TQ thường hay "nói một đằng làm một nẻo", càng không ai dám tin.

-Vấn đề hoàn thổ và bảo vệ môi trường trong khai thác bauxie: mọi người đều hiểu rất rõ thực trạng môi trường của vùng Quảng Ninh hiện nay như thế nào ?

-Một điều nữa không thể khÔng làm các đại biểu nghi ngờ là: (i) Tác giả của những bài trình diền, tham luận đó của TKV là anh Nguyễn Chí Quang - người đã từng bị Thanh tra Chính Phủ yêu cầu TKV buộc thôi việc trong dịp Thanh tra CP làm việc với TVN năm 1999-2000. Sau khi bị sa thải, thời gian gần đây, anh Quang lại đích thân Chủ tịch HĐQT TKV nhận làm "cố vấn riêng" cho cá nhân Chủ tịch HĐQT. Mặc dù vậy, trong các giao dịch, anh Quang vẫn tự coi mình là cố vấn của HĐQT TKV, cũng có mặt cùng Chủ tịch HĐQT để báo cáo trong nhiều cuộc hội thảo và công khai phát biểu dưới tư cách là "đại diện cho TKV"; (ii) Các chuyên gia giỏi có kinh nghiệm và trình độ thực sự về bauxie-nhôm trước đây (khi làm việc với COMECON, như Hoàng Kim Phú, Tô Ngọc Thái, Nguyễn Hoàng Ban v.v.) thì không được TKV sử dụng, trong khi TKV lại tích cực sử dụng một kỹ sư đã về hưu là Dương Thanh Sùng - người được đánh giá (công khai tại hội thảo của VUSTA) là chỉ thuộc loại "chai lọ" trong lĩnh vực bauxite-nhôm. Chính vì sự mật mờ này đã làm cho nhiều người (ngay cả trong TKV và cả bản thân Đại tướng) không thể tin cậy vào những gì "TKV nói".

7/ Về thái độ tiếp thu ý kiến của TKV: Gần đây tôi nhận được công văn "MẬT" của Đảng ủy TKV gửi cho cá nhân tôi với nột dung hình như là tôi đang bị mắc lừa các thế lực phản động hay đang chống lại nghị quyết của Đảng vì đã có những phát biểu chống lại các dự án bô-xít của TKV. Tôi rất bất bình về nội dung công văn này. TKV không những không tiếp thu ý kiến của tôi (trong khi TKV chưa có ý kiến nào để phản bác và dư luận rộng rãi đều đồng tình ủng hộ ý kiến của tôi", nhưng Đảng ủy TKV lại có văn bản mang tính răn đe theo kiểu "cả vú lấp miệng em" như vậy là không thể chấp nhận được. Nhân đây, tôi xin chính thức báo cáo với Ban Bí thư cũng như VP TW Đảng về vấn đề này như sau:

-Từ trước khi thủ tướng phê duyệt quy hoạch bô-xít, tôi đã viết nhiều bài báo khoa học phân tích tính không khả thi của các dự án bauxite đăng trên các tạp chí của VN. Sau khi Thủ tướng ban hành Quyết định số 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007, tôi đuợc mời tham luận tại cuộc Hội thảo đầu tiên ở Đắk Nông (12/2007) đến nay, tôi (tuy đang hưởng lương do TKV trả) vẫn đã và đang chính thức phát biểu công khai, minh bạch ý kiến của cá nhân tôi với tư cách là một cán bộ KHKT phản đối việc triển khai các dự án bauxite trên Tây Nguyên.

-Đây không phải là lần đầu tiên tôi phải đối các việc làm của TKV hay của Bộ Năng lượng (cũ). Những ý kiến phản đối của tôi trước đây được cho là "trái" với các quyết định của TKV, và của Bộ NL đến nay đều được thời gian chứng minh là hoàn toàn đúng đắn (như việc chấm thầu không đúng của dự án điện Na Dương, việc sửa đổi hồ sơ mời thầu có lợi cho nhà thầu trong các dự án điện, việc di chuyển nhà sàng Hòn Gai ra địa điểm Nam Cầu trắng, việc gia tăng qua mức sản lượng than của các mỏ để xuất khẩu cho TQ, v.v..)

-Cũng chính vì "trung ngôn thì nghịch nhĩ" tôi đã từng "được" TKV "xử lý" theo cách áp đặt cho luân chuyển công tác theo tiêu chí việc gì đang làm tốt thì không cho làm nữa, giao cho việc mới khó hơn, để nhường chỗ cho những "chung thần" chỉ biết làm theo.

-Bản thân tôi, là một cán bộ KHKT được Đảng và Nhà nước ưu tiên cho đi đào tạo nhiều lần ở nước ngoài, là một Đảng viên ĐCSVN (tôi được kết nạp tại chi bộ Vụ Kế hoạch Bộ Mỏ và Than từ 1983), tôi luôn sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đúng lương tri, phục vụ suốt đời cho sự nghiệp của Đảng và dân tộc, chứ không phải chỉ biết làm theo ý đồ và phục vụ cho lợi ích của một nhóm người. Bố đẻ tôi là Đảng viên, cán bộ tiền khởi nghĩa, Huân chương kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng, Huy hiệu các chiến sỹ bị địch bắt tù đầy đã giáo dục tôi hiểu rõ thế lực phản động là ai và mình cần phải làm gì?.

-Tôi không cần phải được Đảng Ủy TKV nhắc nhở về việc tôn trọng pháp luật, trong khi TKV đã cố tình lợi dụng cơ quan ngôn luận của mình (Tạp chí Than-Khoáng sản VN) để công khai vi phạm Luật báo chí, tung tin sai sự thật, bôi nhọ danh dự của tập thể công ty do tôi phụ trách (đúng vào dịp tôi đang bận dự thảo về bauxite ở Đắk Nông)

8/ Về Hội thảo sắp tới do Chính Phủ sẽ tổ chức: (i) Tôi cho rằng cần được chuẩn bị kỹ và phải có đủ thời lượng cần thiết, tạo được tính công khai, dân chủ, tránh hình thức vội chụp mũ; (ii) Nội dung Hội thảo nên tập chung ưu tiên bàn kỹ về tính khả thi về kinh tế, đánh giá hiệu quả kinh tế đầy đủ; và (iii) Để tiết kiệm thời lượng cho việc trao đổi đầy đủ có lẽ không nên mời các đối tác nước ngoài tham dự vì có nhiều vấn đề tế nhị và nhậy cảm.

Kinh nghiệm cho thấy tại hội thảo 10/2008 ở Đắk Nông vừa qua, các đối tác nước ngoài chỉ lợi dụng thời lượng của hội thảo để làm marketing và quảng bá cho bản thân họ. Còn trên thực tế họ làm như thế nào thì phía VN (Bộ Cơ khí luyện kim trước kia và TKV ngày nay) đã đi xem, thăm quan, khảo sát gần như khắp TG rồi. Nếu đã mời đối tác nước ngoài, cần mời đầy đủ cả các đối tác cũng đã từng khuyên chúng ta không nên làm ồ ạt như hiện nay (như nhà thầu của Pháp)

Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn các đ/c đã cho phép tôi có dịp trình bầy ý kiến của mình. Xin kính chúc các đồng chí sức khỏe và hạnh phúc.

Kính thư,

TS. Nguyễn Thành Sơn

TS. Nguyễn Thành Sơn

Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam//5134/index.aspx

24/10/2008 07:55 (GMT + 7) Mặc dù quy hoạch khổng lồ về khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên đã bắt đầu được triển khai, các nhà khoa học đang phản biện quyết liệt. Một trong những phản biện đó lại chính từ bên trong đơn vị thực hiện.

Trong hai ngày 22 và 23/10 vừa qua, tại tỉnh Đắk Nông đã diễn ra một hội thảo khoa học về quy hoạch ngành khai thác quặng nhôm (bô - xít) ở Tây Nguyên. Mặc dù quy hoạch đã bắt đầu được triển khai, các nhà khoa học đang phản biện quyết liệt.

Một trong những phản biện đó lại chính từ bên trong đơn vị thực hiện, chuyên gia Nguyễn Thành Sơn của Tập đoàn Than và Khoáng sản (TKV). Tuần Việt Nam xin giới thiệu những điểm chính trong phản biện của ông.

Màu xanh Tây Nguyên (ảnh: agroviet)


Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Chính phủ VN đã từng đề xuất đưa dự án khai thác bô - xít ở Tây Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên của khối hợp tác COMECON. Các nước thành viên của COMECON, đặc biệt là Liên Xô, khi đó rất cần bô - xít cho nhu cầu công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên, Hội đồng COMECON đã quyết định không triển khai dự án, thay vào đó, đã tích cực giúp VN triển khai các dự án cao su, cà phê và chè.

Các chuyên gia khi đó đã nhận định: nếu triển khai các dự án bô - xít, về môi trường sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn nước của vùng Tây Nguyên, không đủ nước để phát triển được cây công nghiệp cao su, chè và cà phê.

Về sinh thái, sẽ ảnh hưởng xấu đến khí hậu của toàn vùng miền Nam Trung Bộ và Campuchia, hạn hán sẽ kéo dài, lũ lụt sẽ thường xuyên xẩy ra hơn.

Về kỹ thuật, không thể lưu giữ một khối lượng khổng lồ bùn đỏ (red mud) ở trên cao nguyên, chỉ có thể tuyển bô - xít ở vùng đồng bằng ven biển để chôn cất bùn đỏ gần bờ biển.

Về kinh tế, các dự án bô - xít không có hiệu quả và không thể giúp VN phát triển bằng các dự án cao su, cà phê, và chè.

Tính đúng đắn và hiệu quả của những quyết định của COMECON đến nay càng thể hiện rõ.

Một quy hoạch phát triển bô - xít “chẳng giống ai” hiện nay

Sau hơn 20 năm “án binh bất động”, năm 2007 Việt Nam đã thông qua một quy hoạch phát triển ngành bô - xít-nhôm rất hoành tráng. Đây là quy hoạch một ngành kinh tế hoàn toàn mới, lần đầu tiên được phê duyệt của VN.

Lẽ ra, chúng ta nên thuê trực tiếp một tổ chức tư vấn nước ngoài có tên tuổi thực hiện (tương tự như qui hoạch ngành khí của tập đoàn Dầu khí VN đang lập, hay quy hoạch đầu tiên của các ngành than, điện… trước đây do Liên Xô giúp). Quy hoạch bô - xít-nhôm do tư vấn của VN chưa có kinh nghiệm soạn thảo. Việc soạn thảo chưa dựa vào và không có các thông tin tham khảo cần thiết nên “chẳng giống ai”. Vì vậy, bản quy hoạch này, mặc dù đã được Chính phủ thông qua (QĐ 167/2007/QĐ-TTg ngày 01/11/2007), nhưng còn có quá nhiều vấn đề cần được trao đổi, làm rõ để xác định tính khả thi trên thực tế.

Nhìn chung, quy hoạch bô - xít-nhôm của VN có quá nhiều tham vọng không có cơ sở, quá nhiều dự án không cần thiết, quá nhiều rủi ro không quản lý được, và quá nhiều bất cập chưa được tính đến.

Một cảnh khai thác bô - xít trên thế giới (ảnh: picasaweb)

Mục tiêu của quy hoạch: quá nhiều tham vọng không có cơ sở

Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay, nhôm không phải là nguyên liệu chiến lược. Nhu cầu về nhôm của VN không lớn. Cũng như của thế giới, 30% nhu cầu nhôm được đáp ứng do tái chế nhôm phế liệu. 30% nhu cầu nhôm có thể được thay thế bằng sử dụng các nguyên liệu rẻ tiền khác (sắt, thép, gỗ, nhựa, giấy…) Vì vậy, thị trường nhôm trên thế giới cũng như ở VN chưa khi nào có khủng hoảng hoặc khan hiếm.

Việt Nam là nước còn nghèo (về vốn và khoáng sản) và đói (về năng lượng), nhưng đã có quy hoạch phát triển một ngành bô - xít-nhôm đầy tham vọng. Tham vọng lớn là tốt, nhưng cần phải có cơ sở.

Nguồn lực phát triển các dự án alumina-nhôm của Tập đoàn Than – Khoáng sản (TKV) hiện nay chỉ là quyết tâm chính trị và ý chí trên giấy. Nhân lực và tri thức công nghệ gần như bằng 0. Các cán bộ quản lý chỉ đạo từ cấp Tập đoàn đến các cán bộ kỹ thuật trực tiếp làm việc với các “đại gia” nước ngoài và đưa ra các quyết định về alumina chỉ có chuyên môn về khai thác than lộ thiên ở Quảng Ninh. Khai thác bô - xít chỉ là khâu đơn giản nhất trong tất cả các khâu làm alumina, còn dễ hơn so với khai thác than ở Quảng Ninh.

Nguồn lực bằng 0, nhưng tổng số dự án lên tới 15 (trong khi cả thế giới chỉ có khoảng 55), tổng công suất thiết kế các dự án của VN lên tới 18 triệu tấn/năm (cả thế giới chỉ có 74 triệu tấn/năm), qui mô bình quân của các dự án của VN cũng ngang ngửa với thế giới (1,3 triệu tấn/năm, sản lượng của VN là 15 triệu tấn/năm, trong khi cả thế giới có 70 triệu tấn/năm.

Quy hoạch có quá nhiều dự án không cần thiết

Phần lớn các dự án chỉ tập chung vào khâu khai thác bô - xít để chế biến thành alumina. Alumina chưa phải là nhôm kim loại (aluminium). Xuất khẩu alumina là xuất khẩu quặng bô - xít đã được tinh chế, chỉ phục vụ cho các nhà máy luyện nhôm đang khan hiếm alumina của nước ngoài.

Ở Lâm Đồng, dự kiến khai thác tới 3,96 triệu tấn bô - xít, chế biến khoảng 1,2 triệu tấn alumina. Dự án khai thác bô - xít Nhân Cơ có công suất tới 1,8 triệu tấn/năm, dự kiến chế biến thành 0,6 triệu tấn alumina. Khu vực Măng Đen-Kon Hà có dự án khai thác bô - xít lên tới 9 triệu tấn/năm, dự án chế biến alumina lên tới 1,5 triệu tấn/năm.

Có thể nói, nếu triển khai theo qui hoạch này, toàn bộ vùng Tây Nguyên của VN sẽ biến thành “sân sau”, là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy luyện nhôm của các đại gia ở nước ngoài. Kể cả tới cuối thế kỷ này, mặc dù Tây Nguyên sẽ phải trả giá về sinh thái, môi trường, nhưng, ngành công nghiệp nhôm của VN vẫn là con số 0. Khâu điện phân nhôm có công suất được quy hoạch rất khiêm tốn, chỉ 0,2-0,4 triệu tấn/năm, nhưng còn rất xa vời, ngay trên giấy (trong quy hoạch) cũng rất khó tìm ra.

Vấn đề đường sắt và cảng biển, chỉ là “đâm lao, phải theo lao”, thực sự không cần thiết. Những sai lầm chiến lược đã dẫn đến nhiều sai lầm chiến thuật. Sai lầm chiến lược của chúng ta là chỉ tận dụng khai thác nguồn bô - xít trên Tây Nguyên để xuất khẩu quặng dưới dạng alumina. Việc xuất khẩu quặng alumina dẫn đến phải xây dựng đường sắt và cảng biển với qui mô lớn, có năng lực thông qua (cả đường sắt và cảng biển) tới 30 triệu tấn/năm.

Với cung độ ngắn (khoảng 200-300km), nhưng chênh lệch độ cao lớn (hàng trăm mét) giữa Tây Nguyên với Bình Thuận, trước đây, các chuyên gia của COMECON chỉ dám nghĩ tới đường sắt trong phương án không để lại bùn đỏ trên Tây Nguyên, đưa bô - xít xuống gần biển để tuyển thành alumina và lưu giữ bùn đỏ một cách an toàn bên cạnh bờ biển. Nhưng phương án này cũng quá tốn kém và rất không hiệu quả.

Nếu xét về mặt quốc phòng, tuyến đường sắt “chẳng giống ai” Tây Nguyên - Bình Thuận này cũng chẳng có ý nghĩa gì, và cũng không có lợi thế cơ động hay an toàn như đường bộ. Còn nếu để vận chuyển alumina ra biển xuất khẩu, hiện nay có phương thức “băng tải ống” rẻ tiền hơn, và thân thiện với môi trường hơn nhiều.

Vận chuyển quặng bô - xít (ảnh: picasaweb)

Quy hoạch có quá nhiều rủi ro không quản lý được

Bình thường, nếu dự án có một rủi ro nào đó không quản lý được, chúng ta đã phải xem xét lại. Việc phát triển bô - xít trên Tây Nguyên có quá nhiều rủi ro không quản lý được.

Trước hết là rủi ro về thị trường. Nguyên liệu alumina của chúng ta chủ yếu để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thị trường trong nước nhu cầu về nhôm không lớn, cũng không đủ điện để luyện alumina thành nhôm. Thị trường nước ngoài, mặc dù nhu cầu nguyên liệu alumina để luyện nhôm rất lớn, nhưng vì chi phí vận tải cao, Việt Nam chỉ có thể bán rẻ nguyên liệu alumina cho các nhà máy luyện nhôm trong khu vực.

Thứ hai là rủi ro về tài chính. Nhu cầu vốn để phát triển rất nóng ngành bô - xít như của VN sẽ rất lớn. Phương thức huy động vốn chủ yếu là đi vay nước ngoài. Trong khi đó, chỉ tiêu hoàn vốn nội tại (IRR) của dự án Nhân Cơ chỉ có 14,98% (được tính từ trước thời kỳ khủng hoảng tài chính và trước khi giá năng lượng tăng). Khâu luyện nhôm có giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế nhất thì không nằm ở Tây Nguyên. Toàn bộ lãi suất vay và chi phí môi trường đắt đỏ đều nhằm vào quặng alumina xuất khẩu.

Thứ ba là rủi ro về tài nguyên. Chỉ duy nhất có mỏ “1 tháng 5”, và mỏ Gia Nghĩa có trữ lượng được phê duyệt. Hầu như toàn bộ tài nguyên bô - xít còn lại chưa được đánh giá đúng mức cần thiết, số liệu không thống nhất, điều tra địa chất chưa đạt yêu cầu.

Thứ tư, rủi ro về kỹ thuật. Công nghệ tuyển bô - xít thành alumina của VN dựa trên qui trình Bayer, bản chất của qui trình này là chuyển hoá ô xít nhôm ngậm nước trong quặng bô - xít bằng dung dịch kiềm nồng độ cao và ở nhiệt độ cao để thành aluminat natri. Thành phần khoáng vật của quặng nhôm trong trong quặng bô - xít có nhiều dạng khác nhau và có phản ứng rất khác nhau với dung dịch NaOH. Ngoài thành phần khoáng vật, các chất khác lẫn trong quặng bô - xít cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiềm hoá. Quặng bô - xít của VN, trong các báo cáo địa chất chưa được nghiên cứu kỹ về mặt khoáng vật, chưa có thử nghiệm công nghiệp các phản ứng cơ bản.

Thứ năm, rủi ro về công nghệ. Qui trình Bayer phổ biến khắp thế giới. Nhưng thiết bị kỹ thuật để thực hiện qui trình này (cũng giống như nhà máy điện nguyên tử) đối với VN cũng là con số 0. Chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Nhà máy alumina là nhà máy hóa chất, sử dụng NaOH nồng độ cao, ở nhiệt độ lớn.

Thứ sáu, rủi ro về môi trường sinh thái. Đối với các dự án đang triển khai, chúng ta mới chỉ có đánh giá tác động về môi trường cục bộ của dự án, chưa có nghiên cứu về vấn đề sinh thái toàn vùng. Ngoài ra, cơ quan thực hiện và thẩm tra các báo cáo đánh giá tác động môi trường của VN cũng có nhiều rủi ro do trình độ chuyên môn rất hạn chế, không có kinh nghiệm.

Quy hoạch có quá nhiều bất cập không được tính đến

Bất cập thứ nhất- sự không cân đối giữa các khâu đầu nguồn và cuối nguồn: các dự án tuyển luyện để bán quặng có công suất lên tới hơn 18 triệu tấn/năm. Nhưng các dự án chế tạo (điện phân) nhôm kim loại có công suất chỉ 0,2-0,4 triệu tấn/năm.

Bất cập thứ hai: Các dự án đều triển khai ở vùng rất nhậy cảm về môi trường và xã hội nhưng không có thử nghiệm trước.

Bất cập thứ ba: Các dự án tuyển luyện bô - xít cần rất nhiều nước, được triển khai ở vùng hiếm nước (Tây Nguyên còn đang thiếu nước cho các cây công nghiệp cau su, chè, cà phê, điều…)

Bất cập thứ tư: Mất cân đối về cung cấp điện trên địa bàn có hệ thống nguồn và lưới điện hiện còn đang kém phát triển. Các dự án luyện cán nhôm cần rất nhiều điện. Việt Nam còn đang thiếu điện, và sẽ không có nguồn thuỷ điện rẻ tiền để đảm bảo cho các dự án nhôm.

Bất cập thứ năm: Các dự án hạ tầng (đường sắt, cảng biển, điện) triển khai sau các dự án khai thác bô - xít và sản xuất alumina.

Nguyễn Thành Sơn

Nguy cơ hiện hữu trong các dự án bô - xít trên Tây Nguyên

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5145/index.aspx

25/10/2008 08:40 (GMT + 7) Phản biện về quy hoạch các dự án bô - xít - alumina tại Tây Nguyên, trong bài trước, TS. Nguyễn Thành Sơn nêu ra các rủi ro của ngành bauxite. Tuần Việt Nam xin giới thiệu tiếp phần phân tích cụ thể về các nguy cơ chính của việc triển khai dự án.

>> Bài 1: Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt

Cà phê đã trở thành một phần không thể thiếu của thảm thực vật Tây Nguyên
(ảnh: thinkquest)


Thứ nhất, đó là nguy cơ chiếm dụng diện tích đất lớn, nhưng mang lại hiệu quả thấp, tạo ít việc làm trên một địa bàn kinh tế kém phát triển và nhạy cảm về xã hội.

Thứ hai, dự án phải lưu giữ một khối lượng lớn bùn đỏ (bom bẩn) trên cao nguyên, gây ra nguy không chỉ về môi trường mà còn về an ninh.

Thứ ba, dự án làm tổn thất hết sức nghiêm trọng nguồn nước hiện đang còn thiếu để phát triển các cây công nghiệp quý hiếm và rất có hiệu quả (cà phê, cao su, chè, điều…)

Thứ tư, điều chắc chắn là môi trường và sinh thái sẽ bị thay đổi, trong khi hậu quả của sự thay đổi này chưa thể lường được.

Nguy cơ chiếm dụng đất là không thể tránh khỏi

Phần lớn, tới 95% bô - xít trên thế giới khai thác lộ thiên. Trong ngành mỏ, đây là phương thức khai thác đòi hỏi chiếm dụng nhiều đất, có tác hại huỷ diệt hệ thực vật và động vật (flora & fauna), làm xói mòn trôi lấp đất (soil erosion). Mức độ chiếm dụng đất của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên rất lớn. Diện tích rừng & thảm thực vật bị phá huỷ trong khâu khai thác bình quân 30 - 50ha/triệu tấn bô - xít, diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển bô - xít bình quân 150 ha/triệu tấn, và diện tích mặt bằng bị chiếm dụng để tuyển alumina 450 ha/triệu tấn.

Việc chiếm dụng đất lớn, nhưng lại mâu thuẫn với việc tạo ra chỗ làm việc cho cư dân. Ví dụ, dự án Tân Rai có diện tích chiếm đất tới 4.200ha, nhưng chỉ tạo ra chỗ làm việc cho tổng số 1.668 lao động. Như vậy, bình quân dự án bô - xít cần 2,5ha để tạo ra một việc làm.

Phần lớn các dự án trên thế giới (VN không là ngoại lệ) đều lẩn tránh việc xác định danh mục các ngành nghề của nhà máy alumina có thể phù hợp để sử dụng lao động tại chỗ. Các cơ sở sản xuất alumina về bản chất là các nhà máy hóa chất, đòi hỏi công nhân phải được đào tạo ở trình độ cao, với số lượng không cần nhiều, khả năng tạo ra chỗ làm việc là không đáng kể. Khâu khai thác bô - xít thì cần có mức độ cơ giới hóa cao, càng không thể tạo ra việc làm cho dân cư tại chỗ.

Các chủ đầu tư thường vận hành các dự án bô - xít hay alumina bằng lực lượng công nhân được thuê từ nơi khác đến, vì rẻ hơn nhiều so với đào tạo cư dân tại chỗ. Điều duy nhất, như các chuyên gia thường đánh giá, các dự án bô - xít và alumina có thể tạo ra cho cư dân tại chỗ là chất thải và bùn đỏ.

Bùn đỏ: là nguy cơ hiện hữu lớn nhất

Một hồ chứa bùn đỏ ở Ấn Độ từ khai thác bô - xít (ảnh: redmud.org)


Bùn đỏ (red mud) gồm các thành phần không thể hoà tan, trơ, không biến chất và tồn tại mãi mãi như Hematit (Fe2O3), Natri silico aluminate, Canxi titanat, Monohydrate nhôm (Al2O3.H2O), Trihydrate nhôm (Al2O3.3H2O)…

Bùn đỏ là chất thải không thể tránh được của khâu chế biến bô - xít. Trên thế giới, chưa có nước công nghiệp phát triển nào (kể cả Mỹ) có thể xử lý được vấn đề bùn đỏ một cách hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của xã hội (chỉ đáp ứng được khả năng của nhà đầu tư). Australia là nước có lợi thế về địa hình (bằng phằng, có lớp đá gốc), khí hậu (rất ít mưa) và dân cư (rất thưa) thuận lợi cho việc chế biến bô - xít tại chỗ và chôn cất bùn đỏ.

Ở Việt Nam, nếu chế biến bô - xít thành alumina trên Tây Nguyên sẽ bắt buộc phải tạo ra các hồ chứa bùn đỏ thường xuyên đe dọa tình hình an ninh trên địa bàn (các hồ “red mud” có thể bị biến thành bom bẩn “mud bomb”). Lượng bom bẩn tạo ra trên Tây Nguyên sẽ lớn gấp 3 lần lượng alumina thu được từ Tây Nguyên để xuất khẩu. Ngoài ra, còn phải thường xuyên tồn chứa một lượng lớn hoá chất độc hại (để chế biến bô - xít) trong các kho trên Tây Nguyên.

Chỉ riêng dự án của công ty cổ phần Nhân Cơ, theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, phần đuôi quặng nước thải và bùn thải có khối lượng tới hơn 11 triệu m3/năm. Dung tích hồ thải bùn đỏ 15 năm: 8.754.780m3. Tổng lượng bùn thải vào hồ: 1733 tấn/ngày. Lượng nước thải phải bơm đi từ hồ: 5.959.212m3/năm. Với qui mô như vậy, thiệt hại do vỡ đập không thể kiểm soát được, nguy cơ vỡ đập không thể lường trước được.

Tương tự, dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường: 826.944m3/năm, lượng bùn oxalat thải ra môi trường 28.800m3/năm, lượng nước thải ra môi trường (sau tuần hoàn) 4,625 triệu m3/năm. Khối lượng quặng bô - xít khai thác của dự án này lên tới 2,32 triệu m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 triệu m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có 20,25 triệu m3, số còn lại không biết chứa ở đâu?

Ai sẽ là người chịu trách nhiệm về số bùn này: chủ đầu tư hay người dân địa phương?

Nguy cơ làm mất nguồn nước không có gì thay thế

Cả hai khâu tuyển bô - xít và tuyển alumina trên Tây Nguyên đều đòi hỏi rất nhiều nước. Dự án Nhân Cơ có tổng mức tiêu dùng nước 14,832 triệu m3/năm, trong đó để tuyển quặng cần 12 triệu m3/năm, để sản xuất alumina cần 2,4 triệu m3/năm, trong khi cấp cho sinh hoạt chỉ là 0,432 triệu m3/năm.

Dự án Tân Rai có dự kiến xây đập chắn nước để đáp ứng nhu cầu của dự án khoảng 18 triệu m3/năm. Nước thải ra sau tuần hoàn là 4,625 triệu m3/năm. Như vậy, nguồn nước cho cà phê, cao su và các nhu cầu khác bị mất đi 13,375 triệu m3/năm.

Nguy cơ thay đổi môi trường và sinh thái là đương nhiên

Vấn đề môi trường chủ yếu liên quan đến các chất thải. Các chất thải không thể tránh được trong các dự án bô - xít gồm: (i) trong khai thác bô - xít, khối lượng chất thải rắn rất lớn, bình quân lượng đất đá phủ phải bốc lên và đổ thải 1m3/tấn bô - xít; (ii) trong khâu tuyển quặng bô - xít, lượng chất thải bình quân 1tấn/tấn quặng nguyên khai; (iii) trong khâu tuyển alumina lượng chất thải (gồm bùn đỏ, bùn oxalate, và nước thải) bình quân trên 2m3/tấn; và cuối cùng, (iv) trong khâu luyện nhôm, lượng chất thải độc hại (gồm chất thải cathode, phát thải fluoride) bình quân 1kg/tấn.

Chúng ta hoàn toàn có thể xác định được cái giá phải trả (định lượng) về ô nhiễm môi trường của các dự án bô - xít trên Tây Nguyên trong tất cả các khâu.

Về vấn đề sinh thái, ngoài các nguy cơ phá hủy môi trường tại chỗ, các dự án bô - xít alumina còn có những ảnh hưởng tiêu cực không thể tránh được đến hệ sinh thái trên qui mô rộng lớn.

Trong khâu khai thác bô - xít, nguy cơ hiện hữu là thảm thực vật và động vật của Tây nguyên (Flora & Fauna) sẽ bị thay đổi. Trong khâu tuyển alumina nguy cơ hiện hữu là tiêu dùng nhiều nước, phải xây đập chắn, sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của các dòng chảy. Các biến đổi dị thường về thời tiết và khí hậu khu vực miền trung có nguy cơ sẽ xẩy ra gay gắt hơn (thiệt hại do các biến đổi dị thường về thời tiết hiện nay đã tới 4000 - 5000 tỷ đồng/năm).

  • TS. Nguyễn Thành Sơn

Đại dự án bô - xít Tây Nguyên: người trong cuộc đề xuất gì?

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5152/index.aspx

26/10/2008 14:39 (GMT + 7) Hiện vẫn chưa có một đánh giá tác động môi trường chiến lược của đại dự án bô - xít ở Tây Nguyên, mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có yêu cầu cụ thể. Còn câu hỏi tỉnh Đăk Nông đặt ra là: liệu dự án bô - xít có phải là cửa thoát nghèo cho tỉnh, hay còn có thể làm gì khác? Cùng với việc phản biện qui hoạch bô - xít Tây Nguyên, TS. Nguyễn Thành Sơn đã đề cập đến việc phải có chiến lược phát triển bền vững cho Tây Nguyên.

>> Bài 1: Đại kế hoạch bô - xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyết liệt
>> Bài 2: Nguy cơ hiện hữu trong các dự án bô - xít trên Tây Nguyên

Môi trường sinh thái Tây Nguyên (ảnh: dvpub-chanelvn)


Phát triển bền vững Tây Nguyên như thế nào?

Từ những năm 80, khi bàn về phát triển thủy điện, trên tạp chí “Năng lượng” chúng tôi đã đề xuất thành lập một Ủy ban quốc gia về phát triển kinh tế Tây Nguyên. Cũng giống như thủy điện, việc phát triển bô - xít rất cần có một ủy ban của Chính phủ chuyên về Tây Nguyên để xử lý những vấn đề vĩ mô: môi trường, sinh thái, dân cư, cộng đồng, an ninh xã hội… Chúng ta không thể trông cậy vào các đối tác nước ngoài như Vedan hay Miwon.

Với số vốn có hạn, chúng ta nên ưu tiên đầu tư cho phát triển cây công nghiệp có giá trị lớn trong kim ngạch xuất khẩu, có hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường cao hơn nhiều so với quặng alumina.

Thủ tướng đã có các quyết định số 168/2001/QÐ-TTg và 304/2005/QÐ-TTg về phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên, về việc thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên. Đây là những quyết định cần thiết và sáng suốt, nhằm tôn tạo và phát triển các môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, xã hội và nhân văn của Tây Nguyên.

Với 127 tỷ đồng tiền phạt Vedan làm ô nhiễm môi trường (mà chưa chắc đã thu được), chúng ta có thể cải tạo được sông Thị Vải để nàng Kiều dám trẫm mình trong làn nước “xanh như ngọc” của cụ Nguyễn Du.

Nhưng với 127 tỷ đô la Mỹ (không phải tỷ đồng), chúng ta không thể đưa hàng trăm triệu tấn bùn đỏ trên cao nguyên đi chôn cất an toàn vĩnh viễn ở vùng có đá gốc, bằng phẳng, ít mưa như của thế giới, để Tây Nguyên của anh hùng Núp sẽ có hàng triệu khách du lịch đến cưỡi voi bản Đôn, và để các đối tác nước ngoài đến mua cao su, cà phê, chè, hoa, rau, quả của Tây Nguyên được ngủ trong các khách sạn “5 sao 4 không” của Đà Lạt (không điều hòa, không ma túy, không mại dâm, và không cờ bạc).

Cần rút ra các bài học chưa thuộc từ các dự án có yếu tố nước ngoài

Hồ thải bùn đỏ của mỏ khai thác bô - xít ở Ấn Độ
(ảnh: red mud project)

Nếu Tây Nguyên - mái nhà của miền Trung - sẽ bốc cháy vì bùn đỏ (giống như sông Thị Vải đang bốc mùi hôi thối ở Đồng Nai), liệu chúng ta có cách gì để “chữa cháy”.

Hay cũng giống như hôm nay, UBND tỉnh Đồng Nai không thể đóng cửa được Vedan của một chủ tư nhân Đài Loan ngay trên đất của mình? Mùi không chỉ bốc lên từ sông Thị Vải.

Vấn đề “bùn đỏ” của bô - xít hiện đang “cháy” thực sự (mặc dù chỉ trên giấy) trong các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án trên Tây Nguyên.

Nhưng, hy vọng khái niệm Tây Nguyên gắn liền với “đất đỏ bazan” không bị đổi thành “bùn đỏ bô - xít” để các cháu học sinh không phải học lại bài địa lý đã thuộc.

Phát triển bền vững Tây Nguyên là bài toán không khó giải. Chỉ có điều chúng ta có muốn giải hay không? Muốn giải thì phải học thuộc bài, và ai là người giải? Liệu các đối tác nước ngoài (những người rất thuộc bài) đang khát alumina của VN có thật lòng giúp chúng ta giải bài toán “bùn đỏ” này một cách khách quan, trung thực, đầy trách nhiệm như những chuyên gia của COMECON ngày xưa hay không?

Ngày nay, chúng ta may mắn hơn Nguyễn Du, đã hiểu rõ về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hãy nghiêm chỉnh thực hiện các quyết định nêu trên của Thủ tướng, để cùng Chính phủ giữ lại mầu xanh cho Tây Nguyên hùng vĩ, để mộ các anh hùng liệt sỹ của chúng ta còn được lưu lại trên Tây Nguyên dưới bóng mát của cây cao su và cà phê, chứ không phải nằm bên cạnh những bãi bùn đỏ rộng hàng trăm hécta do chính chúng ta (là con, em, và đồng đội của các anh hùng liệt sỹ) tạo ra.

Khuyến nghị đối với dự án bô - xít thử nghiệm

Khai thác bô - xít ở Ấn Độ (ảnh: Gosaliagroup)


Để khắc phục những vấn đề tồn tại và để giải đáp những câu hỏi còn bỏ ngỏ về phát triển bền vững Tây Nguyên, giải pháp duy nhất với dự án bô - xít là triển khai thử nghiệm.

Quy mô thử nghiệm chỉ nên giới hạn dưới 1,5 triệu tấn bô - xít/năm. Địa điểm có thể trên cơ sở khu mỏ bô - xít Gia Nghĩa hoặc tốt nhất là khu mỏ “1 tháng 5” vì khu mỏ này có trữ lượng được phê duyệt tương đối lớn, và có thể đại diện cho bô - xít toàn vùng Tây Nguyên.

Về phương thức thử nghiệm, cần có sự giám sát toàn diện của cộng đồng xã hội thông qua chính quyền địa phương trong việc đưa ra các quyết định và thực hiện cam kết.

Mục tiêu thử nghiệm cần làm rõ những vấn đề khách quan và chủ quan còn bỏ ngỏ của các dự án, những câu hỏi lớn và quan trọng chưa có giải đáp của chủ đầu tư liên quan đến 10 nhóm vấn đề như sau:

1. Vấn đề xã hội: phản ứng của xã hội và cư dân địa phương về các dự án bô - xít như thế nào? Phương án thu hồi đất và đền bù cho dân? Phương án hoàn thổ của chủ đầu tư? Khả năng tạo việc làm cho cư dân tại chỗ? Vấn nạn “bô - xít tặc” trên Tây Nguyên (thuận lợi hơn nhiều so với “than thổ phỉ” ở Quảng Ninh) liệu có xẩy ra? Ngăn chặn thế nào?

2. Vấn đề đa dạng sinh học: thảm thực vật và nguồn động vật sẽ được quản lý như thế nào để tuân thủ Luật đa dạng sinh học đang được Quốc hội thông qua? Khả năng phục hồi thảm thực vật? Cây gì sẽ trồng được sau khi khai thác bô - xít?

Do không đủ điện để chế biến nên Ấn Độ phải
xuất quặng thô (ảnh: gosaliagroup)

3. Vấn đề công nghệ: chất lượng bô - xít của VN thích ứng như thế nào để áp dụng qui trình Bayer: độ ổn định của chất lượng, thành phần khoáng chất trong bô - xít của VN tham gia các phản ứng với NaOH có nồng độ khác nhau và ở nhiệt độ khác nhau như thế nào? Công nghệ Bayer phù hợp đến mức độ nào? Thiết bị kỹ thuật của nước ngoài được chế tạo theo tiêu chuẩn nào? Có đạt được các chỉ tiêu và thông số kỹ thuật đề ra? Tiêu hao hoá chất và nguồn cung cấp hoá chất?

4. Vấn đề môi trường: thành phần bùn đỏ? Liệu có chất phóng xạ trong bùn đỏ? Khối lượng và tỷ lệ bùn đỏ? Mức độ độc hại của bùn đỏ? Phương thức chôn cất bùn đỏ an toàn, hiệu quả? Ảnh hưởng của bãi thải bùn đỏ đến môi trường nước ngầm, môi trường không khí? Các bãi chứa bùn đỏ trong điều kiện mưa lũ ở Tây Nguyên cần được thiết kế như thế nào cho phù hợp?

5. Vấn đề sinh thái: các hiện tượng dị thường về khí hậu vốn đang xẩy ra đối với Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung liệu có gia tăng hay giảm bớt do khai thác bô - xít? Khả năng xảy ra các thảm hoạ môi trường ảnh hưởng tới vấn đề sinh thái của toàn vùng? Ảnh hưởng của việc khai thác bô - xít đối với các tỉnh Nam Trung bộ và Campuchia? Các yếu tố thiên nhiên ở Tây Nguyên sẽ ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề bùn đỏ?

6. Vấn đề nước ngọt: tiêu hao nước như thế nào? Ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn nước? Bổ sung nguồn nước tự nhiên? Phục hồi nguồn nước tự nhiên?

Hồ chứa bùn đỏ ở Ấn Độ tràn ra sông suối, nguồn nước sinh hoạt của dân làng
(ảnh: picasaweb)


7. Vấn đề kinh tế: vốn đầu tư thực và hiệu quả thực của dự án? Huy động vốn? Khả năng thanh toán nợ nước ngoài? Khả năng cạnh tranh của quặng alumina VN trên thị trường thế giới? Mô hình tổ chức sản xuất “không giống ai” của chủ đầu tư? Mô hình quản lý của chúng ta hiện nay có phù hợp để phát triển một ngành công nghiệp hoàn toàn mới?

8. Vấn đề chính sách: việc chế biến và tuyển quặng bô - xít thành quặng alumina với những chi phí cao, phải trả giá đắt về môi trường sinh thái, có nhiều rủi ro chỉ để xuất khẩu đáp ứng nhu cầu của các đại gia nước ngoài liệu có phù hợp? Liệu có nên cấm không xuất khẩu quặng alumina? Khả năng xây dựng nhà máy luyện nhôm như thế nào? Khả năng đề nghị nhà nước thay đổi chủ trương, chính sách cho phép xuất khẩu quặng bô - xít không qua chế biến như thế nào?

9. Vấn đề về con người: nguồn nhân lực chắp vá của chủ đầu tư có đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo vận hành an toàn và hiệu quả các dự án trên thực tế? Cần đào tạo như thế nào? Đào tạo lĩnh vực gì, nghề gì, ở đâu?

10. Vấn đề liên quan đến hành vi ứng xử: dự án thử nghiệm sẽ giúp người dân địa phương hiểu rõ thực sự về quan điểm và thái độ của chủ đầu tư, cũng như của các đối tác nước ngoài đến phát triển kinh tế trên địa bàn như thế nào? Ngược lại, dự án thử nghiệm sẽ giúp chính quyền địa phương biết cần phải làm gì để phối hợp phát triển các ngành kinh tế khác, các dịch vụ hậu cần, cũng như các biện pháp phối hợp và hỗ trợ chủ đầu tư.

Kết luận 3 điểm: nhu cầu - hiệu quả - hiểm họa

ảnh 4: Đua voi Tây Nguyên (ảnh: vov)


Việc khai thác bô - xít và chế biến quặng alumina chỉ đáp ứng được nhu cầu cần nhập khẩu của các đại gia nhôm trên thế giới. Nền kinh tế chưa có nhu cầu về quặng bô - xít và alumina vì Việt Nam chưa có thừa điện để luyện nhôm.

Khai thác bô - xít trên Tây Nguyên có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh thái toàn vùng rộng lớn. Việc sản xuất alumina trên Tây Nguyên chắc chắn sẽ tạo ra các hồ bùn đỏ có nguy cơ bị mưa lũ cuốn trôi tràn ra toàn vùng rộng, gây ra thảm hoạ về môi trường.

Các dự án bô - xít & alumina kém hiệu quả hơn nhiều lần so với dự án cao su và cà phê (với cùng một số tiền vốn bỏ ra), và không giải quyết được vấn đề việc làm cho dân cư địa phương, làm căng thẳng thêm vấn đề hạ tầng cơ sở vốn đã kém phát triển (điện, nước và giao thông vận tải).

Kiến nghị 4 điểm

Thứ nhất, cần sớm đình chỉ các dự án khai thác và chế biến bô - xít qui mô lớn ở trên Tây Nguyên. Cần rà soát lại việc tuân thủ pháp luật của các dự án này. Ngoài việc phải tuân theo luật Đầu tư, các dự án bô - xít cần tuân theo luật Khoáng sản, các dự án alumina cần tuân theo các văn bản pháp qui về hoá chất độc hại. Về nhiều khía cạnh, các dự án bô - xít và alumina trên Tây Nguyên chưa tuân thủ đúng theo luật và các qui định hiện hành.

Thứ hai, chỉ nên triển khai 1 dự án thử nghiệm và trình diễn cụ thể trên thực tế (thay cho các lời hứa hay cam kết trên giấy của các chủ đầu tư) để tìm ra các câu trả lời cho 10 nhóm vấn đề còn bỏ ngỏ nêu trên, để kịp thời rút kinh nghiệm tránh các nguy cơ có thể xẩy ra, và để không lặp lại các sự việc nghiêm trọng như Vedan.

Thứ ba, cần quan tâm và ưu tiên nước ngọt và có các chính sách thoả đáng khác cho việc phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè, điều…) đúng với tiềm năng của Tây Nguyên, để gia tăng kim ngạch xuất khẩu, bù đắp cho danh mục dầu thô sắp cạn của VN.

Thứ tư, cần thành lập “Uỷ ban quốc gia về phát triển kinh tế Tây Nguyên” trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội để chỉ đạo toàn diện việc phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên.

Thay cho lời kết, chúng tôi muốn nhắc lại câu nói của một triết gia: “Phát triển chẳng giống ai là cách tự huỷ hoại mình nhanh nhất”.

  • TS. Nguyễn Thành Sơn

Sunday, February 22, 2009

Bài sưu tầm trên mạng

CHÍNH TRỊ

Đang đọc một cuốn sách rất hay: “TIỂU LUẬN viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932” của Phạm Quỳnh. Tác giả là một nhà văn hóa lớn đầu thế kỷ 20, đã từng viết nhiều bài báo và tác phẩm văn học có giá trị.

Trong các tiểu luận này, có một bài báo tựa đề “Chính trị” được viết vào năm 1929 nhưng vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. Xin được trích dẫn vài đoạn:

“Vậy chính trị theo định nghĩa ở từ điển là gì? Đó là tất cả những gì liên quan đến công việc cai quản Nhà nước, đến công việc quản lý có hiệu quả mọi công việc công cộng, đến việc bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc.
Vậy thì, vì lẽ gì một công dân xứng với danh hiệu này, cho dù danh hiệu đó đã bị hạ thấp ít nhiều, - và đó chính là trường hợp của kẻ đang muốn trở thành công dân ở xứ Đông Dương hay ở nước Nam – lại có thể không quan tâm đến công việc của đất nước mình, nghĩa là quan tâm đến chính trị, cái chính trị như một nghệ thuật quản lý mọi công việc của đất nước sao cho tốt đẹp?

Vì lẽ gì một người nước Nam biết lo lắng cho sự phồn thịnh và tương lai của tổ quốc mình, lại có thể không tìm hiểu xem tố quốc mình được cai quản như thế nào, lại không tự hỏi liệu các thể thức cai quản hành chính hay cai quản hiện nay có phù hợp với đất nước mình không, và nếu cần, thì phải tiến hành những cải cách, những cải tiến, những sửa đổi hoặc những cải tạo hữu ích hoặc cần thiết nào? Và nếu cái người nước Nam ấy phát hiện thấy có những lạm dụng, những sai sót hoặc những vi phạm, liệu cái người nước Nam ấy có thể tự buộc tội mình không tố cáo chúng ra?

Tất cả những điều đó chính là chính trị, và đó không chỉ là quyền được làm mà còn là nghĩa vụ phải làm của người công dân.

Và nếu, trong khi tranh luận về những vấn đề lợi ích chung này, công dân nước Nam kia chỉ duy nhất bị thúc đẩy bởi ước vọng được có ích cho đất nước và đồng bào mình, nếu như công dân ấy không bao giờ mất bình tĩnh, mất khả năng làm chủ hoàn toàn bản thân, mất cái trung lập về tinh thần hay tính “trung dung” thành thói quen trải qua nhiều thế kỷ văn hóa Khổng giáo, nếu như công dân ấy không đem vào đó bất kỳ định kiến nào, bất kỳ sự nóng nảy nào, và hơn thế nữa, nếu công dân ấy luôn luôn giữ mình trong phạm vi hợp pháp và tôn trọng trật tự, thì có cái chính phủ nào, dù có yếu bóng vía đến mấy, lại có thể coi hành vi và thái độ như thế của công dân kia là một tội ác?

Ngược lại, một chính phủ quan tâm đến việc hoàn tất tốt nhiệm vụ của mình sẽ phải biết ơn những con người có thiện chí này, những người làm hết sức mình để soi tỏ cái niềm tin đó của chính phủ.

Và trong hoàn cảnh này, các bạn lại không muốn người nước Nam làm chính trị hay sao? Như thế chẳng khác nào các bạn muốn họ thờ ơ với số phận của đất nước họ, đến tương lai con cháu họ, đến hạnh phúc gia đình họ, đến cuộc sống của chính họ!

Chính các xã hội mị dân Phương Tây đã truyền bá ra thế giới dạng chính trị này, một dạng chính trị khêu gợi và khai thác các đam mê của dân chúng, chia rẽ dân tộc thành các bè phái đối lập, khích họ chống lại nhau, khơi dậy các bản năng thấp hèn nhất của dân chúng để thỏa mãn các tham vọng của một thiểu số sẵn sàng làm tất cả. Dưới cái cớ kiếm tìm hạnh phúc cho nhân dân, người ta ru ngủ và lừa dối nhân dân bằng các ảo tưởng nguy hiểm hoặc giả trá. Với chiêu bài chính trị này, những kẻ tầm thường nhờ vào những con người tốt đẹp hơn họ để giành lấy chính thắng, những người cuồng nhiệt nhất thì vùng vẫy và đứng ra trục lợi là láu cá nhất hạng hoặc là những kẻ ít biết hổ thẹn hơn cả thì đứng ra trục lợi.

Bọn họ duy trì trong xã hội một tình trạng siêu kích động triền miên thuận lợi cho sự bùng nổ mọi loại hằn thù, oán hận, mọi loại tình cảm xấu vốn đang ngủ yên trong đám đông. Đó chính là chính trị “làm chiêu bài cho đủ điều ngu ngốc, cho mọi thứ tham vọng, và cho mọi chuyện lười nhác” như Alphonse Daudet đã nói. Chính vì thế nó trở thành “chất hòa tan cực mạnh ý thức con người”, trở thành yếu tố làm bại hoại tình cảm và phong tục. Cái thứ chính trị đó luôn luôn đi kèm với những cách thức thực thi ít nhiều được đem dùng phổ biến, bao gồm từ những lời dối trá ngu xuẩn nhất đến những dọa dẫm trơ trẽn nhất, từ các mưu mô xảo quyệt nhất đến hành động mua chuộc công nhiên nhất. Lợi ích chung, lợi ích của nhân dân, lòng ái quốc, sự hòa hợp xã hội, đó là những lời lẽ được dùng để biện hộ cho sự buông thả mọi dục vọng và mọi thói ích kỷ.

Dạng chính trị này, vốn dĩ mọi người đều có thể tiếp cận được, tự nhiên làm nảy nở mọi sự tầm thường. “Thô bạo, bất công, gây hận thù, và to mồm”, nó làm những con người có giá trị tránh xa, nhưng lại phô ra những nét hấp dẫn đặc biệt cho đám người bất tài, mưu mẹo, tham vọng, ba hoa. Sở thích này bắt đầu lan truyền trong một số giới người nước Nam. Nhưng nếu đồng bào chúng ta được tiếp xúc sâu rộng với loại chính trị này, - và dường như đó là quy luật để “tiến bộ” lên – thì chúng tôi mong muốn sự tiếp xúc để tiến bộ đó càng xảy ra muộn càng tốt.

Kết luận phải rút ra từ sự so sánh như thế giữa hai dạng chính trị là rành rành rồi. Người nước Nam có thể và cần phải làm chính trị, nhưng đó là chính trị theo nghĩa thứ nhất đã đem ra phân tích: cái chính trị của lợi ích chung đòi hỏi một sự toàn tâm toàn ý cho việc công. Ngược lại, người nước Nam phải tránh cái chính trị có xu hướng mị dân, nó ve vãn nhân dân để lừa dối nhân dân, và bất chấp thực tế, khiến nhân dân lao vào các ảo tưởng nguy hiểm và không thể thực hiện được.” (trang 312 – 317)

Bài báo ra đời vào năm 1929, thời điểm mà chính quyền phong kiến và chế độ bảo hộ của thực dân Pháp bước vào giai đoạn suy vong. Đúng 80 năm trôi qua nhưng tình trạng bài báo mô tả chẳng thay đổi là mấy ở nước ta, có phần còn tệ hơn. Lúc đó còn có những tờ báo chính thức đăng tải công khai những bài báo như thế này. Tốt hơn nữa là tác giả của chúng chẳng bị làm sao. Không những thế, 2 năm sau ông còn được triều đình Huế mời vào làm quan, giữ đến chức thượng thư (tức bộ trưởng bây giờ). Chính quyền thực dân cũng chẳng bắt tội ông chút nào vì đã dám mỉa mai đến “mẫu quốc”. Nếu Phạm Quỳnh sống vào thời nay thì chắn chắn các bài báo rất giá trị của ông sẽ bị xem là “lề trái”. Nhưng “may” cho ông là đã không “phải” sống đến bây giờ. Ngay sau cách mạng Tháng 8 ông đã bị bắt và giết chết. Một thời gian dài mấy chục năm sau đó chính quyền xem ông là phần tử xấu.

Nhờ tiến bộ công nghệ của nhân loại, người dân Việt vừa tìm thấy một không gian để bày tỏ quan điểm và mối quan tâm chính trị cho đất nước thì chính quyền nhanh nhạy cho ra thông tư quản lý blog. Cuộc sống khó khăn của dân chúng đang có quá nhiều thứ cần chính quyền nhanh nhạy nhưng các quan chức đều vô cảm với những điều ấy. Hệ thống công quyền này chỉ quan tâm đến những cái họ gọi là nhạy cảm. Ý nghĩa trong sáng của tính từ này khi nói về công chúng là để diễn tà mức độ quan tâm rất lớn của nhiều người, nhưng nó đã bị lạm dụng và chính trị hóa để ngăn chặn sự quan tâm chính đáng của người dân vào chính trị.

Xét cho cùng đó là sự hoảng sợ. Yếu thế nào thì người ta mới sợ đến như vậy.

Trần Đông Chấn
Mùa đông tháng 1, 2009


CHÀO 2009

2008 đã khép lại. Mậu Tý cũng sắp kết thúc. Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường, chúng ta chưa bao giờ bước vào năm mới với một không khí ảm đạm như 2009 này. Cách đây đúng 11 năm, 1998 cũng khởi đầu trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Đông Á nặng nề nhưng trong nước vẫn giữ được một tinh thần lạc quan để vượt qua khó khăn. Còn bây giờ sự bi quan bao trùm mọi sinh hoạt của xã hội. Nhưng đa phần người dân đều chưa biết rằng một cơn bão lớn đang chuẩn bị ập tới. Sự tuyên truyền trấn an của chính phủ làm cho chúng ta nghĩ đây chỉ là những khó khăn trước mắt và chủ yếu do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Do vậy rất ít người có được một kế hoạch tránh bão an toàn.

Bão bao giờ cũng khốc liệt nhất với những ai bị bất ngờ với nó. Mọi người cần tìm nơi trú ẩn bảo toàn lực lượng, không phải là lúc ra khơi đánh bắt. Chỉ những con thuyền nào sớm nhận biết từ mấy năm trước là sẽ có bão thì mới vạch được những hải trình phù hợp để tiếp tục đi tới mà vẫn tránh được bão. Nhưng những con thuyền nào được cầm lái bởi những kẻ liều lĩnh, ăn may và dựa dẫm, tưởng mình là những thuyền trưởng tài ba thì sẽ bị cơn bão này nhấn chìm, cuốn phăng. Kỷ Sửu 2009 sẽ là năm đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tồi tệ này. Nó đã khởi động từ đầu năm 2008 và sẽ chỉ kết thúc vào cuối năm 2010. Người ta sẽ có dịp để thấy hậu quả của việc làm trái các qui luật tự nhiên tai hại đến thế nào, không chỉ là qui luật kinh tế mà cả qui luật nhân quả.

Và có lẽ cũng không mấy ai, kể cả chính quyền ngờ rằng cơn bão này có thể lớn thành sóng thần, và nếu vậy, sẽ gây nên một cơn địa chấn về kinh tế, xã hội, chính trị lớn nhất trong vòng 33 năm qua. Chính vì thế mà chính phủ đang liều lĩnh và cầu may trong việc hoạch định và kéo người dân vào thực thi những chính sách vượt khó như hiện nay. Khả năng thành công của chúng rất thấp nhưng hậu quả của sự thất bại có thể dẫn đến sự giẫm đạp hỗn loạn lên nhau nhằm thoát thân khi xảy ra địa chấn. Việt Nam ta đang ở trong giai đoạn nhận lấy hậu quả của những việc trái qui luật không thể tránh khỏi. Một giải pháp đúng đắn là phải sửa sai ngay từ gốc để giảm bớt số lượng những “quả đắng” và sinh dần ra những “trái ngọt”. Những gì chính phủ đang làm là bọc đường, nhúng mật cho những quả đắng và làm cho chúng tiếp tục sinh sôi nảy nở.

Mật ngọt lắm ruồi, đến khi hết đường hết mật thì sẽ trơ ra những quả đắng. Khi ấy là lúc chính quyền sẽ mất khả năng kiểm soát quyền lực tập trung vì không còn đường và mật để ban phát. Vì phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực nên chính quyền nuôi hy vọng kinh tế thế giới sẽ sớm phục hồi để có thêm đường thêm mật. Nhưng điều ấy sẽ không thể sớm hơn 2010. Bước vào 2010 niềm tin của người dân Việt Nam sẽ không còn gì có thể cứu vãn do rất nhiều người ngậm quả đắng vì tưởng là trái ngọt. Một môi trường như vậy ắt sẽ dẫn đến những biến cố chính trị to lớn.

Những thời điểm như thế chính là thời cơ cho những thay đổi căn bản mang tính lịch sử. Các vấn đề thâm căn của Việt Nam mà biểu hiện cuối cùng của nó là cuộc khủng khoảng hiện nay chỉ có thể giải quyết tận gốc bằng cách thay đổi toàn diện về chính trị - kinh tế - xã hội. Chữa trị những triệu chứng bên ngoài như lâu nay rất tốn kém mà không hiệu quả, qui luật tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi tất yếu hợp lý. Nhưng những thời điểm như vậy cũng là cơ hội cho những kẻ cơ hội tiếp tay cho ngoại bang chà đạp quyền lợi dân tộc.

Vận nước sẽ thay đổi tốt hay không phụ thuộc vào việc hình thành một lực lượng chính trị mới mang tính dân tộc và dân chủ, thực tâm đặt quyền lợi của đất nước và đa số dân chúng lên trên hết. Những ai có lòng vì vận mệnh đất nước phải kiên nhẫn chờ đợi thời cơ, nhưng cũng hãy giữ sự sốt ruột để duy trì nhiệt huyết.

Xin chúc mọi người dân có đủ sức khỏe và sự tỉnh táo để vượt qua giai đoạn khó khăn đỉnh điểm sắp tới. Và hãy giữ niềm tin, đặt nó đúng chỗ để chào đón một vận hội mới của Việt Nam.

Chào năm mới 2009.

Trần Đông Chấn

Mùa đông, ngày đầu tiên 2009

Saturday, February 14, 2009

KỶ NIỆM NGÀY 17/02/1979

(KỶ NIỆM 30 NĂM (17/2/1979 - 17/2/2009) CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG

QUÂN BÀNH TRƯỚNG BÁ QUYỀN BẮC KINH)

Nhận rõ bộ mặt bẩn thỉu, gian ác, thâm độc... của ông "bạn lớn, láng giềng", là thây ma của chế độ độc tài, toàn trị, siêu lừa... đó chính là tập đoàn bành trướng, bá quyền, sô vanh nước lớn Bắc Kinh. Năm 1975, kết thúc chiến tranh, Sư đoàn 3 bộ binh chúng tôi chưa được hưởng một ngày hoà bình. Tháng 7 năm 1976, từ Nha trang, tỉnh Khánh Hoà, toàn Sư đoàn nhận lệnh chuyển quân ra Bắc có nhiệm vụ chống kẻ thù K (kẻ thù K là tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh). Sau một năm ổn định biên chế, toàn đơn vị tập trung huấn luyện, rèn quân. Tháng 7-1978, từ vị trí đóng quân chúng tôi được lệnh chuyển lên xây dựng trận địa trên toàn tuyến biên giới tỉnh Lạng Sơn. Đến vị trí đóng quân mới, nhiệm vụ chính của chúng tôi là: đào hầm, đào hào, gần 8 tháng vừa tập trung xây dựng trận địa, vừa củng cố doanh trại, ổn định nơi ăn ở, vừa tổ chức huấn luyện thuần thục với các phương án theo địa hình được phân công và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao. Những tháng, năm trên biên giới Lạng Sơn, cuộc sống đầy gian nan, vất vả, đói rét,.... Song, tinh thần bộ đội rất hăng hái, căm thù tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh. Vì nó, mà chúng tôi chưa được hưởng một ngày hoà bình.

Mới ngày nào, nay đã tròn 30 năm (17/2/1979 - 17/2/2009) cuộc chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc do tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh gây hấn, khởi xướng. 5 giờ ngày 17-2-1979, đơn vị chưa báo thức, tôi nhận được điện từ Trung đoàn thông báo: "Địch đánh lớn ở Cao Bằng". Điều khó khăn của chúng tôi lúc này là: Trước đó, cán bộ cấp trưởng quân sự từ đại đội trở lên về hết Sư đoàn tập huấn, số ở lại trực chiến đều là cán bộ chính trị. Chưa kịp thông báo cho các đại đội tin "Địch đánh lớn ở Cao Bằng" thì, khoảng 15 phút sau, pháo của quân Bành trướng Bắc Kinh dồn dập nã vào vị trí đóng quân toàn tiểu đoàn. Dưới làn hoả lực (gồm các loại pháo) của kẻ thù, các chiến sỹ chuyền đạt bất chấp gian nguy, bộ đội đã chuyền lệnh tiểu đoàn xuống từng đại đội. Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, các đại đội khẩn trương cho bộ đội vận động chiếm lĩnh trận địa theo đúng phương án (trước đó đã được tập dượt nhiều lần rất nhuần nhuyễn) trước khi bộ binh địch xuất hiện. Các đại đội chiếm lĩnh trận địa chốt đúng ý định, đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cũng là lúc bộ binh địch xuất hiện.

Lên vị trí chỉ huy trên cao điểm 339, nhìn ra pháo đài Đồng Đăng, chúng tôi thấy: bộ binh địch đông như kiến cỏ, chúng la hét ầm ỹ, hô tả... tả..., xe tăng địch đang quần lộn trên pháo đài. Tôi ra lệnh hoả lực nổ súng diệt xe tăng, các lực lượng khác nổ súng tiêu diệt bộ binh địch. Phát hiện có sự chống trả quyết liệt của quân ta, quân bành trướng Bắc Kinh chùn lại, dè dặt không giám nghênh ngang như ban đầu. Cùng lúc, tôi nhận tin: "Ban chỉ huy tiền phương, Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12, đang bị địch bao vây chặt trên cao điểm 438". Tình huống mới xuất hiện, chúng tôi vừa chỉ huy bộ đội nổ súng đánh bộ binh, xe tăng địch, vừa tranh thủ triệu tập cán bộ hội ý bàn phương án giải vậy cho sở chỉ huy tiền phương Trung đoàn. Hội ý xong, thay mặt Ban chỉ huy tiểu đoàn, tôi giao cho đồng chí Nguyễn Văn Biết - Chính trị viên đại đội 61 chỉ huy chung đội hình trên cao điểm 339 tiếp tục cho bộ đội nổ súng tiêu diệt địch, giữ chốt an toàn. Đại đội 63 và tiểu đoàn bộ dưới sự chỉ huy trực tiếp của tôi và đồng chí Nguyễn Xuân Phong (tiểu đoàn phó) quay lại cao điểm 438 giải vậy cho sở chỉ huy tiền phương Trung đoàn. Đội hình hướng cao điểm 438 thẳng tiến, đến nửa chừng lực lượng bị lộ, địch chống trả không lên được cao điểm. Tôi ra lệnh vòng hướng đại đội 63, bí mật chiếm cao điểm 438. Đội hình hành quân vừa chạm cánh đồng Song Áng, phát hiện lực lượng địch quá đông. Tôi thông báo cho bộ đội: Bộ binh địch đông hơn ta gấp nhiều lần, chúng rất chủ quan đang hành quân tràn ra cánh đồng Song Áng, đồng thời động viên anh em bình tĩnh, hết sức bí mật, lợi dụng địa hình, địa vật chiếm lĩnh trận địa, ém quân an toàn, khi có lệnh đồng loạt nổ súng tiêu diệt bộ binh địch. Tôi tranh thủ trao đổi chớp nhoáng với đồng chí Phong (tiểu đoàn phó): Ta dùng khẩu Đại Liên do đồng chí Hoàng Mạnh Vạn - khẩu đội trưởng làm hiệu lệnh nổ súng và hai chúng tôi thống nhất nhận định: Khả năng lực lượng địch bí mật chiếm đường 1B, từ đường 1B kết hợp với xe tăng chúng tiến về Đồng Mỏ. Vừa tiến quân, chúng vừa thăm dò lực lượng ta. Trên đường tiến quân thuận lợi, không gặp sự kháng cự của ta, chúng sẽ chuyển thành lực lượng chính cùng xe tăng tiến thẳng về Hà Nội. Lực lượng này mà trót lọt, bọn chúng như đi vào chỗ không người. Bởi, phía sau ngày hôm đó (17-2-1979) không có bất kỳ lực lượng nào của ta chốt giữ. Và chắc chắn chúng sẽ thực hiện được lời thề: "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Mặt khác, nếu không nhanh chóng bẻ gấy trung đoàn vu hồi của quân bành trướng Bắc Kinh. Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12 (kể cả tiền phương và cơ bản) bị xoá sổ là cái chắc. Phán đoán được ý đồ của địch, chúng tôi bình tĩnh để địch tràn ra cánh đồng, khi nào đầu đội hình chạm hang Con Khoang là nổ súng. Khẩu Đại Liên của đồng chí Hoàng Mạnh Vạn là hiệu lệnh, cối 60 chặn đầu đội hình địch tại hang Con Khoang. Đúng ý định, Đại liên phát hoả, đội hình tiểu đoàn thiếu (c61; c62) vào trận. Bị đánh bất ngờ, địch toán loạn không biết đường chống đỡ chết như ngả rạ, những tên sống sót chạy dạt sang phía chân đồi bên kia. Trận phủ đầu thua đau song, chúng chưa từ bỏ âm mưu chiếm đường 1B. Ổn định đội hình, chúng lại tổ chức hành quân. Bí mật nhử chúng vào trận đúng ý định, chúng tôi tiếp tục nổ súng tiến công, xác định ngổn ngang trên cánh đồng Song Áng. Chiến sự xẩy ra trên cánh đồng Song Áng kéo dài 3 ngày. Đánh thắng ngay trận đầu, càng đánh, càng mạnh, càng khí thế, bộ đội rất hăng, từ chiến sỹ nuôi quân đến thủ trưởng tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c61; c62) thi đua nhau nổ súng tiêu diệt địch. Những trận đánh diễn ra trên cánh đồng Song Áng không có trong phương án định trước. Song, chính những trận đánh này đã góp phần phá tan ý đồ chiến lược của tập đoàn bành trướng, bá quyền Bắc Kinh "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c61; c62), hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, hiệu suất chiến đấu rất cao chỉ một số đồng chí bị thương, không ai hy sinh. Song, điều hết sức ý nghĩa là: Chúng tôi đã chặn đứng được Trung đoàn vu hồi của địch, bảo vệ an toàn cả sở chỉ huy tiền phương, sở chỉ huy cơ bản Trung đoàn 12. Nhờ trận đánh trên, Trung đoàn bộ - Trung đoàn 12 an toàn tuyệt đối, giữ vững vị trí chỉ huy từ phút đầu đến phút chót !. Bẻ gẫy mũi vu hôi của Tàu, chúng tôi lui quân bổ sung vũ khí đạn dược. Trung đoàn điều Đại đội 63 tăng cường cho Trung đoàn 2, Ban chỉ huy tiểu đoàn (tôi và đồng chí Phong) tiếp tục về vị trí chỉ huy chiến đấu trên cao điểm 339.

Những ngày trên cao điểm 339, chiến sự xẩy ra rất quyết liệt, có trận bộ đội đánh giáp lá cà, quyết sống mái với quân bành trướng Bắc Kinh giữ chốt. Trung đội trưởng thiếu uý - Nguyễn Văn Xá hết đạn nhẩy thẳng váo đội hình địch dùng súng B40 đập vào đầu quân thù và Xá đã anh dũng hy sinh. Những hành động quả cảm ấy làm cho quân địch bát vía, kinh hồn. Cao điểm 339 được giữ vững đến 2 giờ ngày 24-2-1979, khi nhận được lệnh của Sư đoàn phó - Đới Ngọc Cầu, tôi mới làm thủ tục bàn giao trận địa cho đơn vị bạn. Đội hình tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) lui quân về nhận nhiệm vụ mới. Ngày 24-2-1979 về Trung đoàn bộ, tìm vị trí đóng quân, ổn định nơi ăn, ở, bộ đội tạm nghỉ ngơi cho lại sức, săn sàng nhận nhiệm vụ mới.

Ngày 25-2-1979, đơn vị sắp xếp, ổn định biên chế, bỏ sung tiếp vũ khí, đạn dược, thực phẩm, thuốc men đúng cơ số. Cán bộ tiểu đoàn được triệu lên Ban chỉ huy Trung đoàn giao nhiệm vụ: "Tập trung 3 tiểu đoàn anh hùng, cất vó quân bành trướng Bắc Kinh tại ga Tam Lung, Lạng Sơn". Chiều 26-2-1979, tiểu đoàn lên Ôtô hành quân sang Kéo Càng, thị xã Lạng Sơn (Kéo càng cách thị xã Lạng Sơn khoảng 3 km).

Sáng 27-2-1979, chúng tôi nhận các vị trí chốt do Trung đoàn bộ binh 2 bàn giao. Tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) vào vị trí, chúng tôi động viên bộ đội tích cực củng cố công sư, trận địa phù hợp với sở trường, cách đánh của mình. Chiều ngày 27-2-1979, Ban chỉ huy Trung đoàn 2 triệu tập cán bộ tiểu đoàn 6 lên hội ý. Đến nơi, đồng chí Trung đoàn trưởng, Trung đoàn 2 thông báo: "cao điểm 800 mới bị địch đánh chiếm, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 giao cho tiểu đoàn 6 bộ binh đánh chiếm lại". Nhận nhiệm vụ, tôi sững sờ, rất khó hiểu song vẫn nghiêm chỉnh chấp hành. Đêm hôm đó trời tối đen như mực, mưa tầm tã, rét như cắt da, cắt thịt song, bộ đội vẫn hành quân chiếm lĩnh trận địa. Đúng 2 giờ ngày 28-2-1979, chúng tôi lại nhận lệnh quay về Kéo Càng lập trận địa chốt. Tới sáng, các đại đội bố trí trận địa chốt và làm công tác hợp đồng tác chiến xong. Cán bộ tiểu đoàn về vị trí chỉ huy, chưa hết nỗi mệt nhọc, căng thẳng, đầy gian nan, vất vả. trong đêm hành quân thì:

Đúng 8 giờ ngày 28-2-1979, các loại pháo của quân bành trướng Bắc Kinh dồn dập nã vào trận địa chốt của tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63). Chúng tôi nhận định: Chắc lần này Tàu sẽ tổ chức đánh chiếm thị xã Lạng Sơn. Khoảng 30 phút sau bộ binh địch xuất hiện, quan sát đội hình thấy: bọn chúng rất dè dặt, nhút nhát kiểu vừa tiến quân, vừa thăm dò không giám hung hăng, hô hoán ầm ỹ như mấy ngày đầu. Bộ đội ta nổ súng chống trả. Chúng tôi bị mất phương tiện thông tin, liên lạc, tình hình trở lên phức tạp hơn. Ban chỉ huy tiểu đoàn chuyển vị trí ra Lục Khoang. Vừa chạm cánh đồng Lục Khoang, tôi phát hiện xe tăng ta xuất kích. Gặp được xe tăng, nỗi vui mừng khôn xiết, tôi giới thiệu với các đồng chí xe tăng toàn bộ trận địa chốt của tiểu đoàn 6 bộ binh và của trung đoàn 2 rồi cùng nhau bàn phương án kết hợp vi xe tăng tổ chức tiến công tiêu diệt địch gỡ thế cho các trận địa chốt phía trước. Rút kinh nghiệm từ các trận đánh ở cánh đồng Song Áng, tôi trao đổi với các đồng chí xe tăng: Chúng ta cứ bí mật chiếm lĩnh trận địa chờ địch lọt vào đúng trận địa phục kích của ta, lúc đó mới đồng loạt nổ súng tiêu diệt, quá trình phục kích là quá trình theo dõi từng động thái của địch.

11 giờ 30 ngày 28-2-1979, đội hình địch lọt vào đúng đội hình phục kích, tôi ra lệnh bộ binh kết hợp cùng xe tăng xuất kích. Thời cơ chín muồi, chắc ăn, xe tăng dồn dập nã pháo vào đội hình bộ binh địch, hiệu quả chiến đấu rất cao. Bị đòn bất ngờ, đội hình địch tán loạn, chúng quay đầu tháo chạy. Được thế, lực lượng bộ binh còn lại của tiểu đoàn 6 cùng xe tăng tiếp tục truy kích tiêu diệt địch. Trận đánh kéo dài đến 17 giờ ngày 28-2-1979, xác địch ngổn ngang ở cánh đồng. Chúng tôi quan sát trên cánh đồng Lục Khoang không còn một bóng quân Tàu mới thu quân.

Một lần nữa, tiểu đoàn 6 bộ binh anh hùng lập công xuất sắc, đặc biệt c61, c62 chốt trên khu vực đồi Kéo Càng chiến đấu hết sức dũng cảm, ngoan cường bẻ gẫy nhiều đợt tiến công của địch. Nhưng lực lượng của chúng đông gấp nhiều lần ta, hoả lực đi cùng yểm trợ tối đa. Mặc dù cuộc chiến không cân sức, rất ác liệt song, bộ đội ta vẫn kiên cường bám trụ, quyết chiến đấu đến người lính cuối cùng trên đồi Kéo Càng góp phần giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Trận đánh này, tiểu đoàn 6 bộ binh (thiếu c63) tổn thất khá nặng, c61 bộ đội hy sinh gần hết, c62 hy sinh 2/3 quân số. Bị tổn thất, song tiểu đoàn 6 bộ binh cùng xe tăng đã chặn đứng, kìm được bước tiến của kẻ thù không vào được thị xã Lạng Sơn đúng ngày 28-2-1979. Điều hết sức quan trọng là: Tiểu đoàn 6 bộ binh, trung đoàn 12, sư đoàn 3, được lệnh đi phối thuộc với c2, một lần nữa bảo vệ an toàn tuyệt đối sở chi huy Trung đoàn bộ binh 2 đủ điều kiện, thời gian lui về vị trí an toàn, không mất sức chiến đấu !. Và giải quyết đầy đủ, chu đáo chính sách thương binh, liệt sỹ đối với các sỹ quan, binh sỹ chiến đấu rất dũng cảm, đã phải nằm xuống vì mảnh đất thiêng liêng này.

Những ngày này cách đây 30 năm, trên các phương tiện thông tin đại chúng nhà cầm quyền Bắc Kính ra rả chửi chế độ Ba - Đồng - Chinh (Ba là: Lê Duẩn; Phạm Văn Đồng; Trường Chinh). Trên biên giới phía Bắc, băng những chiếc loa nén công suất cực lớn, nhà cầm quyền Bắc Kinh hết lời chửi rủa chế độ Ba - Đồng - Chinh và không ngày nào chúng không rêu rao: "Dậy cho Việt Nam một bài học". Nhà cầm quyền Việt Nam chửi lại bằng nhiều dọng điệu: "Trung Quốc nghèo rớt mồng tơi, dân húp cháo suốt ngày, túi lách cách mấy đồng xu làm được trò gì ?" v.v và v.v. Thực tế trên chiến trường, chính đơn vị chúng tôi đã dậy cho nhà cầm quyền Bắc Kinh một bài học không thể chối cãi. Trước nhiều ngày chưa nổ súng, chúng hùng hồn tuyên bố: Sẽ "Ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội". Song, từ biên giới vào thị xã Lạng Sơn vẻn vẹn trên vài chục cây số, với một đội quân "hùng mạnh" như vậy, chỉ quần nhau với một sư đoàn suốt từ ngày 17-2-1979 đến ngày 04-3-1979 mới vào được thị xã Lạng Sơn, nhờ một đêm ngủ trọ. Sáng ngày 05-3-1979 đã phải vội vàng tuyên bố rút quân vô điều kiện. Ai đã dậy cho ai bài học ?, Nhà cầm quyền Bắc Kinh hãy trả lời cho cả thế giới biết. Thực tiễn chứng minh rằng: Trên thế giới này, chưa quân đội nào tổ chức hành quân chậm như quân đội Trung Quốc, còn ỳ ạch hơn "lực sỹ Asin không đuổi kịp con rùa". Chúng ta thừa biết: Quân đội Trung Quốc chưa hề đánh thắng bất kỳ ai. Chắc nhà cầm quyền Bắc Kinh chưa quên bài học: Cả nước Trung Hoa rộng lớn, vẫn bị quân Nguyên thôn tính. Nhưng khi quân Nguyên sang Việt Nam đã bị Dân tộc Việt Nam 3 lần đánh tan không còn mảnh giáp.

Kết thúc chiến tranh biên giới phía Bắc, trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày ấy, nhà nước Việt Nam dành cả tháng trời tuyên truyền, hết lời ca ngợi những thành tích chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của Sư đoàn 3 bộ binh (sư đoàn sao vàng) anh hùng. 5 năm sau (17/2/1979 - 17/2/1984), Nhà nước Việt Nam tổ chức kỷ niệm đánh Tàu. Ngày đó, Sư đoàn mời những chiến sỹ đánh giỏi kể lại các trận đánh tháng 2-1979, trong đó có tôi. Chiều ngày 17-2-1984, tại phòng chính trị Sư đoàn 3, tôi kể lại cho phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam những trận đánh xuất sắc nhất của tiểu đoàn 6 bộ binh thuộc Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 và khẳng định: Tiểu đoàn 6 bộ binh anh hùng đã dậy cho nhà cầm quyền Bắc Kinh một bài học nhớ đời.

Kỳ lạ thay: Suốt chặng đường lịch sử thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam chưa khi nào Nhà nước Việt Nam dành cả tháng trời liên tục tổ chức truyên truyền thành tích đánh giặc ngoại xâm như tuyên truyền Sư đoàn 3 bộ binh đánh quân bành trướng Bắc Kinh. Rõ ràng, đây là một sự kiện lịch sử rất trọng đại, hiếm có: Sự kiện Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979. Sau lần kỷ niệm 5 năm đánh Tàu, Nhà nước Việt Nam không những ném sự kiện lịch sử trọng đại vào sọt rác mà còn tổ chức đàn áp tất cả những ai là người yêu nước giám đứng lên chống Tàu. Trong khi những chiến thắng thời chống Pháp, chống Mỹ không được tuyên truyền rùm beng như tuyên truyền Sư 3 thời kỳ đánh Tàu lại tổ chức kỷ niệm rất long trọng như: Chiến dịch biên giới, Đông Khê, Rạch ngầm, Đồng xoài, Khe Sanh, đường 9 Nam Lào đến Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ trên không v.v, và các trò chơi vô bổ, vô văn hoá,... nhằm tiêu khiển thời gian, ru ngủ lòng người,... cũng tổ chức kỷ niệm rùm beng, rất tốn kém (!). Mới ngày nào, Nhà nước Việt Nam còn dõng dạc tuyên bố trước thế giới rằng: "Trung Quốc là kẻ thù số một". Nay, suốt ngày rêu rao, ca ngợi bằng nhiều lời đường mật "16 chữ vàng"; "4 tốt" "mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững,...". Hiện tại, tội ác của nhà cầm quyền Bắc Kinh còn dã man, tàn bạo, nham hiểm,... hơn cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc, ngày 17-2-1979 rất nhiều.

Sau 30 năm, nhớ lại cuộc chiến tranh xẩy ra trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, hàng vạn sỹ quan, binh sỹ "Thề quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh", giữ bằng được từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc đã phải nằm xuống. Nay, Bộ chính trị phớt lờ.

Trước đó, ngày 19-01-1974, được nhà cầm quyền Việt Nam bật đèn xanh, nhà cầm quyền Bắc Kinh tổ chức đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lực lượng Hải quân-Quân lực Việt Nam Cộng Hoà dưới sự chỉ huy của Trung tá-Vũ Hữu Sang anh dũng đánh trả. Do lực lượng không cân sức, 58 sỹ quan, binh sỹ Hải quân - Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã phải ngã xuống vì Tổ Quốc Việt Nam thân yêu.

Tháng 3 năm 1988, nhà cầm quyền Bắc Kinh tiếp tục dùng lực lượng Hải Quân đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. 74 sỹ quan, binh sỹ Hải quân - Quân đội nhân dân Việt Nam lại phải nằm xuống vì quyết tâm bảo vệ những mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Nay, nhà cầm quyền Bắc Kinh ngang nhiên tuyên bố thành lập khu hành chính Tam Sa thuộc đảo Hải Nam, gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Chúng còn ngạo mạn tuyên bố: Tất cả các đảo chìm chưa có người ở, chúng sẽ cho người ra ở và khai thác triệt để tài nguyên thuộc khu vực này. Hiện tại, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã biến biển Đông của Việt Nam thành ao nhà của chúng. Nay, mai Cộng sản Việt Nam lại rước Tàu vào khai thác quặng Bôxit ở Tây Nguyên. Đúng vậy, bọn chúng đã cam tâm biến dân tộc ta thành nô lệ cho Tàu (!).

Chỉ vì cuộc sống, Ngư dân Việt Nam trong đó có Ngư dân Thanh Hoá lặn lội ra khơi đánh bắt cá xa bờ trên vùng biển của chính mình. Nhà cầm quyền Bắc Kinh nổ súng bắn chết 9 người, số sống sót bị chúng tuyên phạt. Nhà cầm quyền Việt Nam không những chỉ im lặng mà còn ngấm ngầm cử cán bộ tuyên huấn xuống dân tuyên truyền, giải thích rằng: Xẩy ra sự việc trên là do ngư dân chúng ta lấy trộm lưới của Tàu nên bị họ phạt (!) v.v.

Ngày nay, Việt Nam đã hội nhập Quốc tế, đã vào WTO, là hội viên không thường trực - Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc và đang lớn tiếng khoe khoang với thế giới rằng: "Việt Nam đang có uy tín trên trường Quốc Tế". Tại sao ???, Bộ chính trị - Đảng cộng sản Việt Nam không căn cứ vào các ưu thế trên để lên án những tội ác tầy trời, đặc biệt nguy hiểm mang tầm cỡ Quốc Tế của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với Việt Nam và yêu cầu Quốc Tế can thiệp sớm giải quyết vấn đề này. Bằng không, Nhà cầm quyền Việt Nam có đầy đủ cơ sở phát đơn khởi kiện nhà cầm quyền Bắc Kinh ra Toà án Quốc Tế, yêu cầu Toà án Quốc Tế thụ lý giải quyết làm rõ trắng - đen. Sự thật rành rành là vậy, không những Bộ chính trị - Đảng cộng sản Việt Nam không giám làm mà còn cố ý im lặng, tìm mọi thủ đoạn che đậy, tảng lờ (!).

Điều không thể chấp nhận được là: những chiến sỹ dân chủ, những thanh viên khối 8406, những sinh viên đều là những người yêu nước cùng nhau xuống đường biểu tình phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh xâm lược Việt Nam đều bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt bớ, bỏ tù. Đã đến lúc trên 80 triệu nhân dân Việt Nam chúng ta không thể ngồi im, làm ngơ trước thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam thao túng để nhà cầm quyền Bắc Kinh lộng hành cướp đất, cướp biển của nhân dân Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam chúng ta phải có chính kiến, tỏ thái độ rõ ràng, không thể tha thứ trước những hành động, cử chỉ quá nhút nhát đến hèn mạt của Bộ chính trị - Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang quỳ gối, hạ mình, ươn hèn, cam tâm bán rẻ Tổ Quốc Việt Nam cho tập đoàn Đại Hán, chưa có tiền lệ trong lịch sử Dân tộc. Bộ chính trị - Đảng cộng sản Việt Nam muốn biến Việt Nam thành một "bang" của Trung Quốc, biến Dân tộc Việt Nam chúng ta thành nô lệ truyền kiếp cho nhà cầm quyền Bắc Kinh để cầu vinh hay sao ?!.

Tự do - Dân chủ - Đoàn kết muôn năm !.

Dân tộc Việt Nam bất diệt !.

Tổ Quốc Việt Nam muôn năm !.

Ngày 14 tháng 2 năm 2009

Trần Anh Kim

Uỷ Viên Trung ương Đảng Dân Chủ Việt Nam.

Thành viên Ban điều hành khối 8406 tại miên Bắc.

Địa chỉ liên lạc:

Số nhà 502, tổ 10, phố Trần Hưng Đạo, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Việt Nam.

Tel: 0363 642 818 và mạng bị lũ "yêu tinh" tự tiện cắt để bưng bít thông tin.

Mobile: 093 666 9296

For every one

Who, why not us ? When, why not now ?