Sunday, July 26, 2009

Những bí ẩn sau những cuộc thánh chiến tại VN 1

Kính thưa các bạn theo dõi trang x-cafe. Nhân đọc được một bài nghiên cứu rất dài của ông cựu thẩm phán VNCH Nguyễn Duy Cần với bút hiệu Lữ Giang viết về vấn đề xung đột tôn giáo ở VN từ trước tới nay. Xin gởi tới các bạn như một tài liệu lịch sử để các bạn cùng tham khảo. Thân kính: Startrak ( Nguyễn duy Cần còn là Tú gàn viết cho báo SGthowif báo của Hoàng dược Thảo tại Cali)

Những bí ẩn đằng sau những cuộc thánh chiến tại VN
Lữ Giang

Lời phi lộ

Đến nay, những người đã sống trong thập niên 1960 vẫn chưa quên được những biến cố đau thương mà các cuộc thánh chiến đã gây ra cho đất nước. Các cuộc thánh chiến này vẫn đang tiếp tục, có khi náo động, có khi âm ỉ với những hậu quả chưa có thể lường được. Tìm hiểu sâu xa hơn, nhiều người đã đồng ý các cuộc thánh chiến do những kẻ lợi dụng tôn giáo phát động cũng là một trong những nguyên nhân đưa miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.

Ngày 1.11.1963, khi các tướng lãnh Việt Nam được Hoa Kỳ thuê làm đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thì tôi còn là một sinh viên Luật Khoa và làm nghề viết báo để kiếm thêm tiền. Cũng như các ký giả khác, tôi lục lọi khắp nơi để săn tin. Ngày 2.11.1963, khi tiếng súng từ Dinh Gia Long vừa dứt, tôi cố nhờ người đôn lên để quan sát phía bên trong và chụp hình. Một nguồn tin của Phật Giáo cho biết ông Diệm và ông Nhu đã trốn ra khỏi Dinh Gia Long bằng một con đường hầm bí mật. Tôi cố gắng kiểm chứng tin này. Vài hôm sau, tôi may mắn được nói chuyện với Thiếu Tá Hoàng Văn Tình, Trưởng phòng An Ninh Phủ Tổng Thống. Ông lắc đầu chán nản và cho tôi biết chính ông đã lo liệu cho ông Diệm và ông Nhu ra đi vào Chợ Lớn lúc 7 giờ tối ngày 1.11.1963 bằng một chiếc xe fourgonnette hiệu Citroen. Người lái xe là Trung Tá Hưng. Ông quả quyết trong Dinh Gia Long không có đường hầm bí mật nào cả. Một tuần sau, tôi được một Thiếu Tá khác dẫn vào Dinh Gia Long quan sát. Tôi cũng không thấy có đường hầm bí mật nào hết. Tôi viết bài tường thuật về những sự thật mà tôi đã điều tra và đem tới tòa soạn, nhưng sau khi họp bàn, anh em đã quyết định không đăng. Anh em nhìn nhận tôi viết hoàn toàn đúng sự thật nhưng nếu đăng lên, tờ báo có thể bị tố cáo là "tay sai của dư đảng Cần Lao" và sẽ bị đốt. Cho đến nay, các sử gia Phật Giáo như Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh và những người khác cũng vẫn tiếp tục viết trong Dinh Gia Long có đường hầm bí mật và hai ông Diệm, Nhu đã trốn ra bằng con đường đó!

Trong vụ nổ trước đài phát thanh Huế đêm 8.5.1963, có 7 người chết và 1 người bị thương, nhóm Phật Giáo miền Trung quả quyết Thiếu Tá Đặng Sĩ đã xả súng bắn, ném lựu đạn tấn công, cho xe tăng chạy ngang qua cán nát đầu các Phật tử và nhất định đòi phải xử bắn Thiếu Tá Đặng Sĩ. Luật sư Nguyễn Khắc Tân, người biện hộ cho Thiếu Tá Đặng Sĩ, và tôi đã xem hồ sơ của tòa án bản cáo trạng, y chứng thư của Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, biên bản kiểm tra của các chuyên viên võ khí v.v. Tất cả đều ghi rằng các nạn nhân bị chết do một chất nổ plastic cực mạnh. Chất nổ này vào thời đó, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa chưa hề được Mỹ cung cấp. Bản phúc trình của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc đến điều tra tại chỗ cũng đã ghi như thế. Nhưng các sử gia Phật Giáo nhất quyết viết Thiếu Tá Đặng Sĩ đã xả súng bắn vào Phật tử, ném lựu đạn nổ và cho xe tăng cán qua đầu các nạn nhân!

Lời các lãnh tụ Phật Giáo tranh đấu miền Trung phải được coi là kinh Coran, không ai được viết khác đi. Viết khác những lời tuyên bố đó là "tay sai của dư đảng Cần Lao"!

Đọc cuốn Lịch sử tranh đấu Phật Giáo Việt Nam của Kiêm Đạt thấy ghi Thượng Tọa Thích Trí Quang có người em tên là Phạm Chánh, một trong những lãnh tụ kháng chiến, chết vào ngày 4.6.1947, tôi cảm thấy tức cười. Tôi biết anh này quá rõ. Năm 1946 anh ta chỉ mới 20 tuổi, đi bộ đội, chiều nào cũng ra tập dượt ớ cánh đồng bên làng tôi và hay bị con nít nhái giọng chọc tức, vì dân làng Diêm Điền có giọng nói hơi ngọng (Thích Trí Quang cũng thế). Đến năm 1947 anh dẫn một tiểu đội du kích quấy phá vùng Đức Phổ, phía Tây thành phố Đồng Hới, bị Tây bắn chết. Ấy thế mà bây giờ đã được các "sử gia" cho trở thành "một trong những lãnh tụ kháng chiến"!

Trong suốt 20 năm qua, lịch sử của các cuộc thánh chiến tại Việt Nam đã được viết một chiều với những câu chuyện bịa đặt như thế được chép đi chép lại trong hàng chục cuốn sách. Những tài liệu ngoại quốc liên quan đến các cuộc thánh chiến tại Việt Nam được viết trước khi Ngũ Giác Đài công bố những tài liệu mật về sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, tuy đã quá lỗi thời, nhưng vẫn được xử dụng tối đa để biện minh cho những sai lầm. Những người đã chứng kiến những ngày kinh hoàng do các cuộc thánh chiến gây ra từ 1963 đến 1966 đều lắc đầu ngao ngán. Nhưng những thế hệ sau có thể sẽ bị đánh lừa.

Trước những chuyện nhảm nhí như thế, tôi đã cố gắng thu thập những tài liệu liên quan đến các cuộc thánh chiến tại Việt Nam và dự tính sẽ công bố khi tình hình thuận tiện. Thời gian từ 1964 - 1967 mà công bố những tài liệu này, các nhóm tranh đấu cho "tự do, dân chủ và nhân quyền" sẽ đốt tòa báo, đốt nhà in và nhà xuất bản. Người viết có thể bị ám sát. Sự kiện lịch sử phải viết đúng như họ muốn, viết khác đi là "tay sai của dư Đảng Cần Lao".

Sau này, khi gia nhập vào ngành tư pháp, tôi có cơ hội để biết thêm nhiều bí mật liên quan đến các cuộc thánh chiến như các vụ Thích Minh Châu với Đại Học Vạn Hạnh, vụ Thích Hộ Giác trong chức vụ Phó Giám Đốc Nha Tuyên úy Phật Giáo, vụ Võ Đình Cường, Nguyễn Trực, Tống Hòa Cầm v.v. Nơi nào không xử dụng thẻ ký giả được, tôi dùng quan hệ tư pháp để tìm tài liệu. Khi một Chánh án hay Biện Lý địa phương giới thiệu tôi ít khi bị các cơ quan từ chối. Trong các vụ biến động tại miền Trung, tôi phải bay đi bay về giữa Huế, Đà Nẵng và Saigon không biết bao nhiêu lần nên nắm trong tay các dữ kiện khá chính xác.

Rất tiếc biến cố ngày 30.4.1975 đã làm mất đi khá nhiều tài liệu mà tôi đã kiếm được. Khi tôi đi cải tạo về, nhà đã bị Việt Cộng tịch thu, anh em chỉ giữ lại cho được một số ít. Tuy nhiên, những gì tôi đã chứng kiến tận mắt hay đã phỏng vấn, tôi không quên được. Về ngày tháng và tên tuổi tôi phải kiểm chứng lại qua các tài liệu hay những người liên hệ. Tôi vẫn tiếc nguyên văn bản Cáo Trạng của Tòa Án Cách Mạng xử vụ Đặng Sĩ. Tôi biết Việt Cộng đang còn giữ lại hồ sơ các vụ án tại miền Nam trước đây, nhưng không biết họ đã cất vào chỗ nào nên không thể thuê tìm được. Lần mò theo các tài liệu do Việt Cộng công bố sau ngày 30.4.1975, tôi khám phá ra được nhiều sự kiện mới như Đảng Cộng Sản Đông Dương lên án chính sách "Phật Giáo hóa Đông Dương" của Toàn quyền Pierre Pasquier, vụ Khu ủy Khu Trị - Thiên - Huế điều khiển các cuộc thánh chiến từ 1963 đến 1967, tên tuổi nhiều cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong các cuộc đấu tranh miền Trung v.v.
Lịch sử sắp sang trang nhưng một số "sử gia" vẫn tiếp tục dùng "phịa sử" để đánh lừa dư luận và lộng giả thành chân, nhằm theo đuổi những mục tiêu chính trị phiêu lưu. Lúc đầu tôi định chỉ công bố một số tài liệu và dành quyền phê phán cho các sử gia chân chính. Nhưng hôm 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu đã công bố cuốn Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự, tôi đã hay đổi quyết định lúc đầu. Tuy tài liệu của Hòa Thượng Tâm Châu chỉ mới cho thấy một khía cạnh bi thảm nhỏ đàng sau các cuộc thánh chiến, nhưng đó là tài liệu của người trong cuộc, nó mang một giá trị đặc biệt. Khi người trong cuộc đã phải đau lòng lên tiếng để hóa giải những chuyện lộng giả thành chân thì chúng ta cũng có bổn phận phải làm sáng tỏ những vấn đề nguy hại cho đất nước đang được cố tình ngụy tạo để che đậy và tiếp tục lừa phỉnh dư luận. Tôi đã viết lại cuốn này với tư thế của một người nghiên cứu và phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến các cuộc thánh chiến.

Sách Cổ Học Tinh Hoa có kể lại chuyện Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu, lúc đã say thì đèn tắt. Một viên quan thừa cơ kéo áo một cung nữ. Người cung nữ ấy nắm lấy rồi giựt đứt giải mũ và tâu cho Trang Vương biết. Trang Vương liền ra lệnh các quan viên phải dứt giải mũ hết, nhờ vậy buổi tiệc hôm đó tiếp tục vui đến sáng, không ai lo bị trị tội cả. Trang Vương là một nhà chính trị, ông không dùng lý mà dùng trí để cư xử khiến mọi việc êm đẹp.

Năm 1965, Thượng Tọa Thích Quảng Liên lập Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình để tuyên truyền cho Việt Cộng. Những người hoạt động cho Phong Trào này đều bị Chính Phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt đưa ra tòa xét xử, 3 người bị trục xuất ra miền Bắc, nhiều người bị phạm khổ sai, nhưng Phan Huy Quát không cho bắt Thượng Tọa Thích Quảng Liên. Phan Huy Quát là một nhà chính trị, ông dùng trí để hành động nên mới có chuyện phi lý như vậy.

Nhiều người đã can gián chúng tôi khi quyết định công bố và phân tích các tài liệu liên quan đến các cuộc thánh chiến tại Việt Nam. Họ yêu cầu chúng tôi xem lại những lợi và hại của sự công bố đó trong giai đoạn hiện tại. Họ muốn chúng tôi hành động theo kiểu những nhà chính trị như Trang Vương hay Phan Huy Quát.

Nhà chính trị cần dùng trí khi hành động để bảo vệ những lợi ích nhất thời. Trong đoản kỳ, những sự tránh né đó được coi là khôn ngoan, nhưng trong trường kỳ, những sự tránh né như vậy nhiều khi đã đem lại những hậu quả trầm trọng. Trường hợp chính phủ Phan Huy Quát dung tha cho Thượng Tọa Thích Quảng Liên là một thí dụ điển hình. Chính vì sự dung tha này, một số tăng sĩ Phật Giáo đã lầm tưởng họ là những con người bất khả xâm phạm, nên sau đó họ đã ngang nhiên vào mật khu họp với các cán bộ Việt Cộng và nhận chỉ thị về thi hành mà không sợ ai cả.

Jorge Luis Borges nói rằng "Tử vì đạo dễ hơn sống đúng theo tinh thần của đạo", còn Shakespeare đã cảnh cáo: "Con quỷ cũng có thể viện dẫn Thánh Kinh cho mục tiêu của nó". Lịch sử cho thấy kích động lòng cuồng tín tôn giáo để đạt mục tiêu chính trị bao giờ cũng gây thảm họa. Để loại trừ thảm họa này, chúng tôi chọn làm công việc của một người công bố và phân tích một số sự kiện lịch sử chứ không muốn làm công việc của một nhà chính trị. Lợi ích mà chúng tôi nhắm là để cho những thế hệ tới đừng vì những sự lừa gạt mà đi vào vết xe cũ, gây thảm họa do đất nước.

Trong hiện tại, sự công bố và phân tích các tài liệu này có thể đưa tới những sự bất bình, nhất là đối với những người trong cuộc. Nhưng tục ngữ Latin có câu : "Fiat justilia et ruant caeli". Phải tuân hành công lý, cho dù tầng trời có sụp đổ. Chúng tôi tin sau khi công bố cuốn tài liệu này, tầng trời sẽ không sụp đổ mà trái lại sự công bố sẽ giúp cho lịch sử được sang trang một cách tốt đẹp hơn.

Còn rất nhiều tài liệu khác đang được chúng tôi kiểm chứng hay điều tra thêm và sẽ công bố sau. Chúng tôi chân thành cám ơn tất cả những bạn bè, thân hữu và những người chưa hề quen biết đã sẵn lòng cung cấp tài liệu hay trả lời những câu hỏi của chúng tôi và giúp đỡ cho cuốn sách này được phát hành nhanh chóng.

Tuy đã được kiểm chứng nhiều lần qua nhiều nguồn tin khác nhau, các tài liệu được công bố cũng khó tránh khỏi một số sơ sót. Phần phân tích và phê bình một đôi khi cũng chưa thoát được tính chủ quan. Chúng tôi ước mong được tiếp nhận ý kiến của những vị am hiểu vấn đề để khi tái bản quyển sách này được hoàn hảo và phong phú hơn.


California, ngày 9 tháng 3 năm 1994

Phần mở đầu

Thánh chiến được hiểu như là các cuộc tranh chấp có bạo động mang màu sắc tôn giáo nhằm mục đích bảo vệ tôn giáo hay mượn danh nghĩa tôn giáo để mưu đồ chính trị.

Tín ngưỡng của người Trung Hoa và Việt Nam khởi đầu đi từ mê tín dị đoan đến Lão Giáo và Khổng Giáo. Phật Giáo phát xuất từ Ấn Độ được chính các hoàng đế Trung Hoa thỉnh về. Tục truyền rằng, vua Hán Minh Đế (58-75 ) nằm mộng thấy người vàng cao 6 trượng trán có nhật quang. Có người đoán mộng cho biết có Phật xuất hiện bên xứ Tây Trúc, nhà vua liền cho sứ giả sang thỉnh kinh và tượng đem về thờ. Nhưng về sau Phật Giáo đã bị các nhà Nho và Đạo sĩ công kích mạnh mẽ vì coi tôn giáo này là một thứ đạo ngoại lai.

Người Tàu cai trị Việt Nam từ năm 111 trước Tây lịch đến năm 931 sau Tây lịch, tức hơn 1.000 năm, đã đem theo vào Việt Nam tất cả tín ngưỡng của người Trung Hoa.

Trong khi các sử gia Mác-xít ở Hà Nội đang cố gắng chứng minh Việt Nam là một trong những "cái nôi" của loài người để tuyên truyền dân tộc Việt Nam là một "dân tộc siêu việt" thì các sử gia Phật Giáo Việt Nam cũng đang nỗ lực chứng minh đạo Phật đã đến Việt Nam trước bằng đường bể rồi truyền qua Trung Hoa để chứng minh đạo Phật là "đạo dân tộc". Những nỗ lực nầy chưa đem lại được bằng chứng trực tiếp nào mà chỉ dùng lối suy luận. Mở đầu bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang (tức Hòa Thượng Nhất Hạnh) cho biết cuốn sách đầu tiên viết về Phật Giáo ờ Việt Nam là cuốn Lý Hoặc Luận do Mâu Tử biên soạn bằng chữ Hán vào hạ bán thế kỷ thứ hai, lúc đó Việt Nam đang bị Bắc thuộc. Mâu Tử là người Trung Hoa theo đạo Lão, sau học đạo Phật. Nguyễn Lang nói rằng Mâu Tử đã "nhập tịch Giao Chỉ". Đây là một sự quyết đoán không chứng minh được vì không có tài liệu lịch sử nào cho thấy thời đó đã có luật quốc tịch. Đến đời Lý Thái Tổ, năm Mậu Ngọ (1018), vua còn sai hai quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc qua Trung Hoa thỉnh Kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng.

Nhìn vào lịch sử phát triển của Tam Giáo tại Việt Nam, chúng ta thấy cũng đã có nhiều sự xung đột giữa Nho Giáo và Phật Giáo như ở Trung Hoa. Trương Hán Siêu đã cho khắc vào bia chùa Quang Nghiêm: "Đã gọi là kẻ sĩ phu, nếu không phải đạo vua Nghiêu vua Thuấn thì không nên bày tỏ, nếu không phải đạo thầy Khổng thầy Mạnh thì không nên trứ thuật..." Còn sử gia Ngô Sĩ Liêm phê bình thẳng rằng đạo Tam Muội và đạo Nhất Thừa không phải là đạo trị thế giới của đế vương.

Dưới thời Lý-Trần, Phật Giáo trở thành quốc giáo và được hậu đãi. Các cao tăng được chọn làm Quốc Sư và giới tăng sĩ được hưởng vô số đặc quyền đặc lợi. Nhưng đến thời Hậu Lê, Phật Giáo bị nhà Nho loại ra khỏi chính quyền và trở nên suy đồi. Qua thời Trịnh Nguyễn phân tranh, ở phần đất phía Bắc thuộc Chúa Trịnh, Phật Giáo ngày càng suy giảm, trong khi ở phần đất phía Nam, Phật Giáo được nhà Nguyễn nâng đỡ. Chính Chúa Nguyễn Hoàng đã cho xây cất chùa Linh Mụ ở Huế vào năm 1601. Dưới thời Tây Sơn (thế kỷ 18) chế độ biệt đãi Phật Giáo chấm dứt. Nhiều chùa chiền đã bị san bằng, tượng Phật bị đập, đất đai nhà chùa được phân phát cho các làng xã, chỉ giữ lại các chùa lớn. Các tăng sĩ cũng phải thi hành nghĩa vụ quân sự và làm công dịch như những người không xuất gia. Từ thời Gia Long đến Pháp thuộc, các vua nhà Nguyễn đã coi Phật Giáo như một công cụ chính trị. Mãi cho đến khi Pierre Pasquier được cử làm Toàn Quyền Đông Dương lần thứ hai (1928 - 1934), Phật Giáo mới được phục hưng. Nhiều nhà bình luận cho rằng Toàn Quyền Pasquier có chủ trương "Phục hưng Phật Giáo Việt Nam" để ngăn chặn phong trào chống Pháp do các nhà Nho phát động (sẽ nói sau). Nhờ sự dễ dàng của các Toàn Quyền Đông Dương, Phật Giáo vững mạnh dần cho đến tình trạng ngày nay.

Thiên Chúa Giáo được truyền vào Việt Nam năm 1533, dưới thời vua Lê Trang Tôn, nhưng đã bị nhà Nho và các vua chúa chống đối và đàn áp mạnh mẽ. Thiên Chúa Giáo đã bị lên án như một thứ đạo ngoại lai, phản lại phong hóa dân tộc. Thiên Chúa Giáo đã bị cả nhà Nho lẫn triều đình tìm cách tiêu diệt nên phải đương đầu với nhiều khó khăn. Trong khoảng 300 năm dưới thời phong kiến, có khoảng 130.000 tín hữu Thiên Chúa Giáo bị giết, 3.000 giáo xứ đã bị đốt phá.

Nhìn qua các cuộc bài trừ tôn giáo trong lịch sử Việt Nam, người ta thấy các cuộc bài trừ này đều do chính quyền chủ động, đối tượng là Phật Giáo hay Thiên Chúa Giáo, bị coi là đạo ngoại lai. Tôn giáo bao giờ cũng ở thế tự vệ. Trong lịch sử, chúng ta chưa hề thấy có hiện tượng tôn giáo đứng lên đánh phá với ý định cướp chính quyền hay mưu toan triệt hạ các tôn giáo và tập thể khác. Trường hợp của Hòa Thượng Thích Thiên Nhiên, tức Phạm Sư Ôn, nổi loạn chiếm thành Thăng Long năm 1389, chỉ là trường hợp cá biệt.

Nhưng từ năm 1963 đến nay, chúng ta thấy có một hiện tượng trái ngược hẳn : Tôn giáo đã dùng cả bạo lực, thủ đoạn lẫn chiến tranh tâm lý để xách động quần chúng chống chính quyền, chống các tôn giáo hay tổ chức khác không đồng lập trường và đường lối của họ, trấn áp các cơ quan ngôn luận và bất khoan dung đối với các tông phái cùng tôn giáo nhưng không chấp nhận chủ trương của họ, đồng thời đòi địa vị độc tôn. Đây là một hiện tượng bất thường và chắc chắn không phải là chủ trương của các nhà lãnh đạo tôn giáo chân chính mà chỉ là chủ trương của một tổ chức hay một vài cá nhân muốn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để mưu đồ chính trị. Những hành động của nhóm nầy đã làm cho tình hình chính trị miền Nam Việt Nam trước đây luôn bị xáo trộn và hiện nay đang gây phân hóa trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Cuộc thánh chiến đầu tiên khởi sự từ tháng 5 năm 1963 và kết thúc sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị cơ quan tình báo Hoa Kỳ lật đổ trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Cuộc thánh chiến lúc đầu nhằm chống lệnh hạn chế việc treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm, được hướng dần vào mục tiêu chống chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ được coi là của Thiên Chúa Giáo.

Cuộc thánh chiến thứ hai được phát động từ đầu tháng 2 năm 1964, sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm "chỉnh lý" loại trừ các tướng cầm đầu cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Cuộc thánh chiến nầy do một nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung và một số chính khách hoạt đầu phát động, dưới chiêu bài loại trừ các dư đảng Cần Lao, nhưng thật sự nhằm tiến tới cướp chính quyền. Cuộc thánh chiến đó rất dữ dội và có sự chỉ đạo trực tiếp của các đặc công cộng sản nằm vùng, nhưng không thành công vì không được các tông phái Phật Giáo gốc miền Bắc và miền Nam hưởng ứng, và nhất là không được cơ quan tình báo Hoa Kỳ chấp nhận như cuộc thánh chiến 1963, nên đã bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, và Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, đánh bại vào cuối tháng 6 năm 1966. Cuộc thánh chiến này bi đát và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng đến nỗi các "sử gia" Phật giáo ít ai dám mô tả lại đầy đủ. Cuốn Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu công bố ngày 31.12.1993 chỉ mới tiết lộ một phần nhỏ. Tất cả đều chỉ xoay quần chung quanh cuộc thánh chiến thứ nhất.

Cuộc thánh chiến thứ ba mang hình thức một cuộc nội chiến, khởi sự từ khi bắt đầu tranh đấu đòi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào tháng 5 năm 1963. Mục tiêu của cuộc nội chiến là tranh dành quyền đại diện duy nhất Phật Giáo Việt Nam và tranh quyền trong nội bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Cuộc nội chiến này vẫn còn kéo dài âm ỉ và ngày nay đã lan ra hải ngoại.

Cuộc thánh chiến thứ tư được phát động từ tháng 6 năm 1992, khi Hòa Thượng Thích Huyền Quang công bố "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội. Cuộc thánh chiến này bên ngoài nhắm hai mục tiêu cùng một lúc : vừa chống lại việc nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội đã "quốc doanh hóa" Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (tức Giáo Hội Ấn Quang) và bắt bớ các tăng ni, vừa công khai tấn công Thiên Chúa Giáo. Thực chất của cuộc thánh chiến cũng như chiến lược và các chiến thuật xử dụng có nhiều nghi vấn và tranh luận.

Quan sát các cuộc thánh chiến nói trên, người ta thấy các cuộc thánh chiến này đều do một số chính khách hoạt đầu và và một số thành phần Phật Giáo cực đoan người miền Trung gốc Bình-trị-thiên hay Nam-ngãi phát động dưới sự chỉ đạo của các cán bộ cộng sản nằm vùng.

Tại hải ngoại, trong thập niên vừa qua, nhóm này xuất hiện sau lưng cựu Tướng Đỗ Mậu, đưa ra cuốn "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" và đứng đàng sau Lê Trọng Văn cho ra hai cuốn "Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm" và "Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị" ở San Diego. Nay lại xuất hiện thêm nhóm tạp chí Bông Sen của Lý Khôi Việt (tức Lê Hiếu Liêm) ở Danville, San José.

Nhóm Lý Khôi Việt đã dùng tờ Bông Sen để "siêu việt hóa" Phật Giáo, mạ lỵ Công Giáo, kêu gọi mở cuộc thánh chiến chống Thiên Chúa Giáo, ca tụng các thành công của Việt Cộng và ngụy hòa. Bài Dân Tộc & Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ 20 của Lý Khôi Việt đăng trên Bông Sen số 17 có nội dung như vừa nói, cũng được phổ biến trong tờ nguyệt san Hoa Sen số 20 tháng 11 năm 1993 của Thượng Tọa Thích Pháp Châu, xuất bản tại Garden Grove, California.

Trong khi đó, những tờ truyền đơn bươm bướm gởi đi khắp nơi quảng cáo những sách tố cáo "tội ác của Vatican" như "Gia Tô Thực Dân Sử Liệu " của Chu Văn Trình, "Tây Dương Gia Tô Bí Lục" do Việt Cộng cải biến và ấn hành trong nước, v.v... Các truyền đơn này còn ghi thêm câu "Thi ca Cách Mạng Bình Sơn Quảng Ngãi" của Việt Cộng:

Hoàng Thiên hỡi bao giờ tung bão lửa,
Đốt cho thành La Mã cháy ra tro.

Khi chúng tôi đang viết cuốn sách này thì được biết nhóm cực đoan miền Trung nói trên đang soạn một cuốn "hồi ký" cho cựu Tướng Tôn Thất Đính đứng tên giống như cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Mục tiêu của cuốn sách này cũng chống Thiên Chúa Giáo dưới chiêu bài chống Cần Lao giống như cuốn sách đứng tên cựu Tướng Đỗ Mậu.
Đa số các nhóm trên đều ở California. Đại lược, lập luận của các nhóm này được đúc kết trong hai tờ Bông Sen số 17 và 18, gồm những điểm chính sau đây :
1.- Thiên Chúa Giáo là một thứ đạo có bản chất độc đoán, bất khoan dung, vong bản và ngoại lai.
2.- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là công cụ của thực dân.
3.- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo được hai chế độ Cộng Hòa độc tài và thối nát của miền Nam Việt Nam yểm trợ nên có ưu thế tuyệt đối về chính trị, kinh tế và văn hóa để truyền đạo và lũng đoạn quốc gia.
4.- Vì các chế độ Cộng Hòa trước đã cấu kết với Thiên Chúa Giáo làm tay sai trung thành cho thực dân và ngoại bang nên đã thất bại, còn Việt Cộng nhân danh dân tộc và truyền thống Việt Nam nên đã đối đầu và đánh thắng cả ba cường quốc lớn : Pháp, Mỹ và Tàu.
5.- Đã có sự cấu kết giữa Công Giáo và Cộng Sản. Bằng chứng được đưa ra là Việt Cộng đã không giải tán Giáo Hội Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam mà chỉ giải tán các Giáo Hội Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo và Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang). Rõ ràng đây là một sự thỏa hiệp giữa Tòa Thánh Vatican và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam trên căn bản "hai bên cùng có lợi".
6.- Chính trị Việt Nam suốt 100 năm này, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú, gương mẫu nhất (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên Chúa Giáo) (nguyên văn)
7.- Trong 5, 7 năm nữa, chính quyền hiện tại (Việt Cộng) vẫn nắm ưu thế về chính trị do những thành công lạ lùng, không ai ngờ trong lãnh vực kinh tế những năm qua (nguyên văn).
8.- Do Thái với Do Thái Giáo và Palestin theo Hồi Giáo mà còn có thể đối thoại, hòa giải và sống chung với nhau thì không lý do gì trong lòng dân tộc và đất nước VN vẫn tiếp tục một cuộc nội chiến, nồi da xáo thịt? (nguyên văn).
9.- Phật Giáo mới là đạo dân tộc. Dân tộc là Phật Giáo. Dưới các thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần vì Phật Giáo là quốc giáo nên Phật Giáo đã giúp chính quyền tạo nên một thời đại vinh quang, huy hoàng nhất cho Việt Nam. Do đó cần phải quay trờ lại thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, đưa Phật Giáo lên quốc giáo và dẹp bỏ Thiên Chúa Giáo mới xây dựng lại được văn hóa dân tộc.
10.- Việt Nam hiện nay mà phục hưng được chánh pháp, chính quyền biết lãnh đạo quốc gia trong tinh thần từ bi, bao dung, khai phóng của đạo Phật thì chắc chắn Việt Nam sẽ phát triển thần kỳ như những con rồng khác tại Á Châu ... (nguyên văn)
11.- Đến một mức tiến hóa nào đó thì những chủ nghĩa như Phát-xít, Cộng Sản phải bị đào thải, cũng vậy, đến một mức tiến hóa nào đó, các tôn giáo cực đoan như Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo cũng sẽ bị đào thải (nguyên văn). Chỉ có Phật Giáo là bất diệt và Phật Giáo là đạo dân tộc.

Sau khi nhận định lạ lùng như trên, nhóm Bông Sen đã tiếp tay với nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội kêu gọi "những người Việt Nam Thiên Chúa Giáo yêu nước" bỏ "chủ nghĩa giáo điều", tách rời khỏi Tòa Thánh Vatican, cùng nhau "thực hiện hòa giải dân tộc thật sự, đại đoàn kết dân tộc thật sự" đế tránh hiểm họa Trung Quốc và giúp đất nước phát triển nhanh chóng!

Đọc các bài "hịch" trên tờ Bông Sen số 17, chúng ta có cảm tưởng như đang nghe lại các bài "hịch" của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ở miền Trung từ 1964 đến 1966.
Ai cũng biết rằng, cả cựu Tướng Đỗ Mậu lẫn Lê Trọng Văn đều không có đủ trình độ kiến thức và khả năng để viết các cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi hay Những Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm, v.v... Trong cuốn Việt Nam Chính Sử, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1992, Luật Sư Nguyễn Văn Chức đã trích một đoạn trong thư ngỏ đề ngày 1.6.1987 do cựu Tướng Đỗ Mậu viết tay đăng trên tờ Tia Sáng ở Houston số 18 ngày 16.10.1987 nói về cuốn hồi ký của ông và kết luận rằng trình độ của những kẻ viết cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi là trình độ của những kẻ đã học hết đại học, còn trình độ của người viết lá thư ngỏ này (tức Tướng Đỗ Mậu) chỉ là trình độ của những kẻ mới bước qua ngưỡng cửa trung học đệ nhất cấp. Nhưng những người hiểu rõ cuộc đời của cựu Tướng Đỗ Mậu từ nhỏ đã cho rằng sự đánh giá của Luật Sư Nguyễn Văn Chức còn hơi quá cao.

Sau đây là nguyên văn đoạn cuối trong bức thư nói trên của cựu Tướng Đỗ Mậu :
"Dù đã được đại đa số độc giả viết báo và gửi thư riêng đến tỏ mối cảm thông nhiệt tình nhưng tôi vẫn phải viết lá thư này để giải tỏa thắc mắc những đồng bào nào chưa đọc sách của tôi mà vấn đề ông Nhị Lang có tầm vóc làm nguy hại đến cá nhân tôi và lập trường chính trị của tôi đã ôm ấp từ 1942 đến nay không hề lay chuyển."
Nhiều người cho biết những người nấp sau lưng cựu Tướng Đỗ Mậu và Lê Trọng Văn, viết các cuốn sách nói trên đều là đệ tử của Thượng Tọa Thích Trí Quang trước đây.

Nhóm Bông Sen gồm có Lê Hiếu Liêm (bí danh Lý Khôi Việt), Phan Quốc Độ, Nguyễn Tâm, Trần Văn Kha, v.v... Các bài trong Bông Sen chống Thiên Chúa Giáo đều do chính nhóm này viết ra. Một đôi khi Lê Hiếu Liêm có ghi thêm dưới tên mình là "Tiến sĩ Luật Khoa" nhưng người Pháp nói rằng "Chiếc áo không làm nên thầy tu" (L habit ne fait pas le moine). So với nhóm viết hồi ký của cựu Tướng Đỗ Mậu, nhóm Hồng Quang, Trần Quang Thuận, Bùi Ngọc Đường, Bùi Nhật Tiến, v.v... nhóm này viết với tầm hiểu biết non kém hơn nhiều. Một đoạn ngắn sau đây do Lý Khôi Việt viết trong bài Dân Tộc & Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ 20, đủ chứng minh điều đó :

"Với sự phục hưng của Phật Giáo về văn hóa, với chế độ chính trị "độc tài pháp trị " mở rộng cửa với thế giới bên ngoài, với nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển ở mức độ mau chóng, với khả năng thích nghi cao độ và bắt chước mau lẹ của người VN, Việt Nam năm 2.000 có hy vọng trở thành một cường quốc kinh tế đầy triển vọng và sau đó sẽ hội đủ những yếu tố cần thiết, căn bản của một chế độ dân chủ lưỡng đảng trong thập niên tới." (1)

Những ý tưởng mơ hồ, võ đoán, thường là không tưởng như trên, tràn đầy trong trong Bông Sen số 17 cho thấy trình độ hiểu biết chưa đến nơi đến chốn của người viết.

Trong những năm qua, các tôn giáo, trong đó có Phật Giáo, đã cùng nhau đến tham dự Ngày Cầu Nguyện cho Hòa Bình Việt Nam được tổ chức tại Roma tháng 10 năm 1992, cùng ký tên chung vào bản Bạch Thư tố cáo nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội vi phạm quyền tự do tôn giáo, thành lập Hội Đồng Hợp Tác Tôn Giáo để cùng hợp tác với nhau đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền trên quê hương, v.v... Chúng tôi cũng đã đọc Quyết Nghị của Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ công bố tại San José ngày 27.9.1992 cũng như "Đường Hướng của Phật Giáo Việt Nam" của Hòa Thượng Nhất Hạnh. Không bao giờ chúng ta thấy các Giáo Hội Phật Giáo, kể cả Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh ở trong nước, có những chủ trương quái lạ như trên. Tất cả đều kêu gọi đối thoại và hợp tác... Do đó, chúng tôi tin chắc đây chỉ là chủ trương của một thiểu số cực đoan miền Trung hay chỉ là cánh tay nối dài của cơ quan phản gián của Cộng Sản Việt Nam.

Bác bỏ những lập luận mà các nhóm này đưa ra không có gì khó khăn. Nhưng vấn đề không phải là tranh luận nhau từng chữ, từng câu hay từng điểm mà là phải lật lên con tẩy mà nhóm chính khách hoạt đầu và Phật Giáo cực đoan miền Trung đang úp ở dưới chiêu bài Phật Giáo.
Để làm sáng tỏ những bí ẩn đằng sau các cuộc phát động thánh chiến đã nói trên, trước tiên chúng tôi xin trình bày một vài nét đại cương về lý do đưa tới các cuộc phát động thánh chiến từ 1963 - 1966 và hiện nay, chiến thuật đã và đang được xử dụng. Sau đó chúng tôi sẽ đề cập đến tương quan giữa Phật Giáo Ấn Quang với Cộng Sản Việt Nam, tương quan giữa các Giáo Hội Công Giáo, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo với Cộng Sản Việt Nam, các cuộc thánh chiến đã và đang được phát động. Cuối cùng, chúng tôi sẽ trình bày đường hướng của các tôn giáo lớn Việt Nam và Phật Giáo trong giai đoạn lịch sử đang đến.

Chương I

LÝ DO VÀ MỤC TIÊU
Quan sát các cuộc thánh chiến được phát động tại Việt Nam trong suốt 30 năm qua, các nhà phân tích đều đồng ý rằng đằng sau các cuộc thánh chiến đó có rất nhiều bí ẩn cần phải được nghiên cứu để phát hiện. Người ngoại cuộc nhìn vào các cuộc thánh chiến đó tưởng rằng đây chỉ là những cuộc tranh đấu đòi quyền tự do và bình đẳng về tôn giáo, đòi tự do dân chủ, nhân quyền ..., nhưng nhìn các chiêu bài được xử dụng cũng như các chiến lược và chiến thuật đã được áp dụng, chúng ta thấy có nhiều hiện tượng không bình thường. Tại sao có các cuộc thánh chiến này ? Các cuộc thánh chiến đó được phát động nhắm mục đính gì ? Câu trả lời có lẽ không có gì quá khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

Karl Marx đã tuyên bố :
"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân."(2)
Lénine coi Thiên Chúa Giáo là đối tượng nguy hiểm nhất cần phải thanh toán, sau đó là Hồi Giáo. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nhận định rằng Thiên Chúa Giáo là một trở ngại lớn lao trên con đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Chính Thiên Chúa Giáo là bức thành ngăn chận không cho chế độ cộng sản lan qua Âu Châu và Mỹ Châu, và đang gây khó khăn cho việc cộng sản hóa toàn bộ nước Việt Nam. Trong thời gian lưu vong chống Pháp, Hồ Chí Minh đã viết vô số bài chống Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam. Một số bài này được đăng lại trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội ấn hành. Vậy phải tìm mọi cách loại bỏ Thiên Chúa Giáo hay vô hiệu hóa mọi hoạt động của tôn giáo này. Tại Việt Nam, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo cũng là hai trở ngại cho việc cộng sản hóa Việt Nam, nên hai tôn giáo này cũng là mục tiêu thanh toán như Thiên Chúa Giáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA MỘT SỐ TĂNG NI, PHẬT TỬ CỰC ĐOAN MIỀN TRUNG
Một số tăng ni và Phật tử miền Trung gốc Bình-trị-thiên theo tông phái Phật Giáo Ấn Quang, nhất là nhóm theo Hòa Thượng Thích Trí Quang, cho rằng đạo Thiên Chúa mới xâm nhập vào Việt Nam khoảng bốn thế kỷ mà đã chiếm được ưu thế về chính trị, văn hóa và xã hội, gây biến dạng văn hóa cổ truyền Việt Nam. Vậy phải tìm mọi cách để ngăn chận lại. Trong bài Dân Tộc và Phật Giáo cuối thế kỷ 20 đăng trên Bông Sen số 17, Lý Khôi Việt đã diễn tả khá đầy đủ ý nghĩ đó :
"Chính trị Việt Nam suốt 100 năm này, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên Chúa Giáo)."

Từ những nhận định tương tự như thế, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã đưa ra chủ thuyết PHẬT GIÁO và DÂN TỘC để hành động. Họ lập luận rằng Phật Giáo và dân tộc đã gắn liền với nhau. Vận mệnh của đất nước đi liền với vận mệnh của Phật Giáo. Vậy muốn cứu vãn dân tộc, chỉ có một con đường duy nhất là đưa Việt Nam trở lại thời đại Lý-Trần, Phật Giáo là quốc giáo, các Hòa Thượng làm Quốc Sư. Muốn tiến tới mục tiêu đó, trước tiên phải siêu việt hóa Phật Giáo và cổ võ việc loại trừ Thiên Chúa Giáo, một tôn giáo bị coi là "đạo ngoại lai". Chủ thuyết này đã được đa số các tăng sĩ của nhóm Phật Giáo cực đoan nhai đi nhai lại như con vẹt, không cần biết chủ thuyết đó có căn cứ hay không.

CÁI THẾ LIÊN ỨNG
Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung chống Thiên Chúa Giáo nhận thấy họ không đủ khả năng ngăn chận Thiên Chúa Giáo vì thiếu tổ chức và không được sự yểm trợ của đồng bào trong nước cũng như quốc tế. Vậy chỉ còn một cách là mượn bàn tay Cộng Sản. Giữa Phật Giáo và Cộng Sản có những mục tiêu bất khả dung hợp, nhưng một số nhà điều khiến chiến dịch lý luận rằng có thể mượn bàn tay Cộng Sản để đánh bại Thiên Chúa Giáo rồi sau đó dùng Phật Giáo để "hóa giải" Cộng Sản.
Phía Cộng Sản rất nhạy cảm, họ nhận ra được những ý định của một số tín đồ Phật Giáo cực đoan nên tương kế tựu kế: Dùng chiến tranh tôn giáo để gây suy yếu hàng ngũ chống cộng và kiềm chế Thiên Chúa Giáo, sau đó khống chế Phật Giáo.
Vì lý do nói trên, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã phối hợp với Cộng Sản rất chặt chẽ trong việc đánh phá miền Nam Việt Nam và Thiên Chúa Giáo, nhất là trong các cuộc "thánh chiến" được phát động từ 1963 - 1966 tại miền Trung. Chúng tôi sẽ chứng minh sự phối hợp chặt chẽ nầy ở các chương sau.
CHIÊU BÀI XỬ DỤNG
Trong phương thức đấu tranh cho quyền lợi của phe phái mình, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong tông phái Phật Giáo Ấn Quang đã xử dụng phương châm của Karl Marx mà những người cộng sản thường áp dụng, đó là phương châm "Cứu cánh biện minh phương tiện" (la fin justifie les moyens), nghĩa là dùng bất cứ phương tiện gì, dù tốt hay xấu, miễn là đạt được cứu cánh thì thôi. Vì thế, chúng ta thấy nhóm nầy đã không ngần ngại xử dụng phương thức của Phát-xít Đức.
Hitler, khi muốn kích động dân tộc Đức đứng lên dành quyền bá chủ thế giới, đã đưa ra thuyết "chủng tộc vượt trội" (master race), coi chủng tộc Đức vượt lên trên tất cả các chủng tộc khác. Căn cứ vào chủ thuyết nầy, Hitler đã phát động chiến dịch đề cao chủng tộc Đức và hô hào diệt chủng tộc Do Thái để gây động lực đấu tranh.
Phương thức đó đã được nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung áp dụng khi phát động đấu tranh: Tuyên truyền Phật Giáo là một tôn giáo siêu việt còn các tôn giáo khác, nhất là Thiên Chúa Giáo, đều là những thứ "tà đạo", đang bị đào thải qua quá trình lịch sử.
Sau khi siêu việt hoá Phật Giáo, nhóm này đưa ra chủ thuyết ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC để đồng hóa Phật Giáo với dân tộc Việt Nam và đòi chiếm địa vị độc tôn.
Để thực hiện sứ mạng Phật Giáo hóa Việt Nam, đưa Phật Giáo lên nắm địa vị ưu thắng trong nền chính trị quốc gia cần phải có một nhóm Phật Giáo siêu việt, thuộc loại "đỉnh cao của trí tuệ loài người" như kiểu Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhóm này không ai khác hơn là các tăng sĩ miền Trung gốc Bình - Trị - Thiên trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.
DÙNG THUYẾT PHẬT GIÁO SiÊU VIỆT VÀ ĐỘC TÔN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM LÀM CHIÊU BÀI.
Các nhà phát động đấu tranh của tông phái Phật Giáo Ấn Quang luôn luôn tuyên bố Phật Giáo là đạo dân tộc, dân tộc là Phật Giáo và truyền thống dân tộc là truyền thống Phật Giáo. Thời kỳ quang vinh nhất của dân tộc Việt Nam là thời đại Lý - Trần, một thời đại do Phật Giáo nắm vận mệnh quốc gia. Vậy phải trở về với tình trạng Phật Giáo của thời Lý - Trần, nghĩa là đưa Phật Giáo lên hàng quốc giáo, chính quyền tuân theo chính sách của Phật Giáo, Việt Nam mới có hòa bình, tự do dân chủ và phú cường. Sau đây là quan điểm của một số tác giả về căn bản của chủ thuyết Phật Giáo siêu việt và độc tôn của dân tộc Việt Nam :
Lý Khôi Việt :
"Có thể nói đạo Phật ngày nay vẫn là chủ đạo văn hóa của quốc dân Việt Nam như trong thời Phật Giáo thịnh trị khác... Phật Giáo là chủ đạo văn hóa ưu thắng của Việt Nam, nghĩa là của đại đa số dân chúng tin theo và chi phối các sinh hoạt xã hội..."
"Trên lãnh vực chính yếu của mình, văn hóa Phật Giáo đã vừa thực hiện một thành tích kỳ diệu : nó đã cùng nền văn hóa dân tộc đánh bại một cách toàn diện và dứt khoát văn hóa Mac-xít"(3)
Phan Quang Độ :
"Phật Giáo đã thích nghi một cách kỳ diệu với tất cả mọi nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau, ... Trong tiến trình thích nghi, hòa nhập nầy, hoàn toàn không có chiến tranh, không có xâm lăng không có giết hại, không có áp bức và đau khổ như tiến trình thiên chúa giáo hóa tại Việt Nam cũng như tại các nơi khác."(4)
Phan Quang Độ đã quả quyết rằng các thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần đưa nước vào thời kỳ vinh quang là nhờ tôn Phật Giáo làm quốc giáo và được Phật Giáo giúp đỡ. Cuối cùng, Phan Quang Độ kết luận :
"Việt Nam hôm nay mà phục hưng được chánh pháp, chính quyền biết lãnh đạo quốc gia trong tinh thần từ bi, bao dung, khai phóng của đạo Phật thì chắc chắn Việt Nam sẽ phát triển thần kỳ như những con rồng khác tại Á Châu và kỷ nguyên quang hưng sẽ đến với quê hương ta"(4)
Đọc những đoạn vừa trích dẫn trên, người đọc có cảm tưởng như vừa đọc cuốn "Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng," chỉ khác là hai chữ "Cộng Sản" được thay bằng hai chữ "Phật Giáo".
KÍCH ĐỘNG LÒNG CĂM THÙ THIÊN CHÚA GIÁO NHƯ LÀ ĐỘNG LỰC ĐẤU TRANH.
Khi Phát-xít Đức đưa dân tộc Đức lên tận mây xanh, họ đã nhận chìm dân tộc Do Thái xuống tận đáy bùn đen. Một nhóm lý thuyết gia thuộc tông phái Phật Giáo Ấn Quang, sau khi siêu việt hóa Phật Giáo, cũng đã đối xử như vậy đối với Thiên Chúa Giáo :
Phan Quang Độ :
"Và Vatican được hiểu như một đế quốc cũng từ đặc tính độc tôn văn hóa và diệt chủng văn hóa của các dân tộc khác: những nhà truyền giáo TCG La Mã đã hủy diệt nền văn minh Maya cổ đại của dân tộc Mễ Tây Cơ, tàn phá kim tự tháp khổng lồ của nền văn minh nầy và giết hại hàng chục triệu người dân Mễ Tây Cơ và Nam Mỹ. "
"Thiên chúa giáo Việt Nam không ra ngoài đặc tính nầy: không chấp nhận thích nghi văn hóa, chỉ muốn đi đồng hóa kẻ khác, kể cả bằng bạo lực, súng đạn hay mua chuộc bằng tiền bạc, danh lợi, hay tồi tệ hơn, cả bằng tình yêu và hôn nhân của con cái và mặt khác, thích nghi rất quỷ quyệt về chính trị để hướng đến mục tiêu tối hậu là cướp chính quyền và dùng chính quyền để bành trướng đạo thiên chúa. "
"Hơn 100 năm nay, Phật Giáo và dân tộc đã không ngừng tranh đấu, hy sinh chống lại xâm lăng, tàn phá của đế quốc Vatican và đế quốc cộng sản."(5)
Lý Khôi Việt :
"Việt Nam đang trở lại tình trạng bất công của thời thực dân nô lệ, đó là tôn giáo thiên chúa giáo, một tôn giáo có bản chất độc đoán, bất khoan dung, có truyền thống ngoại lai, vong bản, tay sai ngoại bang, có lịch sử phản quốc đã nhiều lần bán đứng đất nước cho các thế lực xâm lăng thì lại được chính quyền ưu đãi, vuốt ve, thỏa hiệp ..."
"Vì có tín đồ thiên chúa giáo VN thần phục mù quáng Vatican, đang làm việc phản quốc và phá hủy văn hóa dân tộc, phá hủy Tổ Quốc, nhưng họ lại tưởng là đang xây dựng tốt đẹp đất nước, như những tín đồ Việt Nam khờ dại, cuồng tín của chủ nghĩa Mác, đã từng nghĩ như thế suốt 60 năm qua."
"Đế quốc thiên chúa giáo La Mã mưu đồ khống chế Việt Nam về tôn giáo, tinh thần, văn hóa, chính trị và kinh tế. Nếu đa số người Việt Nam theo đạo thiên chúa thì Việt Nam, được hiểu như một quốc gia có văn hóa đặc thù độc lập, sẽ bị hủy. Họ sẽ viết lại lịch sử Việt Nam theo nhãn quan của họ như đã từng sửa đổi ngụy tạo lịch sử giáo hội La Mã, cuộc đời của chúa Christ và cả thánh kinh, họ sẽ tiêu hủy nền văn hóa độc sáng Việt Nam, như đã tiêu hủy các nền văn hóa đặc thù của dân Mễ Tây Cơ và các dân tộc khác tại Nam Mỹ..., họ sẽ áp dụng một chế độ độc tài bất khoan dung và hết sức khắc nghiệt, tàn bạo và Việt nam sẽ chỉ là một thuộc địa của các lãnh chúa áo đen như thời Trung Cổ man rợ như đã thấy dưới sự thống trị của các ông cố đạo và của đảng Cần Lao. Và là một sự nô lệ càng khó gỡ hơn cả sự nô lệ vào đế quốc Trung Hoa."(6)
Trong các bài viết, khi viết hai chữ Phật Giáo, Lý Khôi Việt và Phan Quang Độ luôn viết bằng chữ hoa, còn ba chữ Thiên Chúa Giáo hay Đạo Thiên Chúa được viết bằng chữ thường!
Nếu Thiên Chúa Giáo tồi tệ như thế, làm sao có số tín hữu trên thế giới hiện nay lên đến khoảng 1.783.660.000 người, trong khi số tín đồ Phật Giáo chỉ có 309.127.000 ? Nhưng chúng ta không nên mất thì giờ để tranh luận về những điểm mà nhóm Bông Sen đã nêu ra ở trên, vì nói theo kiểu của Luật Sư Phạm Nam Sách khi phê phán các luận điệu của một lý thuyết gia cộng sản, những lập luận đó "rặt toàn lời lẽ tuyên truyền, nói lấy được, nói vô tội vạ, ta gọi là khẩu thuyết vô bằng, còn Tây gọi là "parler pour ne rien dire".
QUAN NIỆM CHỈ CÓ TÔNG PhÁI PHẬT GIÁO ẤN QUANG LÀ PHẬT GIÁO CHÍNH THỐNG VÀ ĐẠI DIỆN CHO PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trước 30.4.1975, tại miền Nam đã có 45 Giáo Hội và Hiệp Hội Phật Giáo hoạt động hợp pháp. Chỉ có Giáo Hội Ấn Quang hoạt động ngoài vòng pháp luật. Hiện nay, theo nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho biết ở trong nước có đến 22 tông phái Phật Giáo. Nhưng qua những lời tuyên bố cũng như hành động của của nhóm Phật Giáo miền Trung cực đoan trong tông phái Ấn Quang từ 1963 đến nay, chúng ta thấy rằng nhóm này muốn rằng chỉ có tông phái Phật Giáo Ấn Quang mới được coi là Phật Giáo chính thống và đại diện duy nhất cho toàn thể Phật Giáo Việt Nam. Trong công văn "tuyệt mật" mang số L06/PA 15 - 16 ngày 18.8.1992 được mạo hóa một cách rất vụng về, nhóm này đã mượn danh nghĩa . "Công An Tỉnh Quảng Trị" để ca tụng "Giáo Hội Phật Giáo . Việt Nam Thống Nhất (Phật Giáo Ấn Quang) là giáo hội chủ lực trong các giáo phái". Những nhóm hay tông phái khác không muốn gia nhập vào tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang thường bị lên án nặng nề như Việt Gian, tay sai chính quyền, gây chia rẽ Phật Giáo, v.v. Một số tông phái đã bị tấn công bằng vũ lực như trường hợp của Hòa Thượng Thích Từ Quang, Viện Trưởng Hoằng Pháp của Tổng Giáo Hội Việt Nam được thành lập do Sắc Luật số 001/64 ngày 8.2.1964 hay trường hợp của ban lãnh đạo Viện Hóa Đạo Việt Nam Quốc Tự bị bắt giam và Thượng Tọa Thích Tâm Châu bị mưu sát.
***
Nhìn chung, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung gốc Bình-trị-thiên đã bắt chước phương pháp đấu tranh của Cộng Sản khi mưu tìm một địa vị chính trị ưu thắng trong quốc gia. Trong khi Đảng Cộng Sản Việt Nam đem "chủ thuyết Mác-Lênin ưu việt" và "bách chiến bách thắng" để áp đặt thì nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã thay thế chủ thuyết Mác-Lênin bằng chủ thuyết "Phật Giáo siêu việt và độc tôn" của dân tộc Việt Nam. Cộng Sản dùng "giai cấp đấu tranh" làm động lực cho cuộc cách mạng, còn nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung lấy sự kích động lòng căm thù Thiên Chúa Giáo làm động lực. Đảng Cộng Sản Việt Nam quan niệm chỉ có Đảng là "đội tiên phong của giai cấp công nhân tổ chức và lãnh đạo" mới có thể đưa cuộc cách mạng tới thành công, còn nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung cho rằng chỉ có các tăng sĩ miền Trung gốc Bình-trị-thiên trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang mới có khả năng đưa Phật Giáo Việt Nam lên địa vị ưu thắng trên chính trường. Rập khuôn theo phương pháp của Cộng Sản, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã và đang đưa Phật Giáo và dân tộc đi về đâu ? Đây là những vấn đế chúng tôi sẽ đề cập trong các chương sau
NHÌN VÀO THỰC TẾ
Sau khi trình bày lý do, mục tiêu và chiêu bài của các cuộc thánh chiến đã và đang được phát động, chúng ta thử khảo sát qua về chủ thuyết Phật Giáo và Dân Tộc, tình trạng Phật Giáo dưới thời Lý - Trần, tình trạng Phật Giáo trong một trăm năm qua cũng như sự du nhập và phát triển của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam để xem lập luận của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Ấn Quang có đứng vững không. Những hành động và những hậu quả do chủ trương của nhóm này đem lại sẽ được trình bày trong các chương tiếp theo.
I.- CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC
Trong tiến trình cộng sản hóa Việt Nam, Việt Cộng thường dùng chiêu bài "NHÂN DÂN" để hành động. Tịch thu tài sản của địa chủ và tư sản mại bản để đưa vào hợp tác xã, Việt Cộng gọi là "cuộc cách mạng dân chủ nhân dân". Các tổ chức và cơ quan công quyền của Việt Cộng luôn được được ghép hai chữ "Nhân Dân" đằng sau, như Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban Nhân Dân, Tòa án Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân v.v.. Bắt chước Việt Cộng, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang thường tự đồng hóa Phật Giáo với "DÂN TỘC" để hành động. Chúng ta thử xét qua nội dung của chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc, những yếu tố mà nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã dựa vào để đưa ra chủ thuyết này và những hệ quả do chủ thuyết đó đem lại.

NỘI DUNG CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC
Chúng ta chưa tìm thấy được một bản văn nào trình bày đầy đủ về chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc. Chúng ta chỉ tìm thấy ý niệm đó trong những lời phát biểu của một số tăng sĩ và Phật tử trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.
Đến dự tang lễ của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ ngày 3.5.1992, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã phát biểu : "Pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo là Chính Pháp của 2.000 năm lịch sử đạo lý và văn hiến trên đường mở nước và dựng nước. Cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo là nông thôn, thành thị, núi rừng, là hải đảo dưới ánh hào quang của Trí Tuệ và Từ Bi. Địa vị của Phật Giáo là 80% dân chúng, già, trẻ, lớn, bé.
Thương Tọa Thích Quảng (Độ?), trong một bài phỏng vấn dành cho tạp chí Bông Sen đăng trên số 17, đã tuyên bố :
"Bất cứ nhà cầm quyền nào trước hay sau 75 hay sau 95, hay là sau năm hai ngàn đi nữa, GHPGVN vì tự thấy mình là hiện thân của dân tộc, vì tự thấy mình là dân tộc cho nên có bổn phận phải nói tiếng nói của dân tộc. "
Phan Quang Độ viết trong bài Phật Giáo và Chính Quyền đăng trong Bông Sen số 17 :
"Truyền thống quật cường bất khuất của dân tộc và truyền thống hy sinh đồng lao cộng khổ với dân tộc của Phật Giáo qua suốt bao thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục suốt 20 thế kỷ đã biên Phật Giáo bất khả phân ly với dân tộc. Và vì vậy, khi dân tộc còn đau khổ, Phật Giáo còn hy sinh, khi dân tộc được vinh quang, Phật Giáo sẽ rạng rỡ. Điều này đã chứng minh trong 2.000 năm qua, đã thấy rõ trong hiện tại và sẽ hiển sinh trong tương lai sắp đến."

CĂN BẢN CHỦ THUYẾT PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC
Qua các lời phát biểu nói trên, chúng ta nhận thấy nhóm Phật Giáo miền Trung đã căn cứ vào hai yếu tố sau đây để xác định Phật Giáo là dân tộc : Tín ngưỡng của người Việt Nam và sự đóng góp của Phật Giáo cho đất nước. Chúng ta sẽ khảo sát qua hai yếu tố này.
TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM: MÊ TÍN DỊ ĐOAN VÀ TÔN GIÁO HÒA ĐỒNG
Cuốn The Almanac of the Chirstian World 1993 - 1994 cho biết số tín đồ của các tôn giáo tại Việt Nam như sau :
- Không tôn giáo hay vô thần : 22,5%
Phật Giáo : 54% với ghi chú : có nhiều thành phần, đa số theo luôn cả Khổng Giáo, thờ thần linh và phù thủy (đạo Lão)
- Phật( Giáo Hòa Hảo và Cao Đài : 11% (Hòa Hảo 1.800.000, Cao Đài 3.600.000)
- Thờ thần linh (dân tộc thiểu số) : 4% .
- Hồi Giáo : 1%
- Thiên Chúa Giáo : 7,5%
Cuốn niên giám này không cho biết xuất xứ của tài liệu thống kê nói trên. Nhưng thông thường khi muốn biết các tài liệu liên quan đến dân số hay tình trạng xã hội của một quốc gia, các nhà làm niên giám thường xin thẳng tài liệu của quốc gia liên hệ, nên chúng ta có thể tin tài liệu đó do nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cung cấp, vì hiện nay không có cơ quan nào được phép làm cuộc kiểm kê đó.
Số người được gọi là "vô thần" trong bảng thống kê, trước tiên phải kể đến các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam và những thành phần hiện nay đang được coi là "đối tượng đảng". Những người này chính thức khai không có theo tôn giáo nào, ít ra là trước mặt đảng. Thành phần còn lại là những người khai không tôn giáo trong đơn xin Chứng Minh Nhân Dân (thẻ căn cước).
Số tín đồ Phật Giáo hiện nay là một vấn đề đang được tranh luận. Các nhà lãnh đạo Phật Giáo thường cho rằng số tín đồ Phật Giáo ở trong nước chiếm đến 80% dân số. Nhưng vấn đề không giản dị như vậy. Người Việt Nam đa số vừa theo Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo, vừa tin thần linh, bói toán và phép phù thủy. Chúng ta thử phân tích tình trạng tôn giáo tại Việt Nam để xem tôn giáo của đa số người Việt Nam là tôn giáo nào và tại sao người Việt Nam theo tôn giáo đó.

a) Khái niệm về mê tín dị đoan và Tam Giáo hòa đồng trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam.
1.- Mê tín dị đoan và đạo thờ thần trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam
Trình Văn Thanh đã viết về bối cảnh tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt Nam như sau :

"Trước kỷ nguyên Tây lịch, Trung Hoa cũng như hầu hết các dân tộc khác đều sùng bái thiên nhiên. Họ quan niệm rằng mỗi bộ phận của thiên nhiên đều có linh hồn, linh hồn đó không biết được lẽ sống của loài người nên trước cuộc sống quá chật vật, gian nan, họ tôn thờ cúng bái và đặt những linh hồn thiêng liêng đó là thần linh như Thần Thái Dương, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Sấm, Thần Chớp, Thần Núi, Thần Sông, ...

"Vị có quyền uy tối linh tối thượng, có quyền tạo sinh tạo sát cho vạn vật muôn loài là ông Thiên. Nếu ở Thiên Đình gọi là Ngọc Hoàng, ở hạ giới gọi là Hoàng Đế. Người ở chức vị Thượng Đế rất to lớn và công minh. Trong Kinh Thư có nói : "Duy Hoàng Thượng Đế giáng trung vu hạ dân : Thượng đế rất lớn ban sự công bình không thiên lệch cho nhân dân" Vị Thiên này rất trừu tượng nhưng là não tủy cai quản các thần, cai quản cả luật pháp của người và vật : "Thiên sinh chúng dân hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh ghi, hiếu thị ý đức : Trời sinh ra dân chúng, hễ có vật là có phép tắc, dân giữ cái tính thường còn; yêu báu cái đức tốt đẹp. "

"Ngoài sự tôn sùng, thờ cúng thần linh trên, người Trung Hoa còn thờ phụng ông bà tổ tiên và các anh hồn của những anh hùng vị quốc vong thân một cách trang trọng nữa."
"Đó cũng là những nét cố hữu tín ngưỡng dân tộc Việt Nam."(8)

Người Trung Hoa cũng như người Việt Nam đều có một tin tưởng vững chắc : Các biến cố trong vũ trụ, trên con người, trên súc vật và trên các sự vật hay sự việc đều do tác động của thần linh. Thần linh ngự trị khắp nơi : ngoài đường, dưới sông, trong hang, trên núi đá, nơi cây đa cổ thụ ... Thần linh hiện nhập dưới mọi hình thức : Thiên nhiên, người, thú vật hay đồ vật. Vì thế, dân thờ Thần Sông, Thần Núi, Khổng Tử, Quan Công, Phật Bà Quan âm, Đức Thánh Trần, ông Địa, Cá Voi, Thần Hổ, Thần Tài, Mộc Tinh ... và thờ cả bộ phận sinh dục của người hay vật. Ngay Đức Phật Thích Ca cũng được nhìn như là một vị thần linh có thể ban ơn phước.

Tại Việt Nam, hầu hết các làng đều có Đình. Mỗi đình thường có một Thành Hoàng. Nhưng cũng có đình thờ hai ba vị hay năm bảy vị một lúc, gọi là Phúc Thần, tức vị thần giáng phúc cho dân. Có làng còn thờ những thần rất kỳ lạ như thần Cụt đầu, thần ăn mày, thần ăn trộm, v.v... Những làng chưa có thần thì thờ Thổ Thần bản thổ hoặc thờ ngay người đã lập ra làng.

Đình là nơi thờ và cúng tế Đức Thành Hoàng, vị thần phù hộ làng. Miếu được dựng lên khắp nơi để quỷ thần an ngự. Ở đó phải cúng tế thường xuyên. Miễu là ngôi miếu thờ những người bất đắc kỳ tử gặp giờ linh. Tại những nơi hay xẩy ra tai nạn, dân chúng thường đặt một bàn thờ hay làm một cái miếu để xin thần linh phù hội cho tai nạn đừng xẩy ra. Ban là bàn thờ ở một ngôi miếu để thờ thêm một thần bộ hạ của vị thần chính.

Tại tư gia, người ta thường thấy bàn thờ gia tiên. Đa số người Việt tin linh hồn của tổ tiên bất diệt và lấy việc thờ cúng tổ tiên làm điều hiếu. Bàn thờ gia tiên đặt ngay ở chính giữa. Những nhà chật chội thì đóng một chiếc trang trên tường. Sau bàn thờ gia tiên là bàn thờ thần. Thần quan trọng nhất của mỗi nhà là Thổ Công, một vị thần trông coi gia cư và định họa phúc cho mỗi gia đình. Bàn thờ Thổ Công là một hương án, tức bàn để đốt hương cúng tế. Hương án kê liền với hậu trường nhà. Sau Thổ Công là Thần Tài, vị thần mang lộc tới cho gia đình, rồi đến Thánh Sư, ông tổ của nghề nghiệp, Đức Thánh Quan (tức Quan Vân Trường), Mộc Tinh (ở cây lớn trong vườn), Bà Cô, ông Mãnh, v.v... Những người tin đồng bóng còn có bàn thờ Chư Vị.

Khấn vái là một cách xin thần thánh hộ phù với lới cam kết sẽ thực hiện một điều gì để đáp lại. Bói toán được phổ cập trong nhân gian. Đây là một hình thức vấn sự, xin thần linh cho biết những chuyện đã, đang và sẽ xẩy ra. Bói trúng hay không là tùy thần có ứng hay không ứng, linh hay không linh.

Ngoài việc thờ thần, người Trung Hoa và Việt Nam còn nhiều mê tín dị đoan khác, như tục đi thề, kiêng kị (kiêng đầu năm, kiêng đầu tháng, có chửa kiêng cắt tiết gà...) chiêm đoán (xem chân giò, xem đầu gà, cầu mộng), chiêm nghiệm (xem thiên thời, điềm lạ, sự di chuyển của sao v.v.), phương thuật (trừ tà, trừ ác điểu, chữa bệnh, v.v.), độn số v.v

Thờ thần và những sự tin tưởng nhảm nhí nói trên là một hiện tượng phổ biến trong dân chúng từ lâu đời và hoàn toàn trái với giáo lý của Phật Giáo, nên không thể coi những người thờ thần linh và tin nhảm nhí là Phật tử đúng nghĩa.

2.- Vài nét về Nho Giáo
Nho Giáo do Khổng Tử lập ra. Khổng Tử húy là Khâu, tên chữ là Trọng Ni, sinh ở nước Lỗ năm 551 trước Tây Lịch, qua đời năm 479 trước Tây Lịch, thọ 72 tuổi.
Nho Giáo là đạo xử thế. Khổng Tử định rõ ba điều chính yếu sau đây :
- Những biến hóa của vũ trụ liên quan đến con người.
- Những diềng mối luân thường đạo lý của xã hội.
- Các nghi lễ trong việc tế tự : tế Trời, tế Đất và tế Quỷ Thần.
Đạo Nho là đạo làm người, tập cho loài người sống ra con người. Khổng Tử lấy Hiếu, Đễ, Trung, Thứ làm tôn chỉ và lấy sửa mình làm cốt cán. Khổng Tử không dạy những điều u ẩn huyền diệu khác với đạo thường mà lấy những điều hợp với bản tính loài người để dạy con người. Có người hỏi về sự sống chết, Khổng Tử trả lời : "Vị tri sinh, yên tri tử?", nghĩa là chưa biết được việc sống, làm sao biết được việc chết? Nói đến Quỷ thần, Khổng Tử bảo : "Quỷ thần kính nhi viễn chi ". Quỷ thần thì nên kính mà không nên đến gần.
Về tế tự, Nho Giáo chú trọng đến nghi lễ tế Trời. Trời được quan niệm như là một Chúa Tể càn khôn, sinh hóa muôn vật, chủ trì vận mệnh của vũ trụ và con người. Vua, tức Thiên Tử, mới có quyền tế Trời để cảm thông giữa Trời Đất với con người. Tục này có từ thời Phục Hy. Tại Huế, Vua Gia Long có xây một đàn Nam Giao (Nam là phương Nam. Giao là khoảng cách kinh thành 100 dặm) ở làng An Cựu, phía Nam thành phố Huế. Hàng năm vua tới đó để tế Trời, gọi là tế Nam Giao. Đến thời Pháp thuộc, ba năm mới tế một lần. Lần tế Nam Giao cuối cùng là ngày 29.3.1942 do vua Bảo Đại chủ tế.

Nhìn qua lịch sử, chúng ta thấy trong Tam Giáo, đạo Nho được người Trung Hoa cũng như người Việt Nam trọng hơn cả. Đạo Nho đã ăn sâu vào lối suy tư và nếp sống của người Việt Nam. Phật Giáo cũng có lúc thịnh, nhưng chỉ thịnh có một thời, rồi lại nhường chỗ cho Nho Giáo. Ngay cả trong thời cực thịnh của Phật Giáo như thời Lý-Trần, Nho Giáo cũng được dùng để trị quốc và giáo hóa dân. Khi đề cập đến Nho Giáo tại Việt Nam, Toan Ánh đã viết :

"Ảnh hưởng của Nho Giáo hiện nay vẫn còn vững chắc trong đời sống của dân chúng Việt Nam, và những phong tục của dân ta, rất nhiều bị chi phối bởi Nho Giáo, nếu không bắt nguồn hẳn từ Nho Giáo."

Thật ra, ngày nay Nho học không còn thực dụng và đã trở thành môn cổ học. Nho Giáo đã được cải biến. Trong tam cương (vua tôi, cha con, vợ chống) thì đạo quân thần (vua tôi) không còn nữa, nhưng đạo phụ tử, phu phụ vẫn được người Việt quý trọng. Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) vẫn còn là đạo làm người của người Việt Nam. Tứ hạnh (hiếu, đễ, trung, tín) và tứ duy (lễ, nghĩa, liêm, sỉ) của người con trai vẫn là tiêu chuẩn để đạt tới càng gần càng tốt. Trong tam tòng của người con gái thì trách nhiệm tòng phụ, tòng phu và tòng tử đã được giảm nhẹ đến mức tối thiểu. Người phụ nữ không còn bị ràng buộc chặt chẽ như ngày xưa, nhưng một sự buông lỏng hoàn toàn vẫn không được xã hội Việt Nam chấp nhận. Trong thiệp cưới vẫn còn mấy chữ "vâng lệnh song thân", v.v... Trong tứ đức thì công và dung đã thay đổi nhưng ngôn và hạnh vẫn là những mẫu mực của người con gái đoan chính.

Không phải THIỀN HỌC mà chính những cái còn lại của Nho Giáo đó đã giúp nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam không bị khủng hoảng trầm trọng khi tiếp xúc với nền văn hóa Tây phương và xã hội chủ nghĩa.
3.- Vài nét về Lão Giáo
Lão Giáo phát sinh tử Lão Tử. Lão Tử người nước Sờ, họ là Lý, tên là Đam, sinh năm 604 trước Tây Lịch, qua đời năm 523 trước Tây Lịch, thọ 81 tuổi.

Lúc đầu, Lão Giáo là một môn triết học cao siêu. Lão Tử cho rằng ngay từ lúc hỗn mang chưa có Trời Đất thì đã có Đạo rồi. Đạo là hư vô, muôn vật do Đạo mà sinh ra. Muốn đạt tới mục đích của Đạo phải giữ lòng trong sạch, yên lặng, tự nhiên, không cần dùng tới trí lực. Tất cả được tóm lược trong mấy chữ "thanh tịnh vô vi".

Về sau, các đệ tử của Lão Tử thêm phần phép biến hóa và chế linh đan để thành tiên, trường sinh bất tử và phần thuật số, tu luyện đạo phù thủy, v.v... Vì thế, những người theo Lão Giáo được gọi là Đạo Sĩ. Các đạo sĩ tin rằng luyện được đạo phù thủy thì có thể sai khiến được âm binh, diệt trừ ma quỷ. Mỗi thầy phù thủy lập một ngôi Tĩnh để thờ các thần của đạo Lão và dùng làm nơi lập ấn bắt quyết, cầu khẩn khi trừ tà. Đồng cốt và Cô Hồn cũng do các đệ tử của Lão Tử bày ra. Đồng cốt thờ chư vị như Liễu Hạnh Công Chúa, Cửu Thiên Huyền Nữ, các vị hoàng tử, các cậu các cô, v.v... Không phải ai cũng có thể lập điện thờ hay lên đồng được. Chỉ những người có "căn đồng" mới làm được các việc này. Cô hồn là người gọi hồn cho những ai muốn gọi để cầu xin hay hỏi chuyện nọ chuyện kia. Hồn nhập vào xác người gọi nên xác người này được gọi là xác cậu hay xác cô và muốn xác này để nói. Phụ Tiên cũng là một hình thức gọi hồn, nhưng người nhập là một vị tiên chớ không phải âm hồn người chết như khi gọi hồn. Cô hồn thờ ông Chiêu và bà Dí, tức hai người có nhiệm vụ đi chiêu âm hồn muốn gọi. Một biến thể khác của đạo Lão được nhiều người Việt Nam ưa thích và tin tưởng là tục xin thẻ hay xin xăm. Đây cũng là một hình thức vấn sự như bói toán.
Những mê tín dị đoan nói trên được giới bình dân, nhất là những người ít học, tin tưởng.

4.- Vài nét về Phật Giáo
Nguyên tổ của đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni, sinh tại Ấn Độ. Không ai biết chắc Ngài sinh năm nào. Đạo phái phía Bắc cho rằng Ngài sinh vào năm 1028 trước Tây Lịch, còn Đạo phái phía Nam nói Ngài sinh vào năm 624 trước Tây Lịch. Các nhà nghiên cứu tin rằng Ngài sinh khoảng từ 558-520 trước Tây lịch, cùng thời với Khổng Tử.
Hòa Thượng Tuệ Giác tóm lược về Phật Giáo như sau :
"Đức Phật Thích Ca nhận thấy cuộc đời là khổ hải tức là biển khổ (sinh, lão, bệnh, tử, v.v...) mà người ta bị trầm luân nghĩa là chìm đắm trong đó.
"Sự khổ ấy, không phải một kiếp này phải chịu mà hết kiếp này sang kiếp khác, cứ sinh tử, tử sinh mãi mãi mà chịu nỗi khổ ấy không bao giờ thôi : tức là người ta ở trong vòng luân hồi nghĩa là cái bánh xe xoay hết vòng lại trở lại mãi.
"Cái nghiệp ta chịu kiếp này là cái quả của công việc ta về kiếp trước mà những công việc ta về kiếp này lại là cái nhân của nghiệp ta về kiếp sau. Thế là ta cứ chịu sự nghiệp báo (karma) ấy mãi.
"Cái nguyên nhân sự khổ là gì ? Chính là lòng tham muốn của người ta : tham sống, tham sướng, tham mạnh.
"Vậy muốn diệt khổ, nghĩa là dứt hết nỗi khổ não thì phải tiêu trừ lòng ham muốn không để cho còn một chút nào. Muốn thế phải dốc chí tu hành, chánh tâm theo đạo để cắt đứt những cái nhân duyên, nó ràng buộc mình ờ trần thế
"Khi đã diệt được khổ rồi, tức là được giải thoát, nghĩa là ta khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo, không sinh, không tử nữa mà tới cõi niết bàn (Nirvâna). "

Thượng Tọa cũng đã nhấn mạnh đến điểm quan trọng trong Phật Giáo là tự cường để giải thoát, nên đừng tin tướng vào các sức mạnh thiêng liêng :
"Ngài (Đức Thích Ca) cho các bậc Trời và các bật thánh không phải không có, song những bậc ấy dù có trường thọ đến mấy muôn năm nữa, rồi cũng không ra khỏi cái biến hóa của vũ trụ.
"Vậy trời, thánh tự mình chưa giải thoát được mình, còn giải thoát cho ai ?
"Bởi lẽ ấy cho nên đạo Phật không lấy sự cầu nguyện trời, thánh làm trọng, không nương tựa vào sức thiêng liêng nào ở ngoài cái TÂM của mình cả và chỉ vụ lấy cái sức tự cường của minh mà giải thoát cho mình."(10)
Đây là những đặc điểm cốt lõi của Phật Giáo mà đa số người Tàu và người Việt Nam theo Phật Giáo không biết đến khi phối hợp Phật Giáo với mê tín dị đoan trong tín ngưỡng của họ và làm biến thể Phật Giáo như chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.
b) Sự trộn lẫn giữa mê tín dị đoan và Tam Giáo hòa đồng trong tín ngưỡng của người Việt Nam
Sau khi trình bày qua những nét đại cương về mê tín dị đoan của người Tàu cũng như người Việt và Tam Giáo, chúng ta thấy rõ tín ngưỡng của đa số người Việt Nam là tín ngưỡng bao gồm Tam Giáo hòa đồng và mê tín dị đoan.
Đạo Lão gần gũi với đạo Phật hơn đạo Nho. Về căn bản, Lão Giáo và Phật Giáo hoàn toàn khác nhau : Lão Giáo lấy bản thể làm Đạo và theo đạo pháp Tự Nhiên, coi vũ trụ vạn hữu đều do Tự Nhiên mà sinh ra. Trong khi đó Phật Giáo lấy bản thể làm Tâm, cho rằng vạn vật có đều do Tâm. Nhưng hai tư tưởng Phật Giáo và Lão Giáo giống nhau về khuynh hướng siêu hình và tiêu cực đối với nhân sinh. Do đó, nhiều Đạo Sĩ đã mượn Phật Giáo để triển khai Đạo Giáo, còn các Thiền Sư của đạo Phật đã dùng hệ thống lập thuyết của đạo Lão để giảng giải Phật học.
Đời Hán đã có luận thuyết hỗn hợp tương đồng hay phụ hội giữa Phật gia và Đạo gia. Đến đời Tấn, đời Lục Triều, Phật và Lão rất gần nhau. Ảnh hưởng này về sau sinh ra trào lưu "Nho - Thích - Đạo, Tam Giáo đồng nguyên". Trào lưu này làm cho Phật Giáo biến thể.(11)
Trong tiến trình tiến tới siêu thoát, người Hoa và người Việt hướng về Lão Giáo và Phật Giáo. Còn trong việc xử thế, người Hoa và người Việt lại coi Nho Giáo như khuôn vàng thước ngọc. Mê tín dị đoan là niềm tin nơi sự tế độ của thần linh, nhất là những khi gặp tình trạng bấp bênh, bệnh tật hay hoạn nạn trong cuộc sống. Người ta coi Phật như một vị thần linh có thể ban phước hay cứu độ, nên đã cầu Phật như cầu các vị thần linh khác.
Tam Giáo và mê tín dị đoan ảnh hưởng đến tín ngưỡng, văn hóa và tập quán Trung Hoa, rồi truyền sang Việt Nam, ăn sâu vào cuộc sống của người dân Việt Nam, nhất là các thành phần ít học. Tục thờ thần, thờ cúng ông bà, Thần Tài, Quan Công (Quan Vân Trường), Phật Bà Quan âm, Thánh Mẫu, ... phổ biến khắp nơi. Vào dịp Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Rằm tháng Bảy, Tết Trung Thu, lễ khánh thành, lễ tất niên, lễ tân niên ... người Hoa lẫn người Việt đều theo những nghi thức, những tập tục và những kiêng kị mang nặng tính chất dị đoan giống nhau. Rất nhiều chuyện thần bí liên quan đến đạo Phật được truyền tụng khắp trong nhân gian như chuyện Lão Tử thành Phật ở đất Hồ, chuyện Quan âm Nam Hải, Quan âm Thị Kính, chuyện tự ý đầu thai, chuyện giáng hổ, v.v... Sự tích của các cao tăng cũng được huyền thoại hóa như những chuyện hoang đường, điển hình là chuyện Từ Đạo Hạnh. Vua Trần Nhân Tông khi đã xuất gia thường đi về các thôn làng khuyên dân từ bỏ việc thờ cúng các hình lõa thể và bộ phận sinh dục, vì lúc đó việc thờ các dâm hình này rất phổ biến. Năm 1951, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thành lập Hội Phật Học, đã phát động chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cúng sao, cúng hạn, đốt giấy tiền vàng bạc, v.v... Khi bàn về những mê tín dị đoan của đạo Phật thời nhà Lý, Nguyễn Lang đã kết luận :
"Tính chất mê tín dị đoan của Phật Giáo đời Lý có thể còn ít hơn tính chất mê tín dị đoan ở những thời đại Phật Giáo suy đồi như trong thời Lê Sơ và trong thời Pháp thuộc."(12)
Nhưng Phật Giáo không phải chỉ bị trộn lẫn với mê tín dị đoan và đạo thờ thần ở trong nhân gian mà thôi, mà còn ờ ngay trong giới tăng sĩ của Phật Giáo nữa. Trong cuốn Những Vấn Đề trong Đạo Phật, Thượng Tọa Thích Chánh Lạc đã ghi nhận :
"Thế nhưng ngày nay thì sự thờ tự đã phức tạp nhiều. Một ngôi chùa đúng lý chỉ để thờ Tam Bảo, nhưng lại thờ luôn cả Quan Thánh, Ngọc Hoàng, Thánh Mẫu, Thập Điện như nhiều chùa ở Trung, Nam. Và thờ luôn cả Khổng Minh Không, Thánh Mẫu như nhiều chùa ở Bắc Việt, đây là chưa nói còn thờ nhiều hình tượng khác mông lung vô nghĩa. Hình như bất cứ tượng gì hễ lọt vào mắt nhà chùa cũng trở thành linh thiêng, đưa vào chùa thờ được cả. Có người không thờ tại chùa, lại bày vẽ, hoặc a tòng với những nơi thờ tự tà mị yêu quái. "(13)
Nho Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo Đại Thừa, tuy khác hẳn nhau về căn bản tín ngưỡng, nhưng lại được người Tàu cũng như người Việt tin tưởng lẫn lộn như là một tín ngưỡng. Phật Giáo, nếu không trộn lẫn với Lão Giáo, Nho Giáo và mê tín dị đoan thì rất khó hội nhập vào đời sống của đại chúng.
Nói tóm lại, về phương diện văn hóa và tín ngưỡng, đa số người Việt Nam không phân biệt đâu là ranh giới giữa Nho Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo và mê tín dị đoan. Sự lẫn lộn này đã làm biến thể đạo Phật khiến Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu, một nhà nghiên cứu Phật học nổi danh của Việt Nam trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đã phải than :
"Đau đớn thay, lạ lùng thay ! Muốn bênh vực rằng Phật Giáo không phải là một đạo mê tín hoang đường, thì sờ sờ ra đó biết bao nhiêu là việc huyền hoặc hoặc dị đoan ! Muốn bào chữa cho Phật Giáo không phải là một đạo hữu thần, thì nhan nhản ra đó cũng cầu xin, cũng chuộc tội, có khác nào những kẻ ỷ lại thần quyền. "(14)
Thượng Tọa Thích Tuệ Giác cũng có nhận định tương tự:
"Thời kỳ suy đồi : (từ thế kỷ XV tức là từ đời Hậu Lê). Phật Giáo bị phái nhà Nho công kích không được nhà vua săn sóc đến nữa, lâu dần thành một tôn giáo của dân chúng, không có tổ chức, hệ thống gì nữa, các tăng ni phần nhiều là ít học, bày ra các mối dị đoan, các lễ nghi phiền phức, còn giáo lý cao siêu của nhà Phật ít người hiểu đến. "(15)
Sử gia Trần Trọng Kim, người có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng về tam giáo tại Việt Nam, trong một buổi thuyết giảng về Phật Giáo tại chùa Sứ Quán Hà Nội ngày 11.1.1936, cũng đã cảnh cáo :
"Ai đem sự mê tín mà theo đạo Phật là người làm điều trái hẳn với đạo Phật ... "(16)
Lão Giáo đi vào quần chúng không phải do triết lý cao siêu của Lão Tử mà do các biến thể mà đệ tử của ông thêm vào. Cũng vậy, ít ai hiểu được triết lý cao siêu của đạo Phật. Nếu không có sự lẫn lộn giữa Phật Giáo với những mê tín dị đoan và Lão Giáo, làm sao Phật Giáo có thể trở thành đạo quần chúng như ngày nay ? Ngay cao tăng Vạn Hạnh còn xử dụng cả sấm ngữ và khoa độn số, làm sao Phật tử không hướng về mê tín dị đoan, Lão Giáo và Khổng Giáo?
Lichtenberg đã nói : "Để cho quần chúng thích tôn giáo, điều tối cần là tôn giáo phải giữ lại những cái gì của thị hiếu dị đoan." Nhưng nếu gom tất cả số người Việt Nam theo Tam Giáo hòa đồng và mê tín dị đoan vào con số Phật tử có nghĩa là chấp nhận sự biến thể của đạo Phật.
Con số thống kê về số tín đồ của mỗi tôn giáo tại Việt Nam hiện nay với những ghi chú mà cuốn niên giám The Almanac of The Christian World đã công bố là một tài liệu đáng chú ý. Tài liệu thống kê đó đã coi những người vừa tin ở triết lý của đạo Phật, vừa theo Khổng Giáo, vừa tin thần linh và phù thủy, là Phật tử. Nhưng thử hỏi, một người sáng đi chùa niệm Phật, trưa vào Lăng Ông xin xăm, chiều thắp nhang trong miếu cầu xin ngày mai thượng lộ được bình an và tối đưa con tới thầy phù thủy nhờ chữa bệnh, người đó đã theo tôn giáo nào ? Họ là Phật tử ?
Trong cuốn No More Vietnams, Cựu Tổng Thống Richard Nixon nói rằng người ta ước lượng số tín đồ Phật Giáo là 70%, nhưng con số thật sự chỉ khoảng 30%.(17) Nếu cơ quan tình báo Hoa Kỳ chỉ ước lượng căn cứ vào số người theo Phật Giáo thuần túy thì con số đó có lẽ không sai.
Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã từng cho biết số người khai là Phật Giáo trong thẻ Chứng Minh Nhân Dân (tức thẻ căn cước) rất ít so với số người khai không tôn giáo hay đạo ông bà. Trái lại, các tín đồ Thiên Chúa Giáo, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo thường khai rõ tôn giáo của họ.
Tự tuyên xưng tín ngưỡng trước bạo quyền Cộng Sản là biểu hiện chính xác nhất tín ngưỡng của mỗi người dân.
Nếu chấp nhận phương châm "quý hồ tinh bất quý hồ đa" thì những con số "phần trăm" không có ý nghĩa gì cả. Người ta chỉ chú trọng hay thổi phồng những con số "phần trăm" khi muốn đòi những đặc quyền đặc lợi mà thôi. Nhưng đó không phải là mục tiêu chân chính mà các tôn giáo muốn đạt tới.
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO VÀO SỰ TỒN VONG CỦA DÂN TỘC
Yếu tố thứ hai mà nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung muốn nhấn mạnh là sự đóng góp của Phật Giáo vào sự tồn vong của dân tộc. Trong phần phân tích về tín ngưỡng của người Việt Nam nói trên, chúng ta đã thấy tín ngưỡng của đa số người Việt Nam là thờ thần linh và Tam Giáo hòa đồng, trong đó đạo Nho đóng vai trò quan trọng. Trong Việt Nam Sử Lược, khi viết về Nho Giáo, sử gia Trần Trọng Kim, một người sùng đạo Phật, đã kết luận:
"Đạo Nho mỗi ngày một thịnh, dẫu trong nước có đạo Lão, đạo Phật mặc lòng, bao giờ đạo Nho vẫn là trọng hơn".
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, chúng ta thấy Phật Giáo chỉ thật sự tham chánh dưới thời Lý-Trần mà thôi, trong các thời khác Nho Giáo đóng vai trò chủ yếu trong sự tồn vong của quốc gia. Ngay cả khi Phật Giáo được coi là quốc giáo và các Thiền Sư giữ chức vị Quốc Sư như dưới thời Lý - Trần, sự đóng góp của Phật Giáo cho sự thịnh vượng và văn hóa của dân tộc Việt Nam cũng không nhiều so với đạo Nho. Lúc đó, hết một phần ba tài sản quốc gia nằm trong tay nhà chùa và số tăng sĩ gần bằng một nửa số đinh phu (người có thể làm công dịch) khiến lực lượng sản xuất và chiến đấu của quốc gia giảm hẳn đi. Đó là chưa nói đến việc nếu không có sự kiên định của nhà Nho, các Thiền Sư Phật Giáo đã để mất nước rồi. Khi Vua Trần Nhân Tông, một Thiền Sư của Phật Giáo, đã theo lòng từ bi của đạo Phật, định hàng quân Nguyên cho dân khỏi khổ, thì Trần Hưng Đạo, với khí phách của đạo Nho, đã hỏi vua Phật Giáo: "Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tông Miếu Xã Tắc thì sao?" Chính cái khí phách của đạo Nho đã khiến quân ta đại thắng quân Nguyên. Phần nói về Phật Giáo dưới đời Lý - Trần mà chúng tôi trình bày dưới đây sẽ chứng minh điều đó.
HỆ QUẢ CỦA VIỆC ĐỒNG HÓA PHẬT GIÁO VỚI DÂN TỘC
Giả thiết đa số người Việt Nam theo Phật Giáo và Phật Giáo đã đóng góp rất lớn vào sự tồn vong và văn hóa dân tộc, thì một sự đồng hóa Phật Giáo với dân tộc để đưa Phật Giáo lên địa vị độc tôn cũng sẽ đem lại những hệ quả không có gì tốt đẹp : Chủ trương đó mang tính chất kỳ thị các tôn giáo và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của lịch sử nhân loại. Ngày nay, quyền tự do tín ngưỡng và quyền bình đẳng giữa các tôn giáo đã được ghi vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Hiến Pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia cộng sản.
Điều 1 của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền tuyên bố :
"Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi".
Điều 2 của bản Tuyên Ngôn này xác định :
"Mỗi người đều có quyền hưởng các quyền và tự do dự liệu trong bản Tuyên Ngôn này, không phân biệt thứ loại như chủng tộc, màu sắc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị và ý kiến khác biệt, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc các tình trạng khác."
Hiến Pháp Hoa Kỳ cấm cơ quan lập pháp không được biểu quyết các đạo luật đưa một tôn giáo là quốc giáo. Tu Chính Án I (1791) của Hiến Pháp Hoa Kỳ nói rõ :
"Quốc Hội không được làm luật suy tôn việc thiết lập tôn giáo hay ngăn cấm việc hành xử quyền tự do tôn giáo"
Một chế độ độc tài như chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay mà còn phải quy định ở điều 70 bản Hiến Pháp 1982 như sau:
"Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật."
"Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước."

Tại Nga, khi vừa thoát khỏi chế độ cộng sản, một số tín đồ của Chính Thống Giáo, một tôn giáo của đa số, đã làm một dự luật hạn chế sinh hoạt tôn giáo của một số tôn giáo khác như Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, v.v. Dự luật này đã được phe đa số theo Chính Thống Giáo trong Quốc Hội Nga thông qua. Nhưng ngày 14.7.1993, Tổng Thống Yeltsin đã phủ quyết với lý do dự luật này vi phạm các hiệp ước quốc tế về nhân quyền mà Nga đã ký kết. Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung chưa nắm được chính quyền mà đã đòi xâm phạm quyền tự do tôn giáo của người khác! Chúng ta không hiểu trong 30 năm qua họ đã tranh đấu cho cái gì? Tranh đấu cho sự độc tôn?
Vậy, không thể căn cứ vào nguồn gốc, số đông hay sự đóng góp của một tôn giáo để dành địa vị độc tôn cho tôn giáo đó và loại trừ các thành phần khác ra khỏi cộng đồng dân tộc.
Hoa kỳ là hợp chủng quốc, trong đó đa số theo Thiên Chúa Giáo, nhưng các dân tộc thiểu số không đồng tôn giáo với đa số như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Cam bốt, ... vẫn được đối xử bình đẳng và tạo điều kiện cho góp phần vào việc xây dựng đất nước Hoa Kỳ. Nếu những người theo Thiên Chúa Giáo tại Hoa Kỳ căn cứ vào số đông và sự đóng góp cho quốc gia này của họ để đồng hóa Thiên Chúa Giáo với dân tộc Hoa Kỳ và đòi địa vị độc tôn thì làm sao Phật Giáo Việt Nam có chỗ đứng ngày nay tại Hoa Kỳ?
Cũng vậy, tại Việt Nam, chúng ta không thể căn cứ vào sự đóng góp của số đông dân tộc Việt Nam trong cộng đồng quốc gia để loại trừ các dân tộc thiểu số khác như Mường, Mán, Mèo, Lô lô, Khmer, Trung Hoa v.v.
Quan trọng hơn nữa, ĐẠO là con đường đưa tới CHÂN LÝ, mà CHÂN LÝ thì vượt qua thời gian và không gian. Dân tộc này hay dân tộc kia có thể bị tiêu diệt, nhưng CHÂN LÝ vẫn còn mãi mãi. Nếu đạo Phật là đường đưa tới CHÂN LÝ, tức tới nơi không còn đau khổ nữa, thì làm sao dính liền với vận mạng của một dân tộc được?
Trong bài Bản chất dung hòa và hóa giải dân tộc của Phật Giáo đăng trên Bông Sen số 3 tháng 12 năm 1991, Nguyễn Điều viết dè dặt hơn :
"PHẬT GIÁO tôn trọng đúng mức Ý NGHĨA của hai chữ DÂN TỘC! Ngay cả khi Phật Giáo được sự tín nhiệm của đa sô dân chúng VN (giả sử như vậy), Phật Giáo cũng không dám lẫn lộn giữa hai sự ĐẠI DIỆN là đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam, và đại diện cho tôn giáo lớn là Phật Giáo!"
***
Nhìn chung, chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc không dựa trên một nền tảng vững chắc mà chỉ dựa trên hư cấu. Sự tự đồng hóa Phật Giáo với dân tộc này nhắm vào mục tiêu chính trị : Đưa Phật Giáo lên nắm vai trò chủ yếu trong nền chính trị quốc gia. Phật Giáo ở đây phải được hiểu là nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong tông phái Ấn Quang, vì nhóm này luôn coi họ là Phật Giáo chính thống, đại diện cho toàn thể Phật Giáo Việt Nam. Các tông phái khác chẳng những không được thừa nhận mà có khi còn bị bài xích hay tấn công một cách nặng nề.
Những lời phát biểu về chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc thực chất chỉ là "đại ngôn vô đương" (nói cho sướng miệng), sẽ không giúp ích gì cho cho Giáo Hội Ấn Quang trong nỗ lực tìm kiếm một thế đứng mới, trái lại sẽ tạo thêm nhiều khó khăn chồng chất trên con đường muốn vượt qua.
II- VẤN ĐỀ TRỞ LẠI THỜI ĐẠI CỦA PHẬT GIÁO DƯỚI THỜI LÝ-TRẦN:

Hiện nay chúng ta thấy báo chí Phật Giáo đề cập rất nhiều đến Phật Giáo dưới đời Lý-Trần và một số người cho rằng phải đưa Việt Nam trở về thời đại Lý-Trần, đất nước mới cường thịnh được. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem dưới thời đại Lý-Trần, tình trạng chính trị, đạo lý, văn hóa và xã hội Việt Nam như thế nào.
Lịch sử cho biết, thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật Giáo tại Việt Nam là từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ XIV, nhất là dưới thời Trần Thánh Tôn (1023 - 1072), Trần Anh Tôn (1136 - 1175) và Trần Cao Tôn (1173 - 1210). Trong giai đoạn đó, các vua theo đạo Phật, tăng sĩ làm Quốc Sư, Phật giáo trở thành quốc giáo và được đặc biệt ưu đãi.
a) Lý do Phật Giáo đời Lý-Trần trở thành quốc giáo.
Trong Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim có kể lại :
"Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm-thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ- pháp tên là Lý khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý công Uẩn.
"Công Uẩn lớn lên vào Hoa-lư làm quan nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân-vệ Điện-tiền Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán-giận nhà Tiền-Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn lên làm vua.
Lý công Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế, tức là vua Thái-tổ nhà Lý. (18)
Trong cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển, Trịnh Văn Thanh chép:
"Vạn Hạnh Thiền Sư, tên một cao tăng đời Lý gọi là Sư Vạn Hạnh. Người quê ở Cổ Pháp, thuộc Phủ Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh (Bắc Phần).
"Thủa nhỏ Sư Vạn Hạnh rất thông minh, có sách chép ông đã học khắp Tam Giáo và nhất là chuyên tâm lo khảo cứu rất nhiều kinh luận nhà Phật. Ngoài ra, Thiền Sư còn giỏi về sấm ngữ và khoa độn số.
"Năm 20 tuổi, ông xuất gia tu Phật và theo thụ giáo với Thiền ông Đạo Giả, tức là đời pháp thứ hai của phái Tỳ-ni-đa lưu-chi. Đinh Huệ Thiền Sư là bạn đồng môn với ông.
"Năm 1010, nhờ khoa độn số, ông đã đoán biết vận nhà Lê đã mạt, Thiền Sư hội ý với Đào Cam Mộc mà tôn Lý Công Uẩn lên làm vua.
"Vua Lê Đại Hành và vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn) lúc còn nhỏ được thụ giáo với Sư Vạn Hạnh. Và đến khi lên ngôi Hoàng Đế thường với Thiền Sư vấn kế về việc trị nước.
"Năm 1018 (tức năm Mậu Ngọ), Thiền Sư Vạn Hạnh tịch."(19)
Lý Công Uẩn lúc nhỏ sống nhờ cơm chùa, thụ giáo với sư, được Sư Vạn Hạnh lập mưu với Đàm Cao Mộc đưa lên làm vua, nên khi cầm quyền tất nhiên phải đưa Phật Giáo lên làm quốc giáo và tôn nhà sư làm Quốc Sư, chuyện đó không có gì đáng ngạc nhiên.
b) Những ưu đãi dành cho Phật Giáo đời Lý - Trần
1.- Những ưu đãi dưới đời nhà Lý
Vua Lý Thái Tổ rất trọng đãi các nhà sư, lấy tiền trong kho nhà nước ra làm chùa và đúc chuông. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018), vua sai hai quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc qua Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng. Kể từ đó đạo Phật phát triển rất nhanh.
Nhà Lý đã tổ chức độ tăng để chọn người xuất gia. Có ba đợt độ tăng quan trọng vào các năm 1916, 1019 và 1134. Mỗi đợt có khoảng 1.000 người ở Thủ Đô Thăng Long được chọn để xuất gia.
Các chùa được xếp vào loại danh lam thắng cảnh đều được triều đình cấp ruộng đất. Đối với các chùa không được cấp ruộng đất, dân chúng cúng dường ruộng đất hay lương thực cho các tăng ni sinh sống. Các tăng ni không phải lo gì đến sinh kế.
Vì đời sống và địa vị của các tăng sĩ được nâng cao nên số người xuất gia tăng nhanh, không còn kiểm soát được, làm phát sinh nhiều tệ trạng. Có người xuất gia vì muốn trốn nghĩa vụ quân sự, có người xuất gia chỉ vì sinh kế gặp khó khăn, v.v. Năm 1179, vua Lý Cao Tông phải ra lệnh khảo hạch lại các Tăng quan. Năm 1198, vua ra lệnh gạn lọc và sa thải bớt các tăng sĩ không xứng đáng. Tăng trở thành một thứ công lại. Mọi việc tuyển mộ, khảo hạch, thăng chức, sa thải ... đều do triều đình quyết định.
Đến đời Lý Cao Tông (1 176 - 1210), Nho sĩ Đàm Dĩ Mộng đã tâu lên vua như sau :
"Bây giờ tăng đồ gần bằng số đinh phu (người có thể làm công dịch), chúng tự kết bè, bầu chủ, họp nhau thành từng bầy, chúng làm những việc bẩn thỉu hoặc ở giới trường, tĩnh xá mà công nhiên rượu thịt, hoặc ở trong trai phòng tĩnh viện mà âm thầm gian dâm. Ngày ẩn tối ra, thật như một đàn cáo chuột, chúng làm bại tục phương giáo, dần dần thành thói quen, nếu không cấm thì càng ngày càng thêm quá lắm."(20)
2.- Những ưu đãi dưới đời nhà Trần
Dưới thời nhà Trần, nhất là từ Trần Thái Tông (1225 - 1258) đến đời Trần Thuận Tông (1388 - 1398), Phật Giáo hoàn toàn được ưu đãi. Vua theo các Thiền Sư học đạo Phật thì giới trí thức cũng phải theo học đạo Phật để được trọng dụng. Các khoa thi Tam Giáo được mở ra. Tôn giáo cũng được coi như một môn phải học khi muốn ra làm quan. Vua theo Phật Giáo nên cung cấp tiền xây chùa, đúc tượng, đúc chuông và cấp ruộng cho các chùa sinh sống.
Thời cực thịnh nhất của Phật Giáo là thời Trần Anh Tông (1293 - 1314), tăng sĩ được triều đình cấp Độ Diệp, tức chứng minh thư. Độ Diệp được coi như một thứ bùa hộ mệnh, đi đến chùa nào cùng môn phái đều được chu cấp đầy đủ.
Các cao tăng được chọn làm Quốc sư giúp vua trị nước. Có rất nhiều Thiền Sư xuất thân từ Sơn Môn Yên Tử đi làm Quốc Sư như Viên Chứng, Đại Đăng, Tông Cảnh, Bảo Phác, Phù Vân, Vô Trước, Quốc Nhất... Đặc biệt có hai Quốc Sư nổi tiếng đời Trần Thái Tông (1225 - 1258) là Trúc Lâm Quốc Sư ở núi Yên Tử (đừng lầm với Thiền Sư Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông) và Đại Đăng Quốc Sư, anh em đồng sư với vua Trần Thái Tông.
Chùa chiền mọc lên khắp nơi. Vua xây chùa, quan xây chùa, dân cũng xây chùa. Vào đời nhà Trần có khoảng 9.500 ngôi chùa. Tượng Phật được đúc dưới mọi hình thức. Riêng phái Pháp Loa thuộc Trúc Lâm đã đúc đến 1.300 tượng Phật lớn nhỏ.
Các tự viện được triều đình cấp ruộng. Vua Trần Anh Tông lấy 100 mẫu ruộng của triều đình cúng cho chùa Bảo Ân của tông phái Trúc Lâm và 500 mẫu để phân phát cho các chùa khác. Riêng chùa Quỳnh Lâm đã có trên 1.000 mẫu ruộng. Tại chùa này, triều đình chỉ định 1.000 canh phu đến cày ruộng cho chùa. Đối với các chùa không được cấp canh phu, triều đình cho lập chế độ tam bảo nô, quy gồm những kẻ mồ côi được chùa nuôi dưỡng, những kẻ phạm pháp được chùa bảo lãnh và những người cúng hết ruộng cho chùa rồi xin vào hàng ngũ tam bảo nô. Những người gia nhập tam bảo nô được cấp đất làm nhà và canh tác. Để đổi lại, họ phải cày ruộng cho chùa.
Do sự ưu đãi giới tăng sĩ của triều đình, số người xuất gia ngày càng đông, lên gần bằng số đinh phu (tức người có thể làm công dịch). Riêng tông phái Trúc Lâm đã có 15.000 tăng. Tổng số tăng trên toàn quốc không dưới 75.000 người. Thời đó, giặc giã liên miên, hết đánh Chiêm Thành lại đánh Tàu. Mọi công dân đến tuổi đều phải thi hành nghĩa vụ quân sự, ngoại trừ những người xuất gia, nên cửa thiền trở thành một nơi ẩn náu tốt cho những người trốn tránh nghĩa vụ quân sự.
3.- Lập Giáo Hội nhà nước
Năm 1278, vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Khâm (1258 - 1309). Ngày 12 tháng 2 năm Mậu Dần, Thái Tử Trần Khâm lên ngôi, tức Trần Nhân Tông. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyên, tức Trần Anh Tôn, rồi về Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng, sau đó xuất gia. Ông học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ và coi như đã đạt được cốt tủy của thiền. Năm 1299, ông vào núi Yên Tử, tinh cầu tu 12 hạnh đầu đà và tự xưng là Hương Vân Đại Đầu Đà, sau đó trác tích tại chùa Sùng Nghiêm, núi Chí Linh. Ông là người có công rất lớn với đạo Phật, lập ra phái thiền tông Phật Giáo Trúc Lâm, một Giáo Hội nhà nước. Ông qua đời khi mới 51 tuổi, được vua Trần Anh Tông tôn là "Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật." Nối nghiệp ông có Pháp Loa, Pháp Không, Pháp Cổ, Pháp Đăng, Bảo Sát, v.v.. (21)
Vì Phái Trúc Lâm do vua cha là Trần Nhân Tông lập, nên được con là Trần Anh Tông giúp phát triển mạnh mẽ. Phái này thiết lập được nhiều cơ sở lớn như các chùa Báo Ân, Siêu Loại và Quỳnh Lâm và trở thành một tông phái Phật Giáo độc tôn, quy tụ khoảng 15.000 tăng sĩ. Vì tông phái Trúc Lâm được triều đình giúp đỡ quá mức khiến các nhà Nho ghen tỵ. Lê Bá Quát đã khuyên vua nên lấy tiền xây chùa và đúc tượng để xây văn miếu và trường học. Trương Hán Siêu, chấp chánh dưới bốn triều vua nhà Trần là Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông, lên đến chức Tham Trị Chính Sự, đã viết trong bia chùa Quang Nghiêm như sau:
"Chùa nát mà xây lại, là không phải ý ta. Bia dựng mà khắc, việc gì ta nói. Nay ta gặp Thánh triều muốn mở mang phong hoá tốt và sửa lại các tục đồi bại. Dị đoan phải trừ bỏ đi. Đã gọi là kẻ đại sĩ phu, nếu không phải đạo vua Nghiêu vua Thuấn thì không nên bày tỏ, nếu không phải đạo thầy Khổng thầy Mạnh thì không nên trứ thuật..."
Trong bài Ký tháp Linh Tế, ông công kích thẳng đạo Phật :
"Nhiều người thờ phụng đạo Phật để cổ hoặc chúng sinh, trong thiên hạ ba phần, chùa chiếm ở một phần, bỏ dứt luân thường, hao tổn của báu, ngây ngây mà chơi, ngẩn ngẩn mà theo, mà không hóa ám yêu quỷ gian tà, ấy cũng ít vậy, và còn là ác nữa sao nên.(22)
c) Những thành quả và hậu quả
Chúng ta hãy tìm hiểu xem trong thời kỳ Phật Giáo hưng thịnh, các tăng sĩ tham chánh và nhiều cao tăng được chọn làm Quốc Sư, nhà Lý và nhà Trần đã đạt được những thành quả đặc biệt gì.
1.- Về phương diện chống ngoại xâm
Ai cũng nhìn nhận rằng dưới thời Lý-Trần, Việt Nam đã thắng được hai cuộc xâm lăng vẻ vang, đó là cuộc xâm lăng của nhà Tống (l075 - l078) dưới thời Lý Nhân Tông và cuộc xâm lăng của nhà Nguyên (1284 - 1288) dưới thời Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Lúc đó nước ta có nhiều tướng giỏi như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, v.v. Quân dân một lòng quyết chiến nên thắng trận.
Nhưng ít ai tin rằng dưới thời Lý-Trần, Việt Nam thắng được ngoại xâm là nhờ Phật giáo. Khi giặc ở thế mạnh, vua Trần Nhân Tông, một ông vua sùng đạo Phật và có công lớn với Phật Giáo, đã tính hàng. Vua hỏi Hưng Đạo Vương :
"Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân ?"
Hưng Đạo Vương đã tâu một cách khẳng khái :
"Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tông Miếu Xã Tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã rồi sau sẽ hàng."(23)
Nếu Hưng Đạo Vương không cương quyết, nghe lời Thiền Sư Trúc Lâm, tức vua Trần Nhân Tông, đặt Tông Miếu Xã Tắc dưới đức từ bi của Đạo Phật, thì đã mất nước rồi.
2.- Về phương diện văn học
Nhà Lý và nhà Trần đều chú trọng đến đào tạo nhân tài. Nhưng đây không phải là nỗ lực của Phật Giáo mà là của nhà Nho.
Lý Thánh Tông (1054 - l072) lập văn miếu, làm tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ.
Dưới thời Lý Nhân Tông, có nhà Nho Lý Đạo Thành làm Phụ Chánh đã lo sửa sang việc nước và phát triển văn học. Năm 1075, cho mở khoa thi Tam Trường để lấy người văn học ra làm quan. Năm 1076 lập Quốc Tử Giám để bổ những người văn học vào dạy. Năm 1086 mở khoa thi chọn người văn học vào Hàn Lâm Viện. Nho học bắt đầu phát triển mạnh.
Đầu đời nhà Trần, năm 1232 đã cho mở khoa thi Thái Học Sinh để lấy Tiến Sĩ. Nam 1247 đặt ra Tam Khôi (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) và mở khoa thi Tam Giáo (Nho Thích Lão). Năm 1253, lập Quốc Học Viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tất cả đều là công trình của nhà Nho.
Về phía Phật Giáo, dưới thời Lý-Trần cũng có một số cao tăng am tường về Tam Giáo như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Viên Thông, Mãn Giác, Bảo Giám v.v... Các cao tăng này đã giảng dạy văn học cho các tăng ni và đào tạo một số cư sĩ nổi tiếng như Lý Công Uẩn, Tô Hiến Thành, Ngô Văn Hòa, v.v. Nhưng đa số vua Nhà Trần và các tăng sĩ đã chú tâm nghiên cứu và tu luyện về thiền để phát triển đạo Phật và siêu thoát hơn là lo xây đắp nền văn học dân tộc. Vua Trần Thái Tông soạn bộ Thiền Tông Chỉ Nam, Trần Nhân Tông viết bộ Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Lương Thế Vinh soạn Thiền Môn Khoa Giáo, v.v. Không thấy có tác phẩm quan trọng nào của các thiền sư để lại ngoại trừ một số bài kệ khô khan hay văn bia mà thôi.
3.- Về phương diện đạo lý
Mặc dầu Phật Giáo được vua quan tôn sùng, cao tăng làm Quốc Sư, có rất nhiều chuyện phản đạo lý rất tệ hại đã xẩy ra dưới đời Lý-Trần, những tệ hại này chưa bao giờ có trong các thời kỳ khác.
Năm 1028, Lý Thái Tổ, một ông vua do Phật Giáo đưa lên, vừa qua đời, tế táng chưa xong thì ba hoàng tử là Võ Đức Vương, Dục Thánh Vương và Đông Chinh Vương đã đem quân vây thành để tranh ngôi của Thái Tử Phật Mã. Nhờ tướng Phụng Hiểu dẹp loạn, Thái Tử Phật Mã mới được lên ngôi, tức Lý Thái Tông.
Lý Nhân Tông (l072 - 1127) lên ngôi mới chỉ 7 tuổi. Mẹ là Thái Phi có tính hay ghen ghét, thấy Dương Thái Hậu nắm quyền thì không yên tâm, xui Lý Thánh Tông bắt Thái Hậu và 72 thị nữ giam rồi đem giết.
Chuyện loạn nhân ghê tởm nhất chưa từng có trong lịch sử lại xẩy ra dưới thời Phật Giáo tham chánh, đó là chuyện Trần Thủ Độ dùng những thủ đoạn gian ác, phi luân và bẩn thỉu để cướp ngôi nhà Lý và lập nên nhà Trần, khởi đầu một thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật Giáo.
Cuối đời nhà Lý, Lý Huệ Tông (1211 - 1225) không có con trai, lập Chiêu Thánh công chúa là Phật Kim, mới 7 tuổi, làm Thái Tử. Năm 1224, Huệ Tông truyền ngôi cho con rồi vào tu ở chùa Chân Giáo. Mọi quyền bính nằm trong tay Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ tư thông với Thái Hậu là Trần Thị, mưu cướp cơ nghiệp nhà Lý, cho cháu là Trần Cảnh mới có 8 tuổi lấy Chiêu Hoàng, rồi bắt Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Tháng Chạp năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh lên làm vua, tức Trần Thái Tông, phong Trần Thủ Độ làm Thái Sư Thống Quốc Hành Quân Chinh Thảo Sự.
Lý Huệ Tông, tuy đã nhường ngôi cho con và đi tu, Trần Thủ Độ cũng muốn giết để khỏi lo về sau. Một hôm Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ ở trước chùa Chân Giáo, Trần Thủ Độ đi qua trông thấy, cười và bảo : "Nhổ cỏ thì phải nhổ cái rễ cái nó đi. " Huệ Tông nghe thế, phủi tay đứng dậy và nói : "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi. " Mấy hôm sau, Trần Thủ Độ cho mời Huệ Tông. Huệ Tông biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự vận.
Thái Hậu Trần Thị (vợ của Huệ Tông) được giáng xuống làm Thiên Cực công chúa để Trần Thủ Độ lấy làm vợ, mặc dầu Trần Thị và Trần Thủ Độ là hai chị em họ.
Năm Nhâm Thìn (1232), Trần Thủ Độ cho tổ chức lễ Tiên Hậu nhà Lý ở Thôn Thái Đường, làng Hoa Lâm, huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh. Trần Thủ Độ sai đào hầm, gác cây lên rồi làm nhà lá ở trên và đặt bàn thờ tế lễ. Khi tất cả tôn thất nhà Lý vào tế lễ, Trần Thủ Độ cho giật sập hầm và chôn sống tất cả.
Vua Lý Huệ Tông đã vội bỏ gia đình, thần dân và đất nước, trao ngai vàng lại cho con gái mới có 7 tuổi rồi xuất gia để mong thành Phật khi đất nước đang trong cảnh loạn ly, triều đình rối loạn, mới ra cảnh nông nỗi này.
Chiêu Thánh Hoàng Hậu lấy Trần Thái Tông đã 12 năm mà không con, bị phế xuống làm công chúa, và bắt chị của Chiêu Thánh là vợ của Trần Liễu, mới có thai ba tháng, vào làm Hoàng Hậu. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn.
Sử gia Trần Trọng Kim kết luận : "Làm loạn nhân luân như thế thì từ thượng cổ mới có là một !"
Dưới thời Phật Giáo làm Quốc Sư, chuyện bị phê phán nặng nề nhất là chuyện đánh dẹp Chiêm Thành. Việc chận đứng những sự quấy nhiễu hay dẹp loạn để an dân là điều cần thiết. Ngay cả việc mở mang bờ cõi cũng có thể chấp nhận được Nhưng khi một tôn giáo tham chánh, vua sùng đạo Phật, cao tăng làm Quốc Sư mà để xây ra các vụ tàn sát dã man cả một dân tộc Chiêm Thành là chuyện khó biện minh được. Có lúc lại chính Quốc Sư đích thân cầm quân đi tàn sát Chiêm Thành như trường hợp Hòa Thượng Đại Than ! Một đoạn điển hình sau đây do sử gia Trần Trọng Kim kể lại cũng đủ cho thấy cuộc chiến đó tàn ác như thế nào :
"Năm Giáp Thân (l044), vua Thái Tông ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm Thành thua trận phía nam sông Ngũ Bồ. Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm Thành thua chạy. Quân ta bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi.
"Tướng Chiêm Thành là Quách Gia Gi chém quốc vương là Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.
"Bấy giờ quan quân chém giết người bản xứ rất nhiều, máu chảy thành suối. Thái Tông trông thấy động lòng thương, xuống lệnh cấm không được giết người Chiêm Thành, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.
"Thái Tông tiến binh đến quốc đô là Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Bậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên), vào thành bắt được vương phi là Mị Ê và các cung nữ đem về. Khi xa giá về đến sông Lý Nhân, Thái Tông cho đòi Mị Ê sang chầu bên thuyền ngự. Mị Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự tử. Nay ở Phủ Lý Nhân còn có đền thờ. "
Cuộc chiến tranh Việt Chiêm kéo dài liên tục từ đời Lý qua đời Trần, ngoài phương diện đạo lý bị lên án là quá dã man, còn làm cho tiềm lực quốc gia suy yếu nhiều, đưa nhà Trần đến chỗ sụp đổ.
Các sử gia Phật Giáo có nói đến lòng độ lượng khoan hồng của những ông vua theo Phật Giáo dưới thời Lý Trần như một sự thể hiện đức từ bi của đạo Phật, chẳng hạn Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Cao Trí, vua Lý Thánh Tông không giết vua Chiêm Thành là Chế Củ, Lý Thánh Tông ra lệnh phát mền chiếu và thức ăn đầy đủ cho các phạm nhân bị giam giữ, v.v... Nhưng đây không phải là những nét đặc thù của Phật Giáo. Có nhiều ông vua của Tàu hay Việt Nam không theo đạo Phật cũng đã làm chuyện đó, chẳng hạn vua Quang Trung khi đánh thắng quân Minh,(?) đã ra lệnh đưa tù binh của nhà Minh về Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân và Tân Hưng nuôi nấng rất tử tế, vua Minh Mạng rất sùng đạo Khổng, đã ra lệnh cho các quan trấn Bắc thành lấy tiền kho lập nhà dưỡng tế nuôi những kẻ quan quả, cô độc, tàn tật không nơi nương tựa, v.v...
4.- Giai đoạn cuối cùng
Từ đời Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) trở đi, tình trạng trở nên suy đồi nghiêm trọng :
- Loạn trong triều đình : Trần Nghệ Tông giết Dương Nhật Lễ. Mẹ Nhật Lễ chạy qua Chiêm Thành kêu cứu. Quân Chiêm Thành kéo tới đánh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông phải bỏ kinh đô chạy sang Đông Ngạn. Quân Chiêm Thành đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết các đồ châu báu ngọc ngà đem về.
- Năm 1389, Thiền Sư Thiên Nhiên, tên thật là Phạm Sư Ôn, đã nổi loạn, đem thuộc hạ tiến chiếm Thăng Long, gây tai biến cho triều đình. Sử gia Trần Trọng Kim kể lại :
"Ở Quốc Oai thì có người sư tên là Phạm Sư Ôn nổi lên đem quân về đánh Kinh sư. Thượng Hoàng, Thuận Tông và triều ớ nh phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn lấy được Kinh sư, ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Bấy giờ có Tướng quân là Hoàng Phụng Thế đóng ở Hoàng Giang để giữ phòng quân Chiêm Thành, nghe tin Sư Ôn phạm đất Kinh sư mới đem quân về đánh lẻn bắt được Sư Ôn và phá tan giặc ấy."(25)
- Đến năm 1396, triều đình và Phật Giáo không còn kiểm soát được tăng ni. Vua Trần Thuận Tông phải xuống chiếu thải bớt tăng sĩ dưới 50 tuổi. Phải chăng đây là một hành động nhắm ngăn chận những rối loạn do giới tăng sĩ Phật Giáo gây ra?
- Lê Quý Ly chuyên quyền, bắt vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử là Án mới 3 tuổi, tức Trần Thiếu Đế, rồi xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng. Sau Lê Quý Ly bỏ Thiếu Đế và xưng vương, đổi họ thành Hồ Quý Ly. Nhà Trần sụp đổ và Phật Giáo đi đến chỗ ngày càng suy đồi.
d) Bài học lịch sử
Trước hết, chúng ta hãy nghe sử gia Trần Trọng Kim phê bình về tình trạng chính trị, xã hội và đạo lý dưới thời Lý - Trần, thời kỳ mà Phật Giáo trở thành đạo nhà nước và Thiền Sư làm Quốc Sư :
"Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường-thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ. Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy.
"Nhà Trần làm vua nước Nam ta kể từ Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế, với 12 ông vua, được 175 năm, công việc trong nước sửa sang được nhiều, chính trị luật lệ đều chỉnh đốn lại, học hành thi cử thì mở mang rộng thêm ra. Lại chống với nhà Nguyên giữ được giang sơn, lấy đất Chiêm Thành mở thêm bờ cõi, thật là có công với nước Nam. Nhưng chỉ có điều luân thường trong nhà thì bậy: cô cháu, anh em, trong họ cứ lấy lẫn nhau, thật là trái với thế tục.
"Còn như cơ nghiệp nhà Trần xiêu đổ là tại vua Duệ Tông và vua Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi, không chịu lo gì đến việc nước và lại làm loạn cả cương kỷ để đến nổi dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì không biết phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thế làm loạn, thành ra tự mình nối giáo cho giặc, tự mình làm hại nhà mình vậy."26
Về phương diện đạo lý, trong thời gian Phật Giáo trở thành quốc giáo, Chánh Pháp được phục hưng, tăng sĩ tham chánh và làm Quốc Sư, mà để những chuyện "loạn nhân luân như thế" xẩy ra thì thật đáng tiếc.
Như vậy, Phật Giáo đã có một thời tham chánh lâu dài, vua sùng đạo Phật và một số về sau trở thành Thiền sư, Phật Giáo là quốc giáo, một phần ba tài sản quốc gia về tay nhà chùa (theo Trương Hán Siêu), các cao tăng của Phật Giáo được chọn làm Quốc Sư giúp vua trị nước, số tăng ni gần bằng số đinh phu (theo báo cáo của Nho sĩ Đàm Dĩ Mộng), nhưng dưới thời Phật Giáo tham chánh có rất nhiều chuyện đáng tiếc xẩy ra, đưa tới sự sụp đổ của nhà Lý rồi nhà Trần, kéo theo sự suy đồi của Phật Giáo. Nếu Phật Giáo có sức "hóa giải vạn năng," như Phan Quốc Độ và Lý Khôi Việt đã rêu rao, tại sao những lúc cờ đã tới tay như thế, các Thiền Sư Phật Giáo không giúp nhà Lý, nhà Trần và Phật Giáo bền vững và biến đất nước thành một "Con Rồng Á Châu"?
Nay, liệu đưa Phật Giáo trở lại thời kỳ tham chánh như đời Lý - Trần, có chắc chắn Phật Giáo sẽ tạo được "kỷ nguyên quang hưng" như Phan Quốc Độ, Lý Khôi Việt và một nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã nói, hay lại sẽ đưa đất nước vào những cơn biến loạn đau thương như thời kỳ từ 1963 - 1966? Cứ nhìn thái độ hung hăng, cực đoan của nhóm đứng sau lưng cựu Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn và nhóm Lý Khôi Việt, chúng ta cũng đã có câu trả lời.
Ngô Sĩ Liêm, một sử gia nổi tiếng đời Lê Thánh Tông, trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Biên, đã phê bình việc vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông dùng Phật Giáo để trị quốc như sau :
Về Trần Thánh Tông :
"Vua là người trung hiếu, nhân thứ, tôn người hiền, trọng kẻ sĩ; cha làm ra trước, con nối về sau, cơ nghiệp của nhà Trần được vững bền. Song ham mê đạo Tam Muội (diệt tham, sân, si), nghiên cứu đạo Nhân Thừa, thì không phải là đạo trị thế giới của đế vương. "
Về Trần Nhân Tôn :
"Hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần. Song vui lòng ờ Kinh Phật, tuy bảo là đến siêu thoát, nhưng không phải là đạo trung dung của thánh nhân. "
Quả thật đạo Phật là đạo thoát tục, không phải là đạo trị quốc. Tăng sĩ mà tham chánh thì không bao giờ thoát vòng luân hồi được, cho nên các vua nhà Trần tham chánh một thời đều từ nhiệm rồi xuất gia. Lấy cái đạo thoát tục để điều hành việc thế tục thì không thể thành được. Khi vua Trần Thái Tông lên núi, định bỏ ngai vàng đi tu, dân chúng và triều đình muốn vua trở lại, Trúc Lâm Quốc Sư đã nói với vua :
"Đã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy lòng dân làm lòng của mình. Nay dân đã muốn vua về thì vua không về làm sao được?"
Cũng vậy, khi quân Nguyên xâm lăng nước ta, vua Trần Nhân Tông theo bản chất từ bi của đạo Phật, muốn hàng quân Nguyên để cho dân ta bớt khổ, Trần Hưng Đạo đã hỏi vua :
"Bệ hạ nói câu ấy thì thì thật là là nhân đức, nhưng mà Tông Miếu Xã Tắc thì sao ?"
Lời của một Thiền Sư và một vị tướng đã cho thấy không thể lẫn lộn giữa đạo thoát tục và đạo trị quốc.
Qua thời Tây Sơn (1778 - 1802), các tăng sĩ đều phải đi nhập ngũ và làm công dịch như các người dân bình thường, chùa chiền bị phá, tượng Phật bị hủy, tài sản các triều đình trước đã cấp cho nhà chùa nay bị thu hồi lại và cấp cho các làng xã. Mất đi sự trợ giúp của chính quyền, sự hưng thịnh của đạo Phật không còn nữa.
Một thời "huy hoàng" nhất trong lịch sử của Phật Giáo Việt Nam như đã trình bày trên, có nên cho tái diễn một lần nữa hay không ? Mọi người đều có thể tự trả lời.

III- NHỮNG THÀNH QUẢ PHẬT GIÁO ĐẠT ĐƯỢC TRONG 100 NĂM QUA

Trong bài Dân Tộc và Phật Giáo cuối thế kỷ 20 đăng trên Bông Sen số 17, Lý Khôi Việt đã nhận định :
"Chính trị Việt Nam suốt 100 năm nay, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên Chúa Giáo)."
Nhận định này không phù hợp với thực tế. Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử do nhà xuất bản Hoa Nghiêm ấn hành tháng 10 năm 1964, Thượng Tọa Thích Tuệ Giác đã liệt kê vô số thành quả mà Phật Giáo Việt Nam đã đạt được từ 1920 đến 1964, rồi ông kết luận :
"Phải nói rằng từ năm 1920 đến hết năm 1956, Phật Giáo Việt Nam thật là một thời kỳ hưng thịnh. Số phật tử càng ngày càng đông, các tổ chức thanh niên, sinh viên, học sinh Phật tử đều được sắp xếp quy củ.
"Các Vị Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni đều là những vị có học vấn uyên bác, kinh sách đều được in ra rất nhiều, phổ biến rộng rãi trong giới Phật tử và những người mộ đạo Phật."
Những thành quả mà Phật Giáo đã đạt được từ thời Pháp thuộc tới nay đã được các sách vở và báo chí Phật Giáo tán dương cho thấy sự quyết đoán của Lý Khôi Việt hoàn toàn sai lầm.
a) Sự phát triển của Phật Giáo dưới thời Pháp thuộc
Tài liệu lịch sử cho thấy dưới thời Pháp thuộc, Phật Giáo không gặp khó khăn nào trong việc thi hành Phật sự cũng như phát triển đạo. Trái lại, chính quyền thuộc địa đã dành mọi sự dễ dàng cho việc phát triển Phật Giáo đến mức nhà Nho phải nghi ngờ rằng Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo là một âm mưu nham hiểm của Toàn Quyền Pierre Pasquier nhằm mê hoặc quần chúng bằng đạo Phật.
Pierre Pasquier được cử làm Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 4.10.1926, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông phải trở về Pháp vào ngày 16.5.1927 theo lệnh của chính phủ Pháp. Ngày 23.8.1928 ông được cử trở lại làm Toàn Quyền Đông Dương lần thứ hai. Ông đến Việt Nam nhận chức ngày 26.12.1928. Kể từ đó, ở Pháp cũng như ở Việt Nam, người ta bàn tán khá nhiều đến kế hoạch "Phục hưng Phật Giáo" của Toàn Quyền Pasquier. Người Pháp cũng như nhà Nho tin rằng, để đối phó với phong trào chống Pháp do nhà Nho phát động khắp nơi, Toàn Quyền Pasquier đã khuyến khích Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo, giúp đạo Phật phát triển mạnh để thu hút dân chúng, nhất là giới trí thức, chú tâm vào việc nghiên cứu và tu luyện THIỀN để họ đừng tham gia các phong trào chống Pháp của nhà Nho. Sự bàn tán tăng lên khi một vài nhân vật trong chính quyền thuộc địa bắt đầu được nhà cầm quyền Pháp giúp cho thành lập các hội Phật Giáo như ông Trần Nguyên Chấn trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, ông Lê Dư trong Hội Phật Giáo Bắc Kỳ, v.v... Về sau, số sĩ phu và các viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa tham gia vào các hội Phật Học ngày càng đông, trong số này người ta thấy nhiều nhân vật danh tiếng như Ngô Văn Chương, Phạm Ngọc Vinh, Nguyễn Văn Cần, Lê Đình Thám, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ v.v.
Toàn Quyền Pasquier bị chết trong một tai nạn máy bay vào ngày 15.1.1934.
Sự phát triển của đạo Phật nhờ sự giúp đỡ của các viên chức chính quyền thuộc địa cũng đã được ghi nhận trong báo chí của Phật Giáo. Tờ Tiếng Chuông Sớm của Phật Giáo số 1 ra ngày 15.5.1935, khi bàn về tình hình Phật Giáo trong nước, cũng đã nhìn nhận:
"Hiện nay, nhờ thế lực của các quan đại thần và của các bậc thượng lưu, hội đã lan ra hầu khắp Bắc Kỳ, đâu đâu cũng có chi bộ..."(27)
Trước sự phát triển quá nhanh của đạo Phật, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã chính thức lên tiếng công kích việc phục hưng Phật Giáo. Nghị Quyết Chính Trị của Đại Hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ nhất, họp từ 27 - 31.3.1935 đã đề cập đến vấn đề này như sau :
"Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như Đại Biểu Hội Nghị Chấn Hưng Phật Giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy đạo Phật ở Cao Miên, cải lương đạo Phật... là những mưu mô của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng giai cấp tranh đấu, để kéo quần chúng ra khỏi đường cách mạng tranh đấu."(28)
Nghị Quyết của Ban Trung ương Đảng trong phiên họp từ 6 đến 8.11.1939 còn đả kích nặng nề hơn :
"Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đã tìm cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những hội chấn hưng Phật Giáo ở Bắc - Nam - Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của sở mật thám chính trị bày vẽ."
Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập III, Nguyễn Lang (tức Hoà Thượng Nhất Hạnh) đã ghi nhận nhiều nhiều phản ứng về sự phát triển nhanh của Phật Giáo.
Cụ Phan Khôi đã nêu lại các nghi vấn về sự phát triển của đạo Phật đề cập trong tờ Tràng An :
"Chúng tôi không chuyên một tôn giáo nào hết. Có người lo nếu Phật Giáo thịnh thì Việt Nam sẽ trở nên lười, cho nên Pierre Pasquier Toàn Quyền là nhà chính trị nham hiểm, ký tên cho mấy cái hội Phật ở Đông Dương, làm mê họ bằng Phật Giáo. Chúng tôi không phải quan cố Toàn Quyền Pasquier, chúng tôi đâu biết được dụngý của ngài".
Phan Khôi chưa tin vào dụng ý của Toàn Quyền Pierre Pasquier khi giúp đỡ phong trào Chấn Hưng Phật Giáo, nhưng ông than phiền Phật Giáo xứ ta không làm gì cả!
Cũng trong nỗi lo sợ đó, một số nhân sĩ và nhà báo đã lên tiếng cảnh giác. Trên các số nguyệt san Pháp Âm phát hành trong năm 1937, nhiều ký giả đã đặt nghi vấn về phong trào Phục Hưng Phật Giáo. Ký giả Quốc Tri hỏi định phục hưng Phật Giáo để tạo thế lực ứng phó với thời cơ hay tạo thế lực cho bọn quen buôn thần bán thánh? Ký giả Đông Giao cho rằng Phật Giáo chỉ lo cho tương lai, chớ không lo cho hiện tại. Tờ Tràng An cho rằng đạo Phật chỉ nên dành cho người già!
Dù trong thời kỳ Toàn Quyền Pasquier đang tại chức hay sau khi ông qua đời, chính quyền thuộc địa Pháp đã dành những sự dễ dãi đến mức gần như khuyến khích cho việc phát triển Phật Giáo. Nhờ vậy, các Hội Phật Học đã được thành lập khắp nơi và thực hiện được nhiều công tác quan trọng:
- Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được Hòa Thượng Thích Khánh Hòa và một số cư sĩ thành lập năm 1931. Hội này xây một thư viện Phật Học gọi là Pháp Bảo Phương và một Phật Học Đường. Hội đi thỉnh Tục Tạng Kinh và Đại Tạng Kinh đem về thư viện.
- Long Xuyên Phật Giáo Liên Hữu Hội do các cư sĩ Trần Huệ Dinh, Nguyễn Văn Chân và Đặng Văn Còn thành lập năm 1932.
- Hội An Nam Phật Học ở Huế do Bác sĩ Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1932 và ông là Hội Trưởng đầu tiên của hội này. Tại đây có một Trường An Nam Phật Học ở chùa Trúc Lâm do Lê Đình Thám và Thích Mật Khế thành lập năm 1934, đã đào tạo nhiều tăng sĩ danh tiếng của Phật Giáo như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ, Thích Mật Thể, Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, v.v... Các Hòa Thượng Thích Trí Độ và Thích Đôn Hậu đã từng làm Giám Đốc và là giảng sư của Trường An Nam Phật Học.
Do sự lôi kéo của Hòa Thượng Thích Trí Độ và Bác sĩ Lê Đình Thám, đa số những người xuất thân từ trường này đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Lê Đình Thám, Thích Trí Độ và Thích Mật Thể đã theo Việt Minh đi ra Bắc hoạt động. Các thành phần còn lại tham gia Uỷ Ban Phật Giáo Cứu Quốc cấp Trung Bộ hay tỉnh. Đây là tổ chức cung cấp cho Việt Cộng nhiều tăng sĩ hoạt động chống phá các chính quyền quốc gia như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, v.v. (sẽ nói sau).
- Lưỡng Xuyên Phật Học Hội cũng do Hòa Thượng Khánh Hòa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn ni.
- Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các Hòa Thượng Trí Hải, Tâm Ứng và Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v. Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Tịch.
- Phật Học Kiêm Tế Hội do Hòa Thượng Thích Thiện Châu thành lập năm 1936 ớ chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội nầy tuyên bố cổ vỏ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn Phật Giáo đi theo đường lối của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
- Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do Bác sĩ Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến Sĩ Hán Học, thân phụ của Hòa Thượng Thích Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lão học, còn Lê Đình Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. Võ Đình Cường, "cố vấn chỉ đạo" của Thượng Tọa Thích Trí Quang sau này cũng xuất thân từ tổ chức này. Thích Minh Châu lúc đầu cũng được đào tạo tại đây.
- Gia Đình Phật Hoá Phổ cũng do Bác sĩ Lê Đình Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây : Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Hoàng Thị Kim Cúc, Văn Đình Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v. Đây là những thành phần hoạt động rất tích cực khi phong trào Phật Giáo miền Trung nổi lên. Võ Đình Cường là người chủ chốt trong tổ chức này. Năm 1951, một hội nghị Gia Đình Phật Hóa Phổ được tổ chức tại Huế đã quyết định đổi tên thành Gia Đình Phật Tử.
- Hội Chỉnh Lý Tăng Già Bắc Việt do Hòa Thượng Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9 năm 1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.
- Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên ở Hà Nội.
- Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.
- Phật Học Đường Báo Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 195O ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam và Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung, cố vấn giáo lý cho Hội Gia Đình Phật Tử.
- Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập tại Huế năm 1951, kết hợp một số tổ chức Phật Giáo Nam Bắc Trung. Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết trụ trì ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.
- Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do Thượng Tọa Thích Thiện Hòa và Thượng Tọa Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại chùa Ấn Quang Saigon.
- Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.
- Hội Lục Hòa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.
Ngoài các hội và các trường Phật học được thành lập khắp nơi, việc nghiên cứu và phổ biến đạo Phật cũng được đẩy mạnh. Các kinh sách Phật Giáo bằng Việt ngữ cũng được ấn hành dồi dào như Lăng Nghiêm, Kim Cương, Phật Giáo Giáo Khoa Thư, Phật Giáo Vấn Đáp, v.v... Nhiều nhà thâm cứu đạo Phật đã xuất hiện như Lê Đình Thám, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Vĩnh, v.v... Nhiều tạp chí Phật Giáo bằng tiếng Việt đã được phát hành như Đuốc Tuệ, Viên âm, Pháp âm, Quan âm, Từ Bi âm, Duy Tâm, Tiếng Chuông Sớm, Tam Bảo, Tiến Hóa, v.v... Các trường Bồ Đề mọc lên khắp nơi, nhất là ở miền Trung. Các ngày lễ Phật đản năm nào cũng được tổ chức trọng thể và nhiều khi được Hoàng Thái Hậu tặng tiền.
Chùa Ấn Quang được Hòa Thượng Thích Thiện Hòa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (sau này đổi thành Sư Vạn Hạnh), Chợ lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.
Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc Cách Mạng Tháng 8 năm 1945, vì một số tăng sĩ quan trọng đã đi theo Mặt Trận Việt Minh. Mãi đến năm 1951, khi Pháp đã chiếm lại phần lớn Đông Dương và Việt Cộng đã rút lui vào các chiến khu, việc phát triển Phật Giáo mới bắt đầu mạnh trở lại.
Nhìn Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dưới thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo Việt Nam của Toàn Quyền Pierre Pasquier là có thật.
b) Sự phát triển của Phật Giáo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Từ 1955 đến 1963, sự phát triển của Phật Giáo rất đáng kể, không thua gì dưới thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sờ Phật Giáo được thành lập thời Pháp vẫn tiếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Ngô Đình Diệm đã cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới. Sau đây là một số tổ chức mà chúng tôi biết được :
- Hội Linh Sơn Phật Học do các cư sĩ Nguyễn Đăng Minh, Dương Văn Thinh và Trần Văn Hưng thành lập năm 1955, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn, 149 đường Cô Giang, Saigon.
- Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam do hai Thượng Tọa Thích Độ Lượng (Đoàn Văn Ri) và Thích Huyền Minh (Nguyễn Đức Canh) thành lập năm 1955, trụ sở đặt tại số 578 đường Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam do các cư sĩ Đoàn Trung Còn, Nguyễn Văn Hất và Lê Hồng Phước thành lập năm 1955, trụ sở đặt tại 145 đường Đề Thám, Saigon.
- Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam do hai cư sĩ Nguyễn Văn Hiếu và Trần Văn Nhân thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.
- Hội Việt Nam Phật Giáo do các cư sĩ Vũ Bảo Vinh, Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Ngọc Huỳnh thành lập năm 1957, trụ sở đặt tại số 149 đường Phan Đình Phùng, Saigon.
- Giáo Hội Lục Hòa Tăng Việt Nam do các ông Nguyễn Toàn Trung, Lê Văn Bạch và Nguyễn Văn Đạt thành lập tại chùa Long Vân, Gia Định, năm 1957.
- Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam do các ông Nguyễn Đình Trấn, Hà Văn Hiến và Nguyễn Thiện Tri thành lập năm 1957, trụ sở đặt tại chùa Kỳ Viên, số 60 đường Phan Đình Phùng, Saigon.
- Hội Bồ Đề Đạo Tràng do các ông Lê Nhật Ngân, Châu Văn Đồng và Lê Nhật Lưỡng thành lập tại Âm Bồ Đề Viện Châu Đốc năm 1957.
- Hội Phật Giáo tại Trung Phần do Thượng Tọa Thích Thiện Siêu và cư sĩ Nguyễn Dương lập năm 1957, trụ sở đặt lại chùa Từ Đàm, Huế.
- Hội Phật Tử Việt Nam do các ông Dương Duyên Bảng, Phạm Gia Thịnh và Nguyễn Hồ thành lập năm 1958, trụ sờ đặt lại chùa Đại Giác, số 118 đường Chách Mạng, Saigon.
- Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam được các Sư cô Thanh Liên, Bạch Liên và Thành Liên thành lập năm 1958 tại Gia Định.
- Hội Phật Giáo Quan âm Phổ Tế do Thượng Tọa Thích Tâm Châu (Đoàn Văn Hanh) và Vĩnh Nghiêm thành lập năm 1959, trụ sở đặt tại 584/1 đường Phan Thanh Giản, Saigon.
- Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu do các cư sĩ Lê Ngọc Tỷ, Nguyễn Toàn Trung và Nguyễn Văn Ươn thành lập tại Saigon năm 1959.
- Hội Từ Thiện Phật Giáo Việt Nam do các cư sĩ Trần Thị Chơi, Phạm Thị Lành và Nguyễn Văn Sĩ thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh Bình được thành lập tại chùa ông Mẹt, Vĩnh Bình, năm 1960.
- Hội Tứ Giáo Phật học Việt Nam được thành lập tại chùa Tam Bửu, Biên Hòa, năm 1961.
- Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên do các cư sĩ Liên Ucht, Đinh Thạch và Sơn Thu thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.
- Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông do các cư sĩ Huỳnh Tài, Phan Văn Quyên và Nguyễn Văn Nam thành lập năm 1962 tại Saigon.
- Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn do các Hòa Thượng Lâm Ngọc Tỷ, Võ Văn Thông và Nguyễn Văn Tấn thành lập năm 1963 tại Saigon.
Những thành quả mà Phật Giáo đã đạt được dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã được Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), từ trang 304 đến 307:
- Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở ở chùa Ấn Ouang.
- Nhiều tu viện, chùa và Phật Học Đường đã được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở Bình Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Hòa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Tử Nghiêm ở Saigon, v.v...
- Mở nhiều khóa huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khóa Tu Nghiệp Trú Trì và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già Việt Nam cũng đã thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam Việt Nam.
- Các đại hội của Phật Giáo được mở ra liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội Việt Nam kỳ II năm 1956 và kỳ III năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ờ chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ III năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ III năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...
- Nhiều tạp chí Phật Giáo ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hóa, Từ Ouang, v.v...
Trong cuốn Phật Giáo tại Việt Nam, ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền Nam là 2206 cái. Khi ông Diệm bị lật đổ, số chùa lên đến 4776 cái, tức đã tăng 2570 cái. Trong cuốn Our Vietnam Nightmare, Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Ngô Đình Diệm đã đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đã được trùng tu. Riêng chùa Xá Lợi, chúng tôi biết Tổng Thống Diệm đã tặng 2 triệu đồng và sau đó cho xử dụng thêm 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.
c) Sự phát triển của Phật Giáo dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa
Sau 1.11.1963, Phật Giáo coi như đã "làm chủ" đất nước, thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền phải tuân theo ý muốn của Phật Giáo.
Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất mới thành lập đã làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đã đệ trình, gây nên những rối loạn pháp lý mà chỉ vài năm sau đó Giáo Hội Ấn Quang đã là nạn nhân của những đòi hỏi phi lý này. Sau đây là một tổ chức Phật Giáo đã được thành lập thêm dưới thời Đệ Nhị Cộng Hoà :
- Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13.3.1964, có quyền cấp Cử Nhân Phật Học, Cao Học Phật Giáo và Tiến Sĩ Phật Học.
- Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4.1.1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964.
- Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11 năm 1964 tại Gia Định.
- Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, Bình Hòa Tự, Long Quang Tự, Nhơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12 năm 1964, tách khỏi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
- Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.
- Phật Hội Lục Phương Tông do hai cư sĩ Võ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.
- Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do Thượng Tọa Thích Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.
- Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội do Thượng Tọa Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.
- Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do hai Thượng Tọa Thích Tâm Châu và Suk Khung San thành lập tại Saigon năm 1967.
- Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do Tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Định.
Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn: khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản, Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam Việt Nam.
Ngày 24.4.1964, khởi công xây Việt Nam Quốc Tự trên sở đất rộng 45.000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là cho luôn, vì không thể lấy lại được.
Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đã cúng 10 triệu đồng, còn Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệu đồng. Số tiền đó được giao cho các Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các Thượng Tọa này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùa. Chi phí xây cất Việt Nam Quốc Tự lúc đó được ước lượng chỉ khoảng từ 60 đến 70 triệu đồng Việt Nam mà thôi.
Nhưng vì sự lộng hành của Thượng Tọa Thích Trí Ouang trên chính trường miền Nam từ 1964 đến cuối năm 1966, khối Phật Giáo Ấn Ouang bị vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do Thượng Tọa Thích Trí Quang và nhóm Phật Giáo miền Trung tạo ra.
d) Sự phát triển của Phật Giáo dưới chế độ Cộng Sản.
Ngay dưới chế độ cộng sản, Phật Giáo Việt Nam cũng phát triển rất mạnh. Sự phát triển này được ghi lại trong các bài sau đây đăng trên hai tạp chí Phật Giáo Việt Nam hải ngoại là tờ Bông Sen và tờ Giao Điểm.
Bài "Hiện tình Phật Giáo Việt Nam: Hơn 15.604 tăng ni và hơn 4.874 ngôi chùa" của Ban Tăng Sự Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh) cho biết:
1 -Đã thống kê được số tự viện và lập sổ danh bộ các Tăng Ni trong nước. Tình trạng năm 1990 như sau :
- Tổng số tăng ni là 15.604 người, gồm 8.090 Bắc tông, 6007 Nam tông và 407 khất sĩ.
- Tổng số tự viện là 4.874 cái, gồm 4.819 cái của Bắc tông, 414 cái của Nam tông và 184 cái của Khất sĩ.
Những con số này chúng tôi chép lại nguyên văn, nhưng khi cộng lại thấy chưa ăn khớp với nhau.
2.- Bắt đầu cấp Giấy Chứng Nhận Tăng Ni, giống như Độ Diệp đời Trần.
3.- Tổ chức các Đại Giới Đàn cho các tăng ni thọ giới tu học và An Cư Kiết Hạ cho các tăng ni trưởng dưỡng đạo tâm. Các tăng ni tốt nghiệp được cấp Chứng Điệp Thọ Giới và Chứng Điệp An Cư Kiết Hạ.(27) Như vậy, Ban Trị Sự Trung ương của Giáo Hội quốc doanh đã làm được những công việc mà Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang mơ ước. Trong lịch sử Phật Giáo, các việc này chỉ xẩy ra ở đời Trần mà thôi.
Bài "Những tiến triển tốt đẹp của Phật Giáo miền Bắc," ghi lại cuộc phỏng vấn Thượng Tọa Thích Thanh Tứ, Phó Tổng Thư Ký kiêm Chánh Văn Phòng I Trung ương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Thượng Tọa Thích Thanh Tứ nói :
"Với nhu cầu tín ngưỡng ngày càng gia tăng, một số chùa đã được sửa chữa với quy mô lớn như chùa Hương ... Một số các Phật tử trong làng xã đã xin phép xây dựng chùa mới. Nhìn vào những mùa An Cư Kiết Hạ mỗi năm, số lượng tăng ni cũng gia tăng, bên cạnh những sinh hoạt của tín đồ Phật tử như thuyết giảng ngày lễ hội tại một số nơi cũng đông đảo hơn trước. Nhìn chung, đây là một dấu hiệu hoan hỷ của Phật Giáo miền Bắc nói riêng và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nói chung, có những tiến triển càng ngày càng thuận lợi."(29)
Bài "Phật Giáo ở Bắc Việt sau năm 1980" của T.S. Phạm Trọng Chánh có cho biết như sau:
"Từ năm 1988 với chiều hướng "đổi mới", một loạt các trường Cơ Bản Phật Học đã được thành lập tại các tỉnh. Năm 1988 miền Bắc khai giảng trường Cơ Bản Phật Học tại Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng có trên 100 tăng ni theo học. Tại miền Nam có ba trường Cơ Bản Phật Học tại Saigon, Hậu Giang và Đồng Tháp có trên 350 tăng ni sinh. Năm 1990 có thêm 5 trường CBPH tại Đồng Nai, Tiền Giang, Khánh Hòa, Cửu Long, Lâm Đồng. Trường ơƠ Bản Phật Học thành phố Hồ Chí Minh được mở thêm một cơ sở ở Thủ Đức. Tổng cộng 6 lớp có trên 600 tăng ni. Đầu năm 1991 có thêm hai trường Hà Sơn Bình và Kiên Giang trên 100 tăng ni."
Đặc biệt, tại Việt Nam hiện nay còn có các lớp hướng dẫn áp dụng "Phật Giáo dưới ánh sáng Mác-Lê" tại hai nơi :
- Cơ sở 1 ở chùa Quán Sứ Hà Nội : học viên được gọi là sư nhưng có thể có vợ con và ăn mặn bình thường.
- Cơ sở 2 là trường Cao Cấp Phật Học tại Thiền Viện Vạn Hạnh, số 716 đường Nguyễn Kiệm, Phú Nhận, Saigon, do sư quốc doanh Thích Minh Châu điều khiển.
Các tổ chức Phật Giáo hải ngoại đang thi nhau quyên góp tiền bạc gởi về tài trợ cho hai cơ sở này đào tạo các "tăng chúng".
Theo tài liệu về "Tự do tôn giáo tại Việt Nam" được nhà cầm quyền Hà Nội công bố ngày 13.6.1993 tại Paris thì số tăng sĩ Phật Giáo năm 1991 là 17.000, đến năm 1993 đã tăng lên đến 20.000, trong đó có một số đã được gởi qua Ấn Độ để học Tiến sĩ Phật Học. Như vậy chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm, Phật Giáo Việt Nam đã có trên 3.000 tăng sĩ. Nếu căn cứ vào con số tăng sĩ kiểm kê năm 1990 là 15.604 người như đã nói trên thì chỉ trong vòng 3 năm, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có thêm đến 4.400 tăng sĩ, trong khi số linh mục Công Giáo được phong không quá 30 người.
Bản tài liệu cũng cho biết có 4373 ngôi chùa đã được sửa chữa và trùng tu, 50 sách Phật Giáo đã được xuất bản, trong đó có bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, bộ Phật Quang Đại Tự Điển bằng Hán Việt gồm 11 tập và Kinh Đại Tạng.
Trần Tam Nguyên (tức Lý Khôi Việt) đã đi Việt Nam một vòng trong tháng 1 năm 1994, khi về có viết bài phóng sự "Tường trình sinh hoạt Phật sự tại Việt Nam", đăng trên Bông Sen số 18, ca ngợi sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật tại Việt Nam như sau : "Sinh hoạt Phật sự ở Huế khá đặc sắc, Gia Đình Phật Tử hầu như phục hồi gần bằng trước năm 75, hiện ở Huế - Thừa Thiên đang có hơn 20 ngàn thanh thiếu nhi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử. Sinh hoạt từ thiện xã hội thì ngoài Sư Cô Minh Tú còn có ban từ thiện xã hội của Giáo Hội cũng sinh hoạt mạnh và có các nhóm từ thiện xã hội nhỏ hơn... "
"Có một niềm vui lớn là khắp các chùa lớn đã có những phòng phát hành kinh sách Phật Giáo với cả trăm cuốn sách mới được Giáo Hội mới (quốc doanh) in ra, một cách rất nghiêm túc và long trọng, hay được Phật tử in lại một cách bán chính thức "
Thượng Tọa Thích Thông Bửu, Tổng Vụ Trưởng Vụ Cư Sĩ của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang trước đây, đã bị bắt cùng với các Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Quảng Độ, Thuyền Ấn ... mới đi cải tạo về chỉ một hai năm mà đã được Việt Cộng để cho làm nhiều chuyện to lớn. Trong lễ Phật Đản năm 1931 vừa qua, Thượng Tọa đã tổ chức đại lễ tưởng niệm 30 năm Bồ Tát Quảng Đức và khánh thành Bảo Tháp Bồ Tát Quảng Đức, "một công trình nghệ thuật độc đáo, tuyệt đẹp, đặc thù VN". Trong buổi lễ này có 900 tăng ni tham dự. Thượng Tọa lại tổ chức lớp Phật tử tại gia, có 49 tăng chúng. Thượng Tọa còn chú trọng đến việc tu học của giới trí thức, thanh niên và nam cư sĩ. Lễ ra mắt đầu tháng 1 năm 1994 có đến 1.000 Phật tử tham dự.
Qua các bản tường thuật trên, chúng ta nhận thấy đạo Phật tại Việt Nam đang ở thời kỳ bột phát một cách mạnh mẽ, số tăng ni được đào tạo nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Những tăng sĩ đi cải tạo hay đi tù về được cho thi hành Phật sự một cách dễ dàng chứ không bị cấm như các linh mục cựu tuyên úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Các kinh Phật được in và phổ biến dễ dành, các chùa chiền được trùng tu lại, tổ chức Gia Đình Phật Tử hoạt động lại như trước 30.4.1975. Những "thắng lợi" trên cho thấy rằng không có sự đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam mà chỉ có việc loại bỏ Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang mà thôi. Đảng Cộng Sản Việt Nam khi chống Pháp đã đả kích một cách mạnh mẽ chính sách "Phật Giáo hóa Đông Dương" của Toàn Quyền.. Pasquier, nhưng khi nắm được chính quyền, họ cũng chọn con đường mà Toàn Quyền Pasquier đã chọn.
Nhìn lại lịch sử, ngoại trừ đời Trần, các tăng sĩ được nhà nước nuôi ăn để lo tu trì và Phật sự, không đời nào Phật Giáo phát triển mạnh như từ thời Pháp thuộc đến nay.

IV- VÀI NÉT VỀ SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THIÊN CHÚA GIÁO TẠI VIỆT NAM
Thiên Chúa Giáo mới du nhập vào Việt Nam vào giữa thế kỷ thứ 15 và số tín hữu hiện nay chỉ khoảng 7,5% dân số nhưng ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam về phương diện chính trị, văn hóa và xã hội cũng đã có một tầm mức đáng kể. Không như Phật Giáo đã được các triều đình Trung Hoa và Việt Nam đi thỉnh về và giúp cho phát triển, Thiên Chúa Giáo phải vượt qua rất nhiều khó khăn mới có một chỗ đứng ngày nay trong xã hội Việt Nam.
Theo Khâm Định Việt Sử thì năm Nguyên Hòa (1533), dưới đời Lê Trang Tông, có "Chỉ dụ cấm đạo Da tô" Chỉ dụ này cho biết có một người Tây tên là INIKHU đi đường bể vào giảng đạo tại hai làng Ninh Cường và Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Sơn, tức Nam Định ngày nay. Qua chỉ dụ này, người ta biết được đạo Thiên Chúa đã có mặt tại Việt Nam năm 1533 hay trước đó ít lâu.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo cho biết năm 1550, linh mục Gaspar de Santa Cruz từ Malacca đến truyền giáo tại Hà Tiên. Sau đó nhiều giáo sĩ và tu sĩ khác từ Malacca và Phi luật tân đến truyền giáo ở Bắc Việt và Quảng Nam trong các năm 1580, 1583, 1615. Đó là những bước khởi đầu.
a) Những khó khăn
Đạo Thiên Chúa khi truyền vào Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn. Sau đây là những khó khăn chính.
1.- Khó khăn vì xa lạ về văn hóa
Các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, I Pha Nho hay Pháp khi tiếp xúc với văn hóa Việt Nam họ gặp phải một thứ văn hóa quá xa lạ. Tư tưởng, phong tục, tập quán đều hoàn
toàn khác biệt. Do đó, họ phải nghiên cứu và học hỏi trước rồi tập làm quen dần. Người Việt Nam khi nghe họ giảng dạy những điều xa lạ với Tam Giáo cũng rất khó tiếp thu.
2.- Khó khăn vì ngôn ngữ
Đến tiếp xúc với người Việt Nam, các nhà truyền giáo phải học tiếng Việt Nam là một thứ ngôn ngữ mà từ phát âm đến văn phạm, đều khác xa tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Pháp, nên việc dùng tiếng Việt để thuyết phục dân bản xứ theo đạo không phải là chuyện dễ dàng.
3.- Gặp sự chống đối của chính quyền và nhà Nho.
Phật Giáo được chính các hoàng đế Trung Hoa cho đi thỉnh vào Trung Hoa và giúp phát triển nên sự phát triển không có gì khó khăn. Một số nhà Nho quan niệm đạo Phật là đạo ngoại lai và không muốn cho đạo Phật phát triển, nhưng họ chỉ phản kháng thụ động, vì đạo quân thần của Nho Giáo không cho phép họ có hành động trái ngược với ý muốn của vua. Chỉ khi nào Nho Giáo thắng thế, Phật Giáo mới bị loại ra khỏi chính quyền và không còn được trợ giúp về tài chánh, chớ không hề bị đàn áp dã man. Tính trạng này cũng đã xẩy ra ở Việt Nam. Vua Lý Thái Tổ cho đi thỉnh Kinh Phật về và giúp Phật Giáo phát triển. Các vua kế tiếp cũng đã yểm trợ Phật Giáo tối đa. Nhà Nho cũng chỉ phản ứng như ờ Trung Hoa.
Trái lại, Thiên Chúa Giáo rất xa lạ đối với triều đình và nhà Nho nên khi mới truyền vào đã bị coi là "tà đạo". Với "tà đạo" thì phải tìm cách ngăn chận hay diệt.
Đạo Thiên Chúa không có cái may mắn của đạo Phật, nên trên đường truyền bá vào Việt Nam đã gặp nhiều gian nan. Vì thế, trong bài tóm lược Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Linh mục Trần Anh Dũng đã phân chia lịch sử truyền giáo của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam ra ba giai đoạn, giai đoạn nào cũng mang hình ảnh đau thương :
- Giai đoạn 1 : Khai sinh trong máu đào (1533 - 1933)
- Giai đoạn 2 : Phát triển trong đau khổ (1933 - 1960)
- Giai đoạn 3 : Trung thành trong tin yêu (1960 - 1985)
Trước những khó khăn như vậy, Thiên Chúa Giáo vẫn truyền được vào Việt Nam là nhờ sự thánh thiện, hy sinh và tình thương của các giáo sĩ đi truyền đạo. Dân Việt thấy các gương lành của họ, đã theo.
Có người cho rằng Thiên Chúa Giáo truyền vào Việt Nam là do sự yểm trợ của thực dân Pháp. Điều đó hoàn toàn sai lầm. Đạo Thiên Chúa có mặt ở Việt Nam vào năm 1533, đến năm 1851 người Pháp mới vào Cửa Hàn, khi đạo Thiên Chúa đã có cơ sở vững vàng, dù đang bị bắt bớ.
b) Việc cấm đạo
1.- Lý do cấm đạo.
Lý do cấm đạo được ghi rõ trong các chỉ dụ cấm đạo, lúc đầu chỉ vì coi Thiên Chúa Giáo là "tà đạo", sau nghi ngờ giáo dân theo giặc. Chỉ dụ cấm đạo của vua Minh Mạng ban hành năm 1825 đã ghi :
"Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo."(30)
Các sắc dụ của vua Tự Đức cũng có những luận điệu tương tự như chỉ dụ vua Minh Mạng, chẳng hạn sắc dụ cấm đạo năm 1859 đã viết :
"Tà đạo của người công giáo đã đem lại biết bao điều tai hại. Chúng ta không thể liệt tà đạo này vào hạng các tôn giáo dị đoan khác mà chúng ta dung thứ ở trong nước, phải luôn luôn cấm đoán tà đạo này. Những ai theo đạo công giáo lập thành một xã hội riêng biệt, mặc dầu chúng không công khai đứng lên chống chính quyền nhưng trong thâm tâm chúng tha thiết với người ngoại quốc."
Bình luận về các chỉ dụ cấm đạo này, sử gia Trần Trọng Kim viết như sau :
"Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ý cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cấm thế nào mặc lòng, trong nước vẫn có người đi giảng đạo, nhà vua lấy điều đó làm trái phép, lại có dụ ra lần nữa truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, và ai bắt được giáo sĩ đem nộp thì được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và ở các nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
"Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ cho dân bên đạo theo giúp quân giặc, lại càng cấm nghiệt: từ năm Giáp Ngọ (1834) cho đến năm Mậu Tuất (1838), có nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cố Du (P. Marchand) ở Gia Định rồi, sự giết đạo lại dữ hơn trước nữa.
"Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra để khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế?"
"Tóm lại mà xét, thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta mà chỉ có việc buôn bán mà thôi, thì chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ gì mà ngăn cấm; nhưng bởi vì khi đã quan hệ với việc sùng tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho sự sùng tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế lực mà đè nén nhau. Cũng vì thế cho nên nước ta không chịu suy xét lẽ phải trái cho kỹ càng, làm lắm sự tàn ác để đến nỗi mất cả sự hòa hiếu với các nước Tây dương và gây nên cái mối biến loạn cho nước nhà vậy."(32)
c) Dưỡng sinh trong máu đào
1.- Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh
Bắt đầu từ 1631, ở trong Nam, Chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan không cho người Tây phương vào giảng đạo nữa. Còn ở Bắc, năm 1663, Chúa Trịnh là Trịnh Tạc ra lệnh đuổi các giáo sĩ Tây phương và không cho người Việt Nam theo đạo Thiên Chúa. Sau đó là những cuộc bắt bớ và tàn sát người giảng đạo và theo đạo ở cả hai miền. Nhưng các giáo sĩ Tây phương vẫn tiếp tục lén lút truyền đạo và số người theo đạo ngày càng tăng.
Năm 1.700, Minh Vương ban hành chỉ dụ cấm đạo mới, ra lệnh đốt nhà thờ, bắt giáo dân làm việc công và phải trả thuế bằng ba người không công giáo. Nhiều giáo sĩ và giáo dân bị bắt giam hay bị giết.
Năm 1712, dưới thời Lê Dụ Tông, Trịnh Cương bắt giáo dân phải cạo trán và khắc vào mấy chữ : "học Hoa Lan đạo". Năm 1754, Trịnh Doanh cấm theo đạo và bắt giết cả giáo sĩ lẫn giáo dân.
2.- Thời kỳ Tây Sơn
Từ 1780 - 1789, Tây Sơn ra lệnh bắt đạo gắt gao khi hay tin người Âu Châu giúp Nguyễn Ánh phục hồi lại nhà Nguyễn. Các cơ sở của công giáo tại miền Bắc bị đốt phá, các giáo sĩ và giáo dân bị săn bắt phải chạy vào rừng hay qua Lào.
Ở miền Trung, nhất là tại các tỉnh Bình Trị Thiên, việc bắt đạo kinh hoàng hơn. Năm 1795, Nguyễn Ánh đem quân đánh Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh lo sợ. Nhân bắt được thư của Nguyễn Ánh gởi cho Giám Mục Labartette ở Phú Xuân, vua nghi ngờ người công giáo nên ra mật lệnh đến tháng 5 năm 1798 sẽ thanh toán người công giáo. Giáo sĩ và giáo dân đoán trước điều đó nên tìm cách chạy trốn trước, nhưng vì số giáo dân khá đông, việc trốn tránh không dễ dàng. Cuộc bắt đạo xẩy ra rất dã man. Các quan dùng sự đau khổ của nạn nhân làm trò chơi :
"Có kẻ phải đóng đinh vào trán rồi đern phơi nắng. Nhưng những người dã man chưa lấy làm phỉ chí, họ đổ dầu vào rốn rồi bỏ bấc mà đốt. Có người khác phải buộc tóc mà treo lòng thòng hay buộc ngón chân và để đầu ngược xuống, lại có khi quan sai buộc ba người lại với nhau thành từng bó rồi cứ để như vậy nhiều ngày. Nhưng cái mà các quan lấy làm thích hơn cả là trói người công giáo vào cột cho thật chặt, rồi buộc vải và tẩm dầu đầu ngón tay, hoặc là bắt để các ngón tay vào bát dầu rồi đốt, đồng thời quan quân ngồi xung quang ăn uống chơi bời cười cợt. Có một người bổn đạo phải trói vào rồi mọi người đến cắt một miếng thịt ăn sống trước mặt người thụ nạn, từ quan trấn thủ đến anh chăn ngựa đều làm việc quái ác và mọi rợ này."(33)
3.- Thời kỳ Minh Mạng và Tự Đức (1820 - 1862)
Sau khi Nguyễn Ánh nhờ người Tây phương giúp, đã đánh bại Tây Sơn và thống nhất sơn hà, lên ngôi trị vì từ 1802 - 1819. Trong thời gian đó người công giáo được bình an. Nhưng đến thời Minh Mạng việc cấm đạo trở nên gắt gao và có phương pháp hơn.
Năm 1825, vua ban hành chỉ dụ cấm đạo, ra lệnh ngăn không cho các giáo sĩ ngoại quốc vào và tập trung các giáo sĩ trong nước vào một khu vực cô lập. Đến ngày 6.1.1833, vua ra một sắc dụ gắt gao hơn, cho lệnh đốt phá các nhà thờ và các cơ sở công giáo, buộc các giáo dân phải dẫm chân lên Thập giá và tuyên bố bỏ đạo. Ai không tuân đều bị giết. Năm 1836, vua ra sắc dụ khuyến khích các quan bắt đạo.
Đến đời Tự Đức, năm 1848 vua ra sắc dụ lùng bắt các giáo sĩ ngoại quốc, ai bắt được sẽ thưởng 30 nén bạc. Giáo sĩ bị bắt được bị buộc đá vào cổ ném xuống sông. Thấy sắc dụ này chưa có kết quả, năm 1857 vua ra sắc dụ khác với hy vọng diệt được công giáo trên toàn quốc bằng cách lên án nặng các quan ăn tiền đút tha cho người công giáo và dọa cất chức những ai chểnh mảng trong việc thi hành lệnh cấm đạo. Số giáo sĩ ngoại quốc bị giết rất nhiều.
Nghe các tin trên năm 1856 chính phủ Pháp sai ông Lecheur de Ville-sur-arc đem chiếc tàu Catinat vào Đà Nẵng để thương lượng với triều đình Huế nhưng không thành. Nhân dịp này, Giáo Mục Pellerin trốn được lên tàu Catinat theo về Pháp trình bày tình hình ở Việt Nam và xin chính phủ Pháp can thiệp giúp.
Lấy lý do ngăn chận việc cấm đạo, Pháp đem quân qua Việt Nam can thiệp. Tháng 1 năm 1858, Pháp đem quân chiếm cửa Hàn. Thấy Pháp đánh Đà Nẵng, năm 1859 vua lại ban hành sắc dụ cấm đạo mới, đưa Giáo Hội Thiên Chúa Giáo vào giai đoạn đen tối nhất của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam.
Sắc dụ ra lệnh cất chức và bắt các quan và các viên chức triều đình đã theo tà đạo, tức đạo công giáo, đồng thời chỉ thị phong tỏa các làng công giáo. Ai bắt được Tây Giang Đạo trưởng được thăng chức và được thưởng 300 lạng bạc. Năm 1860 vua ra sắc dụ truy nã các bà phước, chị em dòng Mến thánh Giá. Năm 1861, vua lại ra sắc dụ phân sáp (phân tán mỏng và sáp nhập) người công giáo vào các làng không công giáo, tách đàn ông ra khỏi đàn bà và hủy hết các làng công giáo. Khắc hai chữ "tà đạo" vào má người công giáo. Những nhà cửa, vườn tược của người công giáo chưa phá hết, phải giao cho làng không công giáo bên cạnh. Người công giáo bị lùa đi như súc vật, bị đánh đập và bỏ đói cho chết. Năm 1862, vua ra lệnh chém hết những người đàn ông từ 10 tuổi trở lên. Cuộc kiểm kê sau khi lệnh cấm đạo dứt cho thấy có khoảng 50.000 giáo sĩ và giáo dân bị giết hoặc mất tích trong thời kỳ này.
Trong khi biện pháp cấm đạo trở nên gắt gao thì Pháp đem quân chiếm Gia Định. Ở ngoài Bắc, Lê Phụng hợp với tên Trường cầm quân nổi loạn chiếm các tỉnh Quảng Yên và Hải Dương. Nguyễn Văn Vàng, tục gọi là Cai Tổng Vàng, nổi lên quấy phá ở Bắc Ninh.
Vua Tự Đức thấy khó đương đầu nổi, liền sai Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp và Linh mục Đặng Đức Tuấn vào Nam thương lượng với Pháp. Pháp đòi giao lục tỉnh và bồi thường 5.000.000 nguyên. Linh mục Đặng Đức Tuấn khuyên Phan Thanh Giản chỉ nên chấp nhận khoản bồi thường, không nên nhượng đất. Sau cuộc thương lượng, ngày 9.5.1862, Việt Nam chịu ký hòa ước với Pháp gồm 12 điều, nhường cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, trả binh phí 4.000.000 nguyên, chia làm 10 năm, mỗi năm 400.000 nguyên. Trong hòa ước này có một điều khoản nói triều đình cho các giác sĩ Pháp và I-pha-nho tự do giảng đạo và dân chúng được tự do theo đạo.
Sau khi ký hòa ước, vua Tự Đức có ban sắc dụ ân xá cho người già, đàn bà và trẻ con công giáo. Nhưng sắc dụ này vẫn cấm dân không được theo tà đạo, người công giáo không được tụ tập quá 100 người, không được đọc kinh to tiếng, v.v...
4.- Thời Văn Thân nổi loạn (1862 - 1888)
Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, năm 1864 một số nhà Nho gọi là Văn Thân công khai tố giác vua Tự Đức hèn nhát. Văn Thân được các văn thần trong triều và hoàng tộc ủng hộ, định nổi loạn trong một kỳ thi tổ chức tại Huế năm 1864. Văn Thân dâng lên Tự Đức một tờ sớ tố cáo người công giáo âm mưu chống triều đình và yêu cầu được cấp vũ khí để chiến đấu. Nhận được tờ sớ này, vua ra lệnh lục soát các nhà thờ, các cơ sở và tư gia của người công giáo để kiếm vũ khí nhưng không thấy. Vua ra chỉ dụ giải thích tại sao nới lỏng việc cấm đạo và lên án phong trào Văn Thân.
Văn Thân không còn muốn theo lệnh triều đình nữa, tự động tổ chức phong trào tiếp tục chống Pháp và tàn sát người Công Giáo. Cuộc tàn sát này cũng rất dữ dội và bừa bãi, vì lúc đó triều đình không còn kiểm soát được nữa. Tại một vài nơi, các giáo xứ Công Giáo đã tự động thành lập các tổ chức tự vệ để chống lại Văn Thân. Cuộc tàn sát dữ dội nhất xẩy ra năm 1874, có khoảng 4.500 người Công Giáo bị giết và 300 giáo xứ bị đốt. Lấy cớ triều đình Huế không muốn thi hành Hòa ước 1962, Pháp đem quân đánh chiếm các tỉnh miền Bắc và miền Trung, Văn Thân và triều đình Huế không đương đầu nổi, nên năm 1874 vua chịu ký hòa ước thứ hai gồm 22 điều khoản nhận quyền bảo hộ của Pháp, trong hòa ước đó có khoản nói về tự do tín ngưỡng như sau :
"Nhìn nhận đạo công giáo dạy dân làm lành, Hoàng Đế Việt Nam bãi bỏ các sắc dụ cấm đạo trước và ban phép cho tất cả mọi người dân trong nước được tự do theo đạo và hành đạo"
Sau hòa ước này, Văn Thân vẫn tiếp tục đốt phá các làng mạc Công Giáo và tìm sát hại người Công Giáo, nhất là sau khi triều thần đưa vua Hàm Nghi mới 12 tuổi chạy trốn ra Quảng Trị, rồi sau đó tới Quảng Bình. Cuộc tàn sát chỉ chấm dứt sau khi vua Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888 ở Quảng Trị và phong trào Văn Thân tan rã.
Tổng kết sau 300 năm bắt đạo đã có khoảng 130.000 người bị giết, trong đó có 8 Giám Mục, 200 Linh mục gồm 150 linh mục Việt Nam và 50 người linh mục ngoại quốc thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, 340 thầy giảng, 270 nữ tu. Khoảng 3.000 họ đạo đã bị đốt phá. Tòa Thánh La Mã đã phong thánh cho 117 vị tử đạo vào ngày 19.6.1988.
5.- Phản tỉnh của vua Tự Đức
Để trả lời những tố cáo và những đòi hỏi của phong trào Văn Thân, năm 1864 vua Tự Đức ra một sắc dụ có đoạn như sau :
"Trẫm là phụ mẫu của dân, Trẫm nỡ nào sát hại những người dân, người con trong nước. Có những quan yêu cầu giết sạch dân công giáo, nhưng Trẫm không thể chấp nhận một biện pháp như vậy. Trẫm đã dùng một biện pháp nghiêm nhặt nhưng vừa phải, là biện pháp phân sáp dân công giáo. Như thế dân chúng biết lòng Trẫm độ lượng đến mực nào.
"Những người có phận sự phải thi hành sắc dụ của Trẫm dạy có nhiều quan đã dùng dịp này để làm khổ dân đến cực độ. Trẫm rất lấy làm đau lòng vì những hành động trên. Lúc hòa bình trở lại, Trẫm đã cấp tốc truyền cho giáo dân về quê hương xứ sở để giữ đạo của mình.
"Dù vậy ở trong nước vẫn có bè đảng, có những đảng thấy mình được che chở thành thử trở nên kiêu căng, tìm cách báo thù, làm cho cả toàn dân phải than phiền, đàng khác ghét chúng và tìm mọi cách để phá hại.
"Phần các người công giáo, Trẫm nhận rằng : Công giáo ở vào một tình thế đau đớn, nhưng dù sao sự trung thành của người công giáo đối với Đạo và đối với luật nước làm Trẫm hết sức khâm phục. Trong cách đối xử, Trẫm sẽ không phân biệt lương hay giáo. Nếu công giáo còn giữ một mối thù, tức nhiên công giáo không theo lệnh vua. Công giáo sẽ là phiến loạn; đã là phiến loạn thì còn gì là công giáo?" "Còn Văn Thân, không hiểu các ông đã học ở sách nào để vi phạm luật nước bằng cách tập trung trong các làng để giết hại người công giáo. Các bậc thánh hiền đã lên án vũ lực, các người không có quyền hành động như thế. "Nếu hành động vì thù hằn nhau, không những người này sẽ nuốt người kia, như cá lớn nuốt cá bé ở ngoài biển, mà có khi sẽ nổi lên chống triều đình, như vậy sẽ gây ra không biết bao nhiêu tai hại. Ai sẽ chịu trách nhiệm về những vụ lộn xộn, phải chăng là Văn Thân?"(34)
Những điều vua Tự Đức nêu ra không đúng với những việc ông đã làm, nhưng điều này chứng tỏ ông nhìn nhận rằng ông đã hành động không đúng khi ra lệnh giết hại người công giáo nên đã gây ra nhiều hậu quả tai hại, trước mắt là Pháp có lý do chiếm ba tỉnh miền Nam. Ông sợ Văn Thân hành động nông nổi sẽ đưa đến mất nước. Sự lo sợ của ông sau này đã thành sự thật.
Phê bình về những sai lầm của triều đình và triều thần nhà Nguyễn đưa đến việc mất nước, sử gia Trần Trọng Kim chỉ viết có một câu ngắn nhưng rất đầy đủ :
"Sức đã không đủ giữ nước mà cứ làm điều ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước I-pha-nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy."(35)
Sử gia Trần trọng kim còn kể lại năm 1879, Nguyễn Hiệp đi sứ Thái Lan về có dâng sớ cho vua và triều đình biết Thái Lan nhờ lập điều ước cho các nước Anh, Pháp, Phổ, Ý và Mỹ đặt lãnh sự để lo việc buôn bán nên Anh không lấy cớ gì để mưu sự cướp đất. Năm 1881, Lê Đĩnh đi sứ Hồng Kông về cũng tâu như vậy, nhưng vua và triều đình không theo, để phải mất nước.
d) Trưởng thành trong đau khổ
"Phúc cho những ai bị bắt bớ vì sự công chính, vì nước trời là của họ" (Mat 5, 10)
"Ai chịu mất mạng sống vì Ta và vì Phúc âm, sẽ cứu được mạng sống chính mình" (Mc 8, 35)
Đó là những lời Thánh Kinh mà các giáo sĩ và giáo dân công giáo luôn suy niệm trong cuộc sống hằng ngày.
Nhờ sự hy sinh của giáo sĩ và giáo dân, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã bước lên trong đau khổ. Ngày 9.9.1659, các giáo sĩ thừa sai đã lập được 2 giáo phận : Giáo phận Đàng Trong và Giáo Phận Đàng Ngoài. Năm 1668 và 1669, bốn linh mục Việt Nam đầu tiên đã được phong chức tại Juthia, Thái Lan. Để giải quyết tình trạng thiếu linh mục, nhất là trong trường hợp các giáo sĩ Tây phương bị truy nã, các linh mục Dòng Tên đã huấn luyện các "thầy giảng" và thành lập Dòng Mến Thánh Giá cho các nữ tu Việt Nam. Nhờ vậy, lúc nào cũng có người dẫn dắt giáo dân. Năm 1802, Giáo Hội Việt Nam đã có 3 Giáo Phận :
- Giáo phận Đông Đàng Ngoài : 140.000 tín hữu với 1 Giám Mục, 4 Linh mục thừa sai và 41 Linh mục Việt Nam.
- Giáo phận Tây Đàng Ngoài : 120.000 tín hữu với 1 Giám Mục, 6 Linh mục thửa sai và 65 Linh mục Việt Nam.
- Giáo phận Đàng Trong : 60.000 tín hữu với 1 Giám Mục, 5 Linh mục thửa sai, 15 Linh mục Việt Nam.
Năm 1900, Việt Nam đã có 812.000 tín hữu với 473 Linh mục bản xứ và 320 linh mục ngoại quốc. Năm 1927, số giáo dân tăng lên 1.237.249 người.
Năm 1933, Linh mục Nguyễn Bá Tòng đã được phong làm Giám Mục Việt Nam tiên khởi.
Đầu năm 1954, Việt Nam đã có 1.400.000 tín hữu. Sau Hiệp Định Genève, hơn 650.000 giáo dân đã di cư vào Nam, để lại miền Bắc 10 giáo phận với 750.000 giáo dân mà chỉ có 7 Giám Mục, 374 Linh mục. Năm 1959, số giáo dân tại miền Nam là 1.226.310 với 1342 linh mục, 715 sư huynh và 3.776 nữ tu.
Trong những năm sống dưới chế độ cộng sản, nhà cầm quyền Hà Nội đã cố gắng tách Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra khỏi Tòa Thánh La Mã và quốc doanh hóa, nhưng không thành công, vì đức tin của giáo dân rất mạnh. Hầu hết giáo dân đều khai rõ tôn giáo trong Chứng Minh Nhân Dân, mặc dầu biết khai như vậy sẽ bị bạc đãi về mọi phương diện.
Về phương diện văn hóa, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng. Trước tiên là Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591-1660) đã sáng chế ra chữ quốc ngữ và hai Giám Mục Pigneau de Béhaine (1741 - 1840) và Taberd (1790 - 1840) đã hoàn chỉnh thêm. Chính chữ quốc ngữ đã làm thay đổi hẳn nền văn học Việt Nam, đưa nền văn học này ngày càng tiến mạnh. Trương Vĩnh Ký và Paulus Của đã góp phần cổ động cho sự phát triển văn học bằng chữ quốc ngữ. Nhiều quyển tự điển do các giáo sĩ biên soạn đã được phổ biến khắp nơi giúp người Việt Nam tiếp xúc với nền văn hóa Tây phương như các cuốn tự điển La Việt của Giám Mục Taberd (1838), và Ravier (1880), tự điển Việt Pháp của Linh mục Ghénibrel (1868), tự điển Việt Pháp và Pháp Việt của Linh mục G. Cordier (1930 - 1934), tự điển Việt Hoa Pháp vĩ đại của Linh mục Eugène Gouin (1957). v.v. Hai cuốn tự điển Việt Nam của Paulus Huỳnh Tịnh Của và Hội Khai Trí Tiến Đức được nhìn nhận có giá trị.
Về giáo dục, trước năm 1975, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có khoảng 900 trường trung tiểu học rải rác khắp nơi và 2 trường đại học, một ớ Đà Lạt và một ở Saigon. Những người không công giáo phải nhìn nhận rằng trường công giáo có một hệ thống giáo dục tốt. Số nhân vật cầm quyền do các trường công giáo đào tạo rất nhiều.
Về xã hội, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có nhiều cơ sở giúp đồng bào nghèo và những kẻ cô đơn, bệnh hoạn như trại tế bần, viện mồ côi, viện dưỡng lão, bệnh viện, trại cùi, cơ quan cứu tế xã hội, trại giúp đỡ trẻ bụi đời và hoàn lương gái mãi dâm, v.v. Nơi nào cần sự giúp đỡ đều có mặt của các tổ chức xã hội công giáo.
Một tôn giáo không hề được nhà nước đi thỉnh về và đưa lên làm quốc giáo, bị đàn áp ngay từ những ngày đầu bước chân đến Việt Nam, bị kỳ thị vì cho là đạo ngoại lai, thế mà trong chưa đầy 4 thế kỷ, đã lớn mạnh trên đất nước, không phải lớn mạnh bằng con số phần trăm mà lớn mạnh bằng những đóng góp thiết thực, đó là do tình yêu của Chúa Ki tô đã được thể hiện nơi các nhà truyền giáo, họ đã không ngại ngùng trước bất cứ đe dọa nào.
"Ai gieo trong nước mắt, sẽ gặt trong hân hoan" (Ps. 125, 5 - 6).
"Đâu có tình yêu và bác ái, ở đó có Thiên Chúa".
Các linh mục thừa sai ngoại quốc trước đây và người Công Giáo Việt Nam ngày nay đã và đang theo những lời đó để âm thầm bước lên.

V. KẾT LUẬN
Sau khi khảo sát qua chủ thuyết Phật Giáo và dân tộc do nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đưa ra, chúng ta nhận thấy chủ thuyết này được đặt trên hư cấu và chưa được xây dựng thành hệ thống. Những lời phát biểu về chủ thuyết đó chỉ mang hình thức "đại ngôn vô đương". Đó là một chủ thuyết bất khả thi vì đi ngược với trào lưu tiến hóa của nhân loại. Chủ thuyết này cuối cùng chỉ còn là một cuồng vọng.
Những sự khoa trương về sự đóng góp của Phật Giáo vào văn hóa và sự tồn vong của dân tộc dưới đời Lý - Trần thực chất chỉ là một huyền thoại. Về văn học, ngoài mấy bài kệ ngắn ra, chúng ta không thấy còn dấu vết gì khác. Về sự tồn vong của dân tộc nếu Hưng Đạo Đại Vương không dùng khí phách của nhà Nho để thắng cái đức từ bi của vua Trần Nhân Tông thì nước đã mất rồi. Về tình trạng kinh tế và xã hội, lúc đó một phần ba đất đai của quốc gia nằm trong tay nhà chùa, số tăng sĩ gần bằng nửa đinh phu, làm sao quốc gia có thể phát triển được ? Khuôn mẫu tổ chức xã hội này không phải là khuôn mẫu tổ chức của xã hội ngày nay. Đưa tôn giáo và đất nước trở lại tình trạng dưới thời Lý - Trần có nghĩa là đưa vào thời kỳ suy đồi chứ không phải đưa vào thời "quang hưng" như nhóm Phật Giáo cực đoan đã mô tả.
Trong khi nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung tố cáo Công Giáo đưa thực dân Pháp đến Việt Nam thì Đảng Cộng Sản Đông Dương tố ngược lại rằng phong trào phục hưng Phật Giáo là công cụ của thực dân dùng để mê hoặc quần chúng và phong trào này là "kế hoạch của sở mật thám chính trị (Pháp) bày vẽ". Sự lợi dụng tôn giáo của thực dân Pháp, của Hoa Kỳ hay của các chính quyền của cả hai miền Nam Bắc là điều không ai phủ nhận, nhưng không thể căn cứ sự lợi dụng đó để hô hào phát động thánh chiến tiêu diệt Công Giáo hay Phật Giáo. Đồng hóa sự lợi dụng Đạo của người theo đạo hay của chính quyền với Đạo là cả một sự lầm lẫn không thể tha thứ được.
Cho rằng trong 100 năm qua Phật Giáo bị ngược đãi còn Công Giáo được ưu đãi là hoàn toàn trái với sự thật. Không có một dấu vết nào trong lịch sử cho thấy dưới thời Pháp thuộc cũng như dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm, nhà cầm quyền đã giúp đỡ Công Giáo. Công Giáo Việt Nam thiết lập được một số cơ sở là nhờ sự đóng góp của giáo dân Việt Nam và sự giúp đỡ của Tòa Thánh Vatican cũng như của cộng đồng Công Giáo quốc tế. Trái lại. Phật Giáo Việt Nam đã được các chính quyền giúp đỡ về mọi mặt. Chính quyền thuộc địa Pháp đã cho các viên chức cao cấp đứng ra giúp phát triển đạo Phật. Triều đình Huế lúc nào cũng bảo trợ cho Phật Giáo. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã giúp trùng tu hầu hết các chùa trên toàn quốc, cung cấp tiền xây chùa Xá Lợi. Chính phủ Nguyễn Khánh và Nguyễn Cao Kỳ cho đất và cho 60.000.000 đồng để xây Việt Nam Quốc Tự. Báo chí Phật Giáo cho biết chính quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay cũng đã góp phần lớn lao vào việc phát triển Phật Giáo.
Có thể nói, trong 100 năm qua, Phật Giáo ở Việt Nam đã phát triển mạnh hơn bao giờ hết. Những đau thương mà Phật Giáo Việt Nam phải gánh chịu trong 30 năm gần đây phần lớn là do các phần tử Phật Giáo cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Ấn Quang gây ra hơn là do các chính quyền. Chính họ đã dồn các chính quyền vào cái thế phải đối đầu với các tham vọng của họ. Các sự kiện được nêu ra trong những chương tiếp theo sẽ chứng minh điều đó.
Qua các nhận xét nói trên, chúng ta nhận thấy lời tuyên bố "Chính trị Việt Nam suốt 100 năm này, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên chúa Giáo)" chỉ là một cách tuyên truyền để kích động quần chúng phát động đấu tranh cho những tham vọng của nhóm Phật Giáo thiển cận và cực đoan miền Trung mà thôi. Thực tế hoàn toàn trái ngược với lời tuyên bố đó.

Ghi chú Chương I :
1 Lý Khôi Việt, Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ thứ 20, Bông Sen số 17, tháng 9 & 10 năm 1993. tr. 29.
2. Marx-Engels, Tuyển Tập I, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, tr. 14.
3. Lý Khôi Việt, Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ thứ 20, Bông Sen số 17, tháng 9 & 10 năm 1993, tr. 25.
4. Phan Quang Độ, Phật Giáo và Chính Quyền, Bông Sen số 17, tháng 9 & 10 năm 1993, tr. 1 - 2.
5. Phan Quang Độ, Phật Giáo và Chính Quyền, Bông Sen số 17, tháng 9 & 10 năm 1993/ tr. 1. 3.
6. Lý Khôi Việt, Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ thứ 20, Bông Sen số 17, tháng 9 & 10 năm 1993, tr. 27.
7. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 93 - 94.
8. Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển. tr. 614
9. Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam, tập I, tr. 249.
10. Tuệ Giác, Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Hoa Nghiêm, 1964, tr. 60, 61 và 65 - 66.
11. Trịnh Văn Thanh, Phật Học, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển, Xuân Thu, 1966, tr. 1045.
12. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I, Lá Bối, 1977, tr. 215.
13. Chánh Lạc, Những Vấn Đề trong Phật Giáo, Phú Lâu Na, Hoa Kỳ, 1988, tr. 47 - 48.
14. Thiện Chiếu, Phật Giáo Vấn Đáp, Hưng Long Chợ Lớn, 1932.
15. Tuệ Giác, Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Hoa Nghiên, 1964, tr. 73.
16. Trần Trọng Kim, Phật Giáo trong ba bài diễn thuyết, Tân Việt, Sai gon, 1950.
17. R. Nixon, No More Vietnams, Arbor House, 1985, p. 67.
18. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển II, tr. 74.
19. Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển. Xuân Thu, tr. 1427
20. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, tập II.
21. Thích Phước Sơn, Hoa Sen số 18, tháng 1/1993.
22. Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển tr. 1410 - 1411.
23. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 139.
24. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển I, tr. 93 - 96.
25. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 182.
26. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 116, 137.
27. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập III, Lá Bối, 1985, tr. 168
28. Bông Sen số 4 & 5 tháng 1 & 2 năm 1992, tr. 19.
29. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tập I, Nhà xuất bản Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1979, tr. 124 & 254.
30. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. tr. 227.
31. Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, Quyển I, 1966. tr. 449 - 450.
32. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển II, 1971. tr.100, 227-228.
33. Ravier, Sử Ký hội Thánh, III, Hà Nội, 1934.
34. Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, Quyển I, 1966, tr. 511 - 513.
35. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, tr. 242.

Chưong II
Tương quan giữa Phật Giáo và CSVN

Sự liên hệ chặt chẽ giữa Phật Giáo và Cộng Sản Việt Nam được tìm thấy dễ dàng trong các tài liệu Việt Cộng viết sau 30.4.1975, trong các bút ký của một số nhà lãnh đạo Phật Giáo, trong sử liệu của các sử gia Phật Giáo hay sử gia miền Nam Việt Nam, trong các tài liệu của Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình (WCRP) và Hội Nghị Á Châu về Tôn Giáo và Hòa Bình (ACRP), trong cuốn "Violations of Human Rights in The Socialist Republic of Vietnam" do tổ chức Aurora Foundation xuất bản năm 1989 và trong các tài liệu của các tổ chức bảo vệ nhân quyền khác như Amnesty International, v.v... Sự liên hệ này được tìm thấy ngay cả trên các sách và báo chí của các tăng sĩ hay cư sĩ Phật Giáo Việt Nam xuất bản ở hải ngoại.

Phủ Đặc ủy Trung ương Tình Báo và Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa trước đây cũng có hồ sơ đầy đủ chi tiết về các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo đi theo hay hoạt động cho Việt Cộng. Riêng các tài liệu liên hệ đến Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Minh Châu đã có lần được đem trình bày cho một vài ký giả ngoại quốc và Việt Nam cũng như cho một số nghị sĩ và dân biểu thân chính quyền tại Saigon trong một buổi họp kín khi những người này nêu thắc mắc về hành động của chính phủ đối với một vài hoạt động của Phật Giáo. Được hỏi tại sao không bắt những tăng sĩ hoạt động cho Việt Cộng khi đã có bằng chứng rõ ràng, viên chức tiết lộ tài liệu đã nêu ra hai lý do : Lý do thứ nhất là mọi hành động liên hệ đến tôn giáo đều phải được tính toán một cách thận trọng để tránh những phản ứng bất lợi về chính trị. Chỉ khi nào quá cần thiết mới bắt. Lý do thứ hai là duy trì tình trạng đó để theo dõi các hoạt động nội thành của Việt Cộng, nhất là trong khối Phật Giáo Ấn Quang. Phá một đường dây thì dễ nhưng móc nối lại để theo dõi rất khó. Chúng tôi đã cố gắng kiểm chứng lại các tài liệu đã được tiết lộ và nhận thấy hoàn toàn đúng. Dĩ nhiên, cơ quan tình báo CIA của Hoa Kỳ cũng được cung cấp đầy đủ các hồ sơ này và cựu Tổng Thống Richard Nixon đã xử dụng các tài liệu đó để viết về trường hợp của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Phật Giáo trong cuốn No More Vietnams.

Ngày 19.5.1941, tại Pác-bó, Cao Bằng, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh. Mặt Trận này được thành lập căn cứ vào Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp vào đầu tháng 5 năm 1941. Theo Nghị Quyết này, Mặt Trận Việt Minh sẽ quy tụ các hội cứu quốc. Đảng Cộng Sản Đông Dương được coi là một đoàn thể cứu quốc nên là thành viên của Mặt Trận và có trách nhiệm lãnh đạo Mặt Trận.(1)

Trong danh sách các hội cứu quốc của Mặt Trận Việt Minh, người ta thấy có Hội Công Dân Cứu Quốc, Hội Nông Dân Cứu Quốc, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hội Phụ Nữ Cứu Quốc, Hội Phụ Lão Cứu Quốc, Hội Nhi Đồng Cứu Quốc, v.v. Về tôn giáo, người ta chỉ thấy có Hội Phật Giáo Cứu Quốc mà không thấy có Hội Cao Đài Cứu Quốc, Hội Phật Giáo Hòa Hảo Cứu Quốc hay Hội Công Giáo Cứu Quốc. Tại sao ? Đây là vấn đề chúng tôi sẽ đề cập trong chương nói về Thiên Chúa Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo với Cộng Sản Việt Nam.

Tháng 8 năm 1945, khi mới chớp được chính quyền, thế lực còn yếu, Hồ Chí Minh đã tìm cách ve vãn các tôn giáo để thu hút các tôn giáo đứng vào Mặt Trận Việt Minh. Nhân dịp lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh thường gởi thông điệp chúc mừng các tín đồ liên hệ.

Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, Hòa Thượng Thích Huyền Quang có viết :
"Cụ Hồ lãnh đạo Kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi lần lễ Noel đến, cụ Hồ không quên gởi Thông Điệp chúc mừng Noel, thân thiện với Thiên Chúa Giáo. Năm rồi Đài Phát Thanh Hà Nội có dành hai giờ văn nghệ, để cúng dường Giáng Sinh. Trong lúc đó, lễ Phật đản chúng tôi, không được Nhà Nước nói đến một lời nào mà còn làm khó dễ đủ thứ trong việc tổ chức lễ Phật đản. Tôi nghĩ, và có lẽ tôi nghĩ không sai : Ai mạnh thì Nhà Nước coi trọng, ai yếu thì Nhà Nước xem khinh..."
Đọc qua đoạn này, nhiều nhân sĩ Phật Giáo đã nói rằng Hoà Thượng Huyền Quang thiếu thận trọng, không được thông tin đầy đủ và có tinh thần bài Thiên Chúa Giáo khi viết lá đơn nói trên. Sự thật, theo thư tịch mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã công bố, vào các lễ lớn của Phật Giáo như Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh có gởi thông điệp khúc mừng đến tín đồ Phật Giáo như ông đã gởi cho các tín hữu Công Giáo nhân dịp lễ Giáng Sinh. Sau đây là một đoạn trong Thông Điệp đề ngày 15 tháng 7 âm lịch năm Bính Tuất (tức 11.8.1946) gởi Hội Phật Tử Việt Nam :
"Nhân ngày lễ Phật rằm tháng Bảy, tôi kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào ta, và tôi gởi lời thân ái chào các vị trong Hội Phật Tử.
"Từ ngày Nước ta trở nên Dân chủ cộng hòa, Hiến Pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phát triển một cách thuận tiện.
"Thế là : Nước độc lập thì đạo Phật mới dễ mở mang.
"Bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta. Chúng đốt chùa chiền, phá tượng Phật, hành hạ tăng ni, tàn sát đạo hữu. Chúng hòng phá tan Đạo Phật.
"Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khốn nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma..."(2)
Mặc dầu được ve vãn, các giáo sĩ lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã không tham gia Mặt Trận Việt Minh vì biết Mặt Trận đó là của Cộng Sản. Trái lại, một số đông tăng sĩ cao cấp của Phật Giáo đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh ngay từ khi Mặt Trận này mới thành lập và nhất là vào năm 1945, khi Việt Minh đã cướp được chính quyền. Đa số các tăng sĩ gia nhập Mặt Trận này đều là người Miền Trung, xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế. Có lẽ các tăng sĩ này đã chịu ảnh hưởng của hai nhân vật quan trọng là Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học và Bác Sĩ Lê Đình Thám, Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học. Khi Việt Minh lên nắm chính quyền, Hòa Thượng Thích Trí Độ được cử giữ chức Chủ Tịch Trung ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, còn Bác Sĩ Lê Đình Thám trờ thành Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. Một số tăng sĩ xuất thân từ hai tổ chức trên đã vào chiến khu hoạt động cho Việt Minh. Một số khác ở lại làm nội tuyến, thành lập những tổ chức ngoại vi nhằm giúp Việt Cộng đánh bại phe quốc gia và thiết lập chế độ cộng sản.
CÁC TĂNG SĨ VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO ĐÃ HOẠT ĐỘNG CHO VIỆT CỘNG
Số tăng sĩ và cư sĩ nòng cốt của Phật Giáo đi theo Mặt Trận Việt Minh hoặc yểm trợ các hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam khá đông. Một số cao tăng đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh ngay từ đầu nên đã lôi kéo các môn sinh của họ gia nhập Mặt Trận này.
Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu
Không biết tên thật, sinh năm 1898 tại Rạch Giá (? dấu chấm hỏi của tác giả), tu ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Ông là người có kiến thức rộng, ở trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Chính ông là người đầu tiên đã đem chủ nghĩa cộng sản vào Phật Giáo và biến chùa Tam Bảo thành căn cứ địa của kháng chiến. Năm 1940, ông đi theo phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở Hốc Môn, Gia Định. Đến năm 1942, ông bị Pháp bắt và bị đày đi Côn Sơn. Năm 1945, Pháp bị Nhật đuổi, Việt Cộng cướp chính quyền, ông được đưa về làm Tỉnh ủy Gò Công. Năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, ông theo Việt Cộng tập kết ra Bắc. Củng cố xong miền Bắc, Hồ Chí Minh không dùng các thành phần miền Nam tập kết nữa, ông được đưa vào Ủy Ban Xã Hội của Viện Triết Học rồi cho hưu trí. Ông chết tại Hà Nội ngày 23.8.1974.
Hòa Thượng Thích Trí Độ
Hòa thượng Thích Trí Độ tên thật là Nguyễn Kim Ba, sinh năm 1895 tại làng Phổ Trạch, An Nhơn, Bình Định, thọ giới và xuất gia với Hòa Thượng Thích Trí Hải ở chùa Bích Liên An Nhơn, Bình Định, sau ra làm Giám Đốc Trường An Nam Phật Học ở Huế và trụ trì ở chùa Trúc Lâm.
Ngày 19.8.1941, Hồ Chí Minh thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, ông gia nhập ngay và làm Chủ Tịch Trung ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì uy tín của ông trong Trường An Nam Phật Học ở Huế, Đảng Cộng Sản Đông Dương giao cho ông nhiệm vụ tổ chức hội cứu quốc trong hàng ngũ Phật Giáo trên toàn quốc.
Năm 1945, khi Đảng Cộng Sản Đông Dương cướp chính quyền, Hòa Thượng Thích Trí Độ đứng ra hô hào Phật Giáo ủng hộ Cách Mạng. Ông dùng tờ Đuốc Tuệ của Phật Giáo kêu gọi các tăng ni Phật tử tham gia các Hội Cứu Quốc. Đuốc Tuệ số ngày 30.8.1945 đã hô hào: "Tăng ni các hạt mau lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc, theo mục đích mà tham gia vào cuộc cách mạng hiện thời."
Ngày 27.5.1946, Hồ Chí Minh thành lập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam để đánh lừa các tôn giáo và đảng phái quốc gia, ông là Ủy viên Trung ương của hội này.
Năm 1949, Hồ Chí Minh thành lập Ban Vận Động Hòa Bình Thế Giới và cử cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám làm Chủ Tịch. Ông cũng nằm trong ban lãnh đạo của tổ chức đó.
Ngày 5.3.1951, Hồ Chí Minh sát nhập Mặt Trận Việt Minh với Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt, ông trở thành Ủy viên Trung ương của Mặt Trận Liên Việt
Năm 1953, Hồ Chí Minh lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới, ông cũng giữ chức Ủy viên của Ủy Ban
Sau khi chiếm được miền Bắc Việt Nam, Việt Cộng đổi Mặt Trận Liên Việt thành Mặt Trận Tổ Quốc, ông làm Ủy viên Trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc. Năm 1955, Việt Cộng cho lập Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để quy gồm tất cả các tông phái Phật Giáo miền Bắc vào Mặt Trận Tổ Quốc, ông là Chủ Tịch hội này từ 1955 - 1979, tức đến lúc ông qua đời. Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (Bắc) là người kế vị ông.
Hòa Thượng Thích Trí Độ là một đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông luôn tuân hành các chỉ thị của đảng trong công tác vận động Phật Giáo, không bao giờ có hành động tự phát hay sai lệch, vì thế ông được đảng tín nhiệm. Trong thời gian hoạt động cho Việt Cộng, ông được chọn làm đại biểu Quốc Hội các khóa 2, 3, 4, 5 và 6 và là Ủy viên Ban Thường Vụ Quốc Hội. Ông qua đời ngày 24.10.1979 tại Hà Nội, được Nhà Nước ban Huân Chương Độc Lập hạng ba và Huân Chương Kháng Chiến hạng nhì.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu tên thật là Diệp Thuần, sinh năm 1904 tại làng Xuân An (sau gọi là Triệu Thượng ?), Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1927 và theo học với Hòa Thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên ở Huế. Về sau ông là Giảng sư của Phật Học Đường Thừa Thiên và là Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học.
Sau khi Hòa Thượng Thích Đôn Hậu qua đời ngày 23.4.1992, Nhật báo Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Việt Nam ra ngày 25.4.1992 đã đăng một "TIN BUỒN" của Quốc Hội, Mặt Trận Tổ Quốc, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế và Pháp Quyền, cho biết những "thành tích" mà Hòa Thượng đã đạt được trong các công tác mà Đảng và Nhà Nước giao phó như sau :
"Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, sinh ngày 17.2.1905 tại xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
"Đại biểu Quốc Hội khóa VI, nguyên Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, nguyên Ủy viên Hội Đồng Chinh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Chủ Tịch Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam, nguyên Ủy viên Thường Trực Hội Phật Giáo Châu Á vì Hòa Bình (ABCP), Phó Pháp Chủ Kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
"Huân chương Hồ Chí minh, Huân chương Độc Lập hạng nhì, Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân. "
"Sau một thời gian bị bệnh nặng, đã được các giáo sư bác sĩ hết lòng cứu chữa, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Hòa Thượng đã viên tịch tại chùa Linh Mụ, thành phố Huế, hồi 19 giờ 55 phút ngày 23.4.1992 (ngày 21 tháng 3 năm Nhâm Thân). "
"Là nhà tu hành chân chính và giàu lòng yêu nước, sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, Hòa Thượng được mời trụ trì tại chùa Linh Mụ, thành phố Huế, giữ chức Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ kiêm Chủ Tịch Hội Phật Học tỉnh Thừa Thiên.
"Năm 1947, Hòa Thượng bị thực dân Pháp bắt giữ một thời gian. Sau khi được tự do, Hòa Thượng lần lượt giữ chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học Trung Việt, Giám Luật của Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc, chủ nhiệm báo Liên Hoa.
"Từ năm 1963, Hòa Thượng là một trong những giáo phẩm cao cấp Phật Giáo tham gia đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.
"Năm 1964, Hòa Thượng giữ chức Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh và tỉnh Thừa Thiên thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
"Từ năm 1968, Hòa Thượng ra vùng giải phóng tiếp tục tham dự sự nghiệp cứu nước và hoành dương Phật pháp, Hòa Thượng được cử giữ nhiều chức vụ quan trọng (như đã kể trên).
"Từ năm 1975, Hòa Thượng trở lại trụ trì chùa Linh Mụ lo việc hoành dương Chánh Pháp và đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, tiếp đó kiêm giữ chức Xử Lý Viện Tăng Thống (khi Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết viên tịch vào năm 1977). Đầu năm 1980, Hòa Thượng là Cố Vấn Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo trong cả nước để thành lập giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh).
"Tại Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo việt Nam, tháng 11 năm 1981, Hòa Thượng được chư tôn giáo phẩm và toàn thể đại biểu đại hội suy tôn làm Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh) ..."
Năm 1947 Hòa Thượng Đôn Hậu bị Pháp bắt và tra tấn, định đem đi bắn, may nhờ sự can thiệp của Bà Từ Cung nên ông được thả ra.
Sau biến cố Tết Mậu Thân, không ai biết Hòa Thượng Đôn Hậu đi đâu. Bỗng nhiên đài phát thanh Hà Nội phát đi lời kêu gọi của Hòa Thượng Đôn Hậu, trong lời kêu gọi đó có câu "Chư Tăng, Ni và đồng bào Phật tử hãy đoàn kết với nhau, nhất tề vùng lên đánh đuổi Đế Quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai Đế Quốc Mỹ." Sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, Hòa Thượng Đôn Hậu trở lại Huế và giữ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống của Giáo Hội Ấn Quang. Ngày 31.1.1979, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Viện Trưởng Viện Tăng Thống qua đời, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống. Với tư cách này, ông đã cùng Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Thích Trí Tịnh đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh năm 1981 và giữ chức Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh của Giáo Hội quốc doanh.
Đám tang của Hòa Thượng Đôn Hậu được tổ chức rất trọng thể. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước kiêm Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đứng ra làm Trưởng Ban Tổ Chức Tang Lễ. Đến tham dự tang lễ, ngoài Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ còn có ông Nguyễn Quyết, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, ông Lê Quang Đạo, Chủ Tịch Quốc Hội, ông Phan Minh Tánh, Trưởng Ban Dân Vận Trung ương, ông Vũ Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng và các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương.
Các tăng ni ở Huế không muốn nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam nhắc đến các chức vụ mà Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đã đảm nhận trong chế độ cộng sản Việt Nam, nên đã cãi qua cãi lại với đại diện chính quyền, nhưng Nhà Nước vẫn cho công bố các chức vụ và huy chương của Hòa Thượng Đôn Hậu trên nhật báo Nhân Dân.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu được coi như người có tư tưởng ôn hòa, ông chú tâm vào việc đạo hơn việc đời, ăn nói lúc nào cũng hòa nhã. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông không hề xúc phạm các tôn giáo khác hay các phe bất đồng chính kiến với Giáo Hội Ấn Quang. Nhưng ông cũng quá nhu nhược nên đã trờ thành một công cụ tốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong lá bài Phật Giáo. Ông không phải là đảng viên và chỉ hoạt động trong các tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhưng ông đã hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam giao phó cho ông, kể cả công việc gay cấn nhất là đem Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh. Ông không hề có một lời phản đối chính thức nào.
Một đoạn sau đây trong thư Hòa Thượng Đôn Hậu gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam mà tạp chí Giao Điếm của Hồng Quang ở Orange County đã đăng cũng đủ cho thấy vai trò của Hòa Thượng Đôn Hậu trong công tác dân vận của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
"Kính thưa quý vị,
"Trước đây, tại Trường Sơn, khi được đề cử chức Phó Chủ Tịch Trung ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam, tôi có trình bày nguyện vọng rằng, khi hòa bình được lập lại xin cho tôi trở về cương vị một tu sĩ thuần túy, và được cơ quan chấp thuận. Nguyện vọng này cũng đã được Đại Diện Ủy Ban Thống Nhất tại Hà Nội đồng ý.
"Nhưng sau khi hòa bình trở lại, vì nhu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, tôi vẫn cố gắng tiếp tục công tác được giao phó bằng cả tâm huyết và rồi sau đó cố gắng ra ứng cử Đại Biểu Quốc Hội... "
Những chức vụ ông đảm nhận trong chế độ cộng sản cũng như trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đều là hữu danh vô thực. Trong chế độ cộng sản, ông chỉ thi hành mệnh lệnh của Đảng Cộng Sản. Trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, các Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh đã mượn danh nghĩa của ông cũng như Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết để hành động. Hai đại lão Hòa Thượng nầy nhiều khi không biết gì cả.
Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vẫn quả quyết Hòa Thượng Đôn Hậu làm những công việc trái với quyền lợi của Phật Giáo Ấn Quang là vì có sự cưỡng bức của Việt Cộng, nhưng một số Phật tử đã thắc mắc : Một vị đại lão Hòa Thượng như thầy Đôn Hậu không lẽ đành chịu cúi đầu trước sự cưỡng bức sao ? Nhiều tăng sĩ trẻ hơn đã chịu tra tấn, chịu chết hay chịu giam cầm trong ngục tù chứ không bao giờ khuất phục trước bạo quyền cộng sản.
Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Hòa Thượng Thích Huyền Quang có tên thật là Lê Đình Nhàn, sinh năm 1917 tại Bình Định. Thủa nhỏ, ông theo học ở Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh, sau về học Phật Học Đường Long Khánh ở Bình Định. Ông không được đào tạo tại Trường An Nam Phật Học ở Huế như một số tăng sĩ khác nên kiến thức chỉ có giới hạn.
Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Hòa Thượng Thích Trí Độ, giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật giáo Cứu Quốc Bình Định, sau đó ông được chọn làm Khu Ủy Viên Liên Khu V kiêm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu V từ 1945 đến 1951. Năm 1951, Hồ Chí Minh quyết định sát nhập Mặt Trận Việt Minh (trong đó có các Hội Cứu Quốc) và Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt. Các hội cứu quốc bị hủy bỏ, trong đó có Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì thế, Thượng Tọa Thích Huyền Ouang bị mất chức Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu V. Ông không theo kịp sự chuyển hướng trong đường lối của Đảng nên đã phản đối và bị bắt giam từ 1952 đến 1954 mới được trả tự do. Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6. 1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Huyền Ouang nói rất rõ :
"Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 cũ (trong Mặt Trận Việt Minh), được thành lập đồng lúc cùng với các đoàn thể cứu quốc khác, sau ngày khởi nghĩa mùa thu 1945, tại các tỉnh : Nam, Ngãi, Bình, Phú. Sau sáu năm làm việc cứu quốc, như các tổ chức nhân dân khác, đến năm 1951, Mặt Trận Liên Việt Liên Khu 5, buộc chúng tôi mở đại hội tại Bồng Sơn, Bình Định, để lấy quyết định "chuyển hướng công tác " bằng cách cắt bỏ hai chữ cứu quốc và giao hết quần chúng Phật tử qua các tổ chức nhân dân khác. Phật giáo chúng tôi bây giờ, sau Đại hội trên chỉ còn cái tên là : Hội Phật Giáo Liên Khu 5 không có quần chúng. Mặt Trận Liên Việt cắt đứt hết mọi liên hệ với Phật giáo chúng tôi. Tôi chống việc làm đó nên bị bắt giam tại Quảng Ngãi từ 1952 - 1954."
Mặc dầu đã ở trong vùng Cộng Sản chiếm đóng tại Liên Khu V từ 1945 đến 1954, làm việc và ở tù dưới chế độ cộng sản, Hòa Thượng Thích Huyền Quang tỏ ra không am tường nhiều về Cộng Sản. Ngoài chuyện không hiểu tại sao Hồ Chí Minh giải tán các Hội Cứu Quốc năm 1951 như đã nói trên, ông còn phạm một lỗi lầm to lớn là sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, ông và Viện Hóa Đạo Ấn Quang đã vội vàng thương lượng với Hội Phật Giáo quốc doanh miền Bắc để thống nhất Phật Giáo hai miền và tạo uy thế cho Giáo Hội Ấn Quang. Sự vội vàng này đã để lộ cho Việt Cộng thấy rõ tham vọng của các tăng sĩ trong Viện Hóa Đạo Ấn Quang nên tìm cách gây mâu thuẫn nội bộ và diệt từng phần. Gom không được Hội Phật Giáo miền Bắc vào Giáo Hội Ấn Quang, ông và các tăng sĩ trong Giáo Hội Ấn Quang đã tổ chức Đại Hội Phật Giáo kỳ 7 để củng cố nội bộ và quay lại chống chính quyền. Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh vào đêm 6.4.1977, ông đã bị bắt giam cùng với một số tăng sĩ khác. Ông đã bị truy tố và đưa ra Tòa án Nhân Dân tại Saigon xét xử ngày 8.12.1978 . Ông bị phạt hai năm tù treo. Trong phiên tòa nói trên, Viện Kiểm Sát có đọc lời tự thú của ông khi bị giam ở công an như sau :
"Từ trước đến nay, chủ trương của chúng tôi là bất hợp tác với chính quyền. Chúng tôi xin xác nhận rằng, trong quá khứ cũng như từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, chúng tôi có những việc làm sai trái với đường lối chính sách, luật pháp của chính quyền. Những tội lỗi là do chúng tôi gây ra."(3)
Tháng 11 năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh được thành lập và nhà cầm quyền coi như Giáo Hội Ấn Quang đã gia nhập vào Giáo Hội này, nhưng ông và một số tăng sĩ trong Viện Hoá Đạo đã chống lại việc sát nhập đó. Ông được cử làm Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thay thế Hòa Thượng Thích Trí Thủ đã đi vào Giáo Hội quốc doanh nên tháng 2 năm 1982 ông bị bắt và bị chỉ định cư trú tại chùa Hội Phước, xã Nghĩa Chánh, trong thị xã Quảng Ngãi.
Người Pháp nói : "Le style c’est l’homme." (văn là người). Đọc "Đơn cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội do Hòa Thượng Thích Huyền Quang viết, chúng ta biết được kiến thức, những suy tư và quan điểm chính trị của ông. Lúc đầu, ông Võ Văn Ái đã cắt xén và trau chuốt cả hình thức lẫn nội dung lá đơn này lại trước khi phổ biến. Nhưng khi nhận được bản sao toàn văn của đơn này, mọi người đã thất vọng. Các nhân sĩ Phật Giáo lấy làm tiếc về những lời ông đã viết trong đơn. Nhìn chung, qua lá đơn này, người ta thấy kiến thức và sự hiểu biết của ông rất giới hạn nên ông có nhiều nhận định sai lầm. Ông lại có tinh thần đố kỵ Thiên Chúa Giáo. Bất cứ lúc nào có cơ hội, ông đều đưa Thiên Chúa Giáo ra để suy tỵ hay mỉa mai. Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc", ông hỏi tại sao Nhà Nước quốc doanh hóa Phật Giáo Ấn Quang mà không quốc doanh hóa Giáo Hội Thiên Chúa Giáo ? Phải chăng Nhà Nước đã "xem kẻ thù như quý khách" và xem Phật Giáo là "con nhà nghèo"? Trong dịp lên tiếng tại chùa Linh Mụ ngày 3.5.1992 nhân đám tang của Hòa Thượng Đôn Hậu, ông hỏi tại sao các linh mục Thiên Chúa Giáo được tự do hành lễ, còn ông không được Ban Tổ Chức cho hành lễ ở Huế ? Chính sự thiếu hiểu biết và đố kỵ này đã gây nên những phản ứng không thuận lợi cho cuộc đấu tranh mà ông đang phát động.
Cách viết của Hòa Thượng Huyền Quang trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" không phải là cách viết của một nhà chân tu và càng không phải là cách viết của một nhà lãnh đạo cao cấp của một tôn giáo. Lòng thù hận của ông đã bộc lộ một cách công khai khi viết cũng như khi nói.
Trong văn thư số 248 CV/TGCP ngày 25.7.1993 gởi Hòa Thượng Huyền Quang, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã trả lời những điểm mà ông khiếu nại bằng những lời lẽ khá gay gắt, nhất là về điểm hai Hòa Thượng Thích Đôn Hậu và Thích Trí Thủ đem Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh. Ban Tôn Giáo kết luận :
"Yêu cầu ông nhận rõ lẽ phải và đạo lý, nhận rõ sai lầm, khuyết điểm đối với đạo, đối với đất nước, đối với pháp luật để thành tâm sửa chữa và chuyên tâm tu hành vì sự nghiệp cao cả phụng sự dân tộc và đạo pháp."
Hòa Thượng Thích Huyền Quang không phải là đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông chỉ tham gia các hoạt động ngoại vi của Đảng nên không hiểu nhiều về đường lối, chiến lược, chiến thuật và thủ đoạn của Đảng. Ông bị mang họa do sự thiếu hiểu biết nầy.

Thượng Tọa Thích Mật Thể
Thượng Tọa Thích Mật Thể có tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1921 tại làng Nguyệt Biều, Hương Thủy, Thừa Thiên. Ông theo học Hòa Thượng Thích Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm, Huế. Ông có soạn bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Ông thông thạo về Hán học. Về Tây học, ông học chưa tới nơi tới chốn, nhưng nhờ thông minh và chịu tự học thêm, ông có kiến thức rất khá.
Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc và làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Thừa Thiên. Ông theo Hòa Thượng Thích Trí Độ hoạt động rất tích cực cho Việt Minh. Nhờ ông và Hòa Thượng Trí Độ cổ võ, rất nhiều tăng sĩ trong Hội An Nam Phật Học đã gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Vì công trạng của ông, năm 1946 ông đã được Đảng Cộng Sản Đông Dương bố trí cho làm Đại Biểu Quốc Hội khóa I. Ông là một chức sắc cao cấp đầu tiên của Phật Giáo tham gia chính quyền.
Khi quân Pháp trở lại chiếm Huế, ông theo Việt Minh tản cư ra Đồng Hới rồi đến Vinh. Cùng đi với ông có Đại Đức Thích Thiện Mẫn. Trước khi đi, ông tập họp một số tăng sĩ và cư sĩ tại chùa Thế Chí ở Đại Lộc, tỉnh Thừa Thiên, dặn dò những người này những công việc phải làm. Tham dự cuộc họp này có các Đại Đức Thích Đức Trạm, Thích Mãn Giác, Thích Thiện Ân và hai cư sĩ. Những người này sau đó đều trở lại Huế.
Trong thời gian chống Pháp, ông làm công tác hậu cần ở Liên Khu IV. Sau hiệp định Genève 1954, ông không được chế độ miền Bắc tin dùng, ông quay lại phê bình chế độ nên bị quản chế ở Nghệ An. Nhiều người ở Nghệ An vào cho biết ông phải lao động vất vả mới có ăn nên bị bệnh và chết năm 1961, lúc chỉ mới có 49 tuổi.
Thích Mật Thể là người thông minh và hòa nhã, không có tham vọng chính trị. Ông bị Việt Cộng lừa nên theo. Khi ông khám phá ra các sự gian dối của Cộng Sản thì đã muộn.
Thượng Tọa Thích Thiện Minh
Thượng Tọa Thích Thiện Minh tên thật là Đỗ Xuân Hàng sinh năm 1921 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943, cùng một khóa với Thượng Tọa Thích Trí Quang và cũng là học trò của Hòa Thượng Thích Trí Độ. Lúc đầu ông lấy pháp danh là Thích Trí Nghiễm, sau đổi thành Thích Thiện Minh.
Năm 1945, ông tham gia Hội Phật Giáo Cứu Quốc của Hòa Thượng Thích Trí Độ và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Quảng Trị. Năm 1946, ông bị Pháp bắt tại Quảng Trị, nơi ông đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh. Ông bị quản thúc tại đây cho đến năm 1947 thì được phóng thích và trở lại chùa Từ Đàm ở Huế. Từ năm 1948, ông vào hoạt động ở vùng Nha Trang và Đà Lạt. Thượng Tọa Thích Huyền Minh cho biết, trong thời gian này ông vừa hoạt động về Phật sự vừa tham gia các hoạt động kháng chiến. Ông thường đến dự các phiên họp bí mật ở vùng Việt Cộng kiểm soát. Sau Hiệp Định Genève 1954, lúc ông hoạt động ở Nha Trang, lúc ông lại về chùa Từ Đàm ở Huế.
Trong cuộc tranh đấu chống chính quyền Ngô Đình Diệm ông là Trưởng Phái Đoàn Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo thương lượng với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông cùng với Thượng Tọa Thích Trí Quang thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc phát động chiến dịch đánh phá ở miền Trung. Đầu tháng 4 năm 1966, ông tuyên bố sinh viên Saigon đã nhận 5 triệu của chính phủ để không tham gia đấu tranh. Ngày 13.4.1966, sinh viên của 14 phân khoa Đại Học Saigon họp báo yêu cầu ông đưa bằng chứng về vụ này, nếu ông không xuất trình bằng chứng, sinh viên sẽ tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ để phản đối. Ngày 17.4.1966, ông phải gởi một thư ngỏ cho sinh viên nói ông không hề tuyên bố như vậy, đây chỉ là một sự hiểu lầm.
Lúc 10 giờ 30 ngày 1.6.1966, ông vừa đến trụ sở Tổng Hội Thanh Niên ở đường Công Lý thì bị một kẻ lạ mặt ném lựu đạn và bị thương nặng. Vụ này không được Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang làm lớn chuyện như các vụ khác. Theo Thượng Tọa Thích Huyền Minh thì vụ nầy chỉ liên quan về nội bộ, do những sự tranh chấp về chính trị và tài chánh. Điều này chứng tỏ đang có một sự nứt rạn giữa ông và Thích Trí Quang. Thông thường thì Thượng Tọa Thích Trí Quang không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để xách động quần chúng, nhưng ông đã không khai thác vụ Thích Thiện Minh bị mưu sát.
Sau khi các phong trào đấu tranh miền Trung bị dẹp tan (xem ở Chương IV), Thượng Tọa Thích Thiện Minh bắt đầu đứng hẳn về lập trường của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng sự nứt rạn giữa ông và Thượng Tọa Thích Trí Quang trở nên trầm trọng hơn. Năm 1968, ông tách ra khỏi các tổ chức của Thích Trí Quang và thành lập một tổ chức mới gọi là Phật Xã Đảng (tức Đảng Xã Hội Phật Giáo). Tuy nhiên, đảng của ông không thu hút được Phật tử vì miền Nam không phải là địa bàn hoạt động quen thuộc của ông. Từ năm 1969, ông bất đầu đi thuyết pháp khắp nơi, nhất là các tỉnh miền Tây, tố cáo sự độc tài và tham nhũng của chính quyền. Ông thường tố cáo mà không cần dẫn chứng các điều ông tố cáo.
Ngày 25.2.1969, cơ quan an ninh lục soát Tịnh xá Quảng Đức, nơi Thích Thiện Minh cư trú và hoạt động, tìm thấy một số võ khí, các tài liệu tuyên truyền cho Việt Cộng và nhiều thanh niên trốn quân dịch. Thích Thiện Minh đã bị bắt giữ và bị truy tố ra Tòa. Trong phiên tòa ngày 15.3.1969, Tòa án Quân Sự Mặt Trận Vùng III đã tuyên phạt ông 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Khi bản án này được công bố trên đài phát thanh và trên báo chí, thì chỉ ngày hôm sau đài phát thanh Hà Nội đã cho đọc một bản tuyên bố của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu ở miền Bắc, nhân danh Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình, phản kháng vụ bắt giam Thích Thiện Minh, kêu gọi Phật tử đứng lên lật đổ chính quyền miền Nam và lập một nội các hòa bình để nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhờ các cuộc thương lượng ôn hòa giữa Viện Hóa Đạo Ấn Quang và chính phủ, ngày 30.11.1969 Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã được ân xá.
Năm 1970, ông cầm đầu Phái Đoàn Phật Giáo Ấn Quang đi dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình ở Nhật và đưa ra Tuyên Ngôn 6 điểm giống hệt các đề nghị của Hà Nội tại hòa đàm Paris : Mỹ ngưng ném bom B-52, ngưng các cuộc hành quân bình định tại miền Nam, thả hết các tù cộng sản đang bị giam giữ, Mỹ rút và giải tán chính quyền bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu, v.v. .
Hiệp Định Paris vừa được ký kết ngày 27.1.1973, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã ra thông bạch tuyên bố thành lập ngay Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc và giao cho Luật Sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch. Mục tiêu của lực lượng này là quy tụ các thành phần thân Cộng để đưa vào Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải Hòa Hợp dự liệu trong Hiệp Định, giúp Việt Cộng chiếm đa số trong Hội Đồng.
Sau 30.4.1975, ông cũng góp phần với Thượng Tọa Thích Mãn Giác trong việc tổ chức mừng "giải phóng" ngày 15.5.1975 và lễ sinh nhật "bác Hồ" ngày 19.5.1975. Nhưng sau khi sau khi mưu tìm một sự thống nhất Phật Giáo dưới quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ấn Quang bị Việt Cộng ngăn chận, ông cũng như đa số các tăng sĩ trong khối Ấn Quang quay lại chống đối chế độ. Sau khi công an lục soát chùa Ấn Quang vào ngày 6.4.1977, ông bị bắt cùng một số tăng sĩ khác. Đầu tiên ông bị giam ở công an, sau đưa vào khám Chí Hòa, rồi chuyển ra trại Hàm Tân ở Bình Tuy và ông đã chết trong tù vào tháng 10 năm 1978. Theo cơ quan công an Việt Cộng cho biết, Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị chết vì bệnh viêm não tại trại Hàm Tân, nhưng một vài tờ báo Phật Giáo tại Hoa Kỳ nói rằng ông bị tra tấn và chết tại trại thẩm vấn X4 ở đường Nguyễn Trãi Saigon, sau đó xác ông được đưa về hóa trang ở trại Hàm Tân. Tin này chưa phối kiểm được. Trước khi Thượng Tọa Thích Thiện Minh qua đời ít lâu, cụ Cao Huy Đính từ Bắc vào có ghé thăm và khuyên bảo ông. Thích Thiện Minh biết mình không còn sống được bao lâu nữa nên đã than với cụ Cao Huy Đính : "Mình đã lỡ đưa chúng nó vào thì mình phải chịu cái quả". Cụ Cao Huy Đính đã nhờ nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn nói lại cho anh em nghe những điều đó khi đến Hoa Kỳ.
Trong những người xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế, ông được coi là một người xuất sắc nhất, vượt xa Thượng Tọa Thích Trí Quang. Ông có tài đối đáp mau lẹ nên thường được cử làm trưởng các phái đoàn Phật Giáo đi thương thuyết hay dự hội nghị Phật Giáo Quốc Tế. Nhưng ông thuộc vào loại nóng tính và quá khích, có tinh thần Phật Giáo cực đoan. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông hay có luận điệu khiêu khích và thách đố. Ông cũng tỏ ra rất đố kỵ với Thiên Chúa Giáo.
Thượng Tọa Thích Thiện Minh chỉ hoạt động trong các cơ quan ngoại vi của Đảng Cộng Sản Việt Nam và tưởng rằng sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, Phật Giáo sẽ được ưu đãi và ông sẽ có địa vị ưu thắng. Sau năm 1975, khi ông nhận ra được bộ mặt thật của Việt Cộng thì mọi sự đã quá muộn. Cái chết của ông là hậu quả của các sự lầm lẫn của ông.
Thượng Tọa Thích Minh Châu: Hành tung bí mật.
Ở Việt Nam, ít ai biết đến hành tung của Thượng Tọa Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, vì ông giấu rất kỹ. Một người làng ông và rất thân với gia đình ông khi còn nhỏ, đã nhận ra ông khi ông làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, nên tìm đến thăm ông và hỏi han về gia đình của ông ở miền Bắc, nhưng ông chối dài và nói anh ta đã nhận lầm. Đến khi anh ta nhắc tới tên đứa con trai của ông và cho biết chính anh là người đã dạy đứa con đó, ông mới chịu xuống giọng.
Thượng Tọa Thích Minh Châu có tên thật là Đinh Văn Nam, sinh năm 1918 tại làng Kim Khê, Huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Huyện Nghi Lộc nằm sát Huyện Nam Đàn, nơi có làng Kim Liên, quê của Hồ Chí Minh. Kim Khê cách Kim Liên chỉ khoảng 15 cây số.
Gia đình Thượng Tọa Thích Minh Châu thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học của nhà Nguyễn. Ông là con thứ ba của gia đình 8 con theo thứ tự như sau : Đinh Văn Kinh là con trưởng, đến Đinh Văn Quang, Đinh Văn Nam (tức Thượng Tọa Thích Minh Châu), Đinh Văn Linh, Đinh Văn Phong, Đinh Thị Kim Hoàn Đinh Thị Kim Thai và Đinh Thị Khang. Anh chị em gia đình này rất thông minh, được học cả Hán học lẫn Tây học. Như những người giàu có thời đó, Cụ Đinh Văn Chấp còn nhiều vợ thứ. Trước khi cưới vợ chánh là mẹ Thích Minh Châu, ông đã cưới một người vợ thứ rồi, vì thế anh chị em nhà này rất đông.
Đinh Văn Nam có gia đình lúc 20 tuổi. Vợ Đinh Văn Nam là Lê Thị Bé, con một gia đình khoa bảng khác ở cùng làng là cụ Lê Văn Miến. Cụ Lê Văn Miến là một người vừa đậu Tây học, vừa thông Hán học nên làm giáo sư Hán văn và Pháp văn sau vào dạy Quốc Tử Giám (đại học của triều đình) ở Huế.
Chúng tôi không rõ lúc đầu Đinh Văn Nam học đến đâu rồi nghỉ việc đi làm, nhưng được biết vào khoảng năm 1940, lúc 21 tuổi, ông được bổ làm Thừa Phái, một loại công lại thuộc các bộ phận của triều đình, thường làm thư ký hay các công tác giao dịch tại trung ương hay địa phương.
Sau khi Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945, cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ của Thượng Tọa Thích Minh Châu, đã tản cư từ Huế về Nghệ An và được Việt Minh mời làm Chủ Tịch Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-Lê. Sau khi cụ Đặng Hướng, Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ An lên làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Liên Khu IV, cụ Đinh Văn Chấp thay cụ Đặng Hướng làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Nghệ An. Còn cụ Lê Văn Miến, nhạc phụ của Thích Minh Châu là người liêm khiết nên rất nghèo. Khi cụ trở về quê ở Kim Khê thì không có nơi cư ngụ. Các học trò của cụ phải góp mỗi người 5 đồng làm cho cụ một căn nhà lá nhỏ ở tạm. Vốn là thầy giáo, không quen các nghề bằng tay chân và nhất là với sĩ diện của một nhà Nho, cụ không có kế gì để sinh nhai. Nghe nói về sau cụ bị chết đói.
Hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc là nơi Đảng Cộng Sản Đông Dương lập các cơ sở đầu tiên của họ. Gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc (bố Hồ Chí Minh) ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, nên Hồ Chí Minh quen biết rất nhiều trong vùng này. Ông cho người đi móc nối các sĩ phu, thuyết phục họ tham gia Cách Mạng. Trong hai huyện Nghi Lộc và Nam Đàn, không ai lạ gì gia đình của Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Sinh Cung. Anh của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Khiêm, một người mắc bệnh tâm thần, không có nghề nghiệp, thường lui tới các gia đình của những người quen biết ở hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc để xin ăn. Chị của Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thành, trước có làm liên lạc cho cụ Phan Bội Châu, sau bị mật thám Pháp theo dõi, phải trở về làng sống trong một túp lều tranh nhỏ bé và xiêu vẹo, rất cơ cực. Sĩ phu trong hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương khá nhiều.
Trần Điền, người cùng làng với Thích Minh Châu, một cán bộ cao cấp của Việt Cộng, đã xin cưới cô Đinh Thị Kim Hoài em của Thích Minh Châu, nhưng về sau bị từ chối. Tuy không được làm rể nhà họ Đinh, Trần Điền vẫn giữ liên lạc tốt đẹp với gia đình Thích Minh Châu. Trần Điền đã làm Đại Sứ của Hà Nội tại Nam Vang trong thời kỳ Sihanouk chấp chính Đây là một đường dây liên lạc tốt của Thích Minh Châu.
Sau này cô Đinh Thị Kim Hoài làm vợ bé của Thiếu Tướng Nguyễn Sơn khi tướng này về làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Liên Khu IV, một Liên Khu vững vàng nhất của Việt cộng thời đó.
Trường hợp của Thiếu Tướng Nguyễn Sơn là một trường hợp rất lạ lùng, nhưng ít người biết đến. Nguyễn Sơn là một Trung Tướng của Hồng Quân Trung Quốc, chỉ huy Đệ Bát Lộ Quân ở Diên An. Ông gốc người Thổ, đi tham gia kháng chiến với Mao Trạch Đông. Năm 1945, khi Hồ Chí Minh quyết định khởi nghĩa, đã xin Mao Mao Trạch Đông gởi cho một tướng giỏi để huấn luyện và cố vấn về quân sự. Mao Trạch Đông liền biệt phái Tướng Nguyễn Sơn sang. Tướng Nguyễn Sơn đến Pắc-Bó một thời gian ngắn thì có sự lủng củng giữa Võ Nguyên Giáp và Tướng Nguyễn Sơn. Tướng này cho rằng Võ Nguyên Giáp không biết gì về quân sự nên coi thường. Mỗi lần Võ Nguyên Giáp thuyết trình về quân sự thì Tướng Nguyễn Sơn ngồi ngủ. Sau khi cướp được chính quyền, để chấm dứt sự xích mích giữa hai bên, Hồ Chí Minh liền cử Tướng Nguyễn Sơn làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ, nhưng hạ quân hàm xuống Thiếu Tướng. Mao Trạch Đông có hỏi lý do hạ quân hàm, Hồ Chí Minh trả lời rằng tại Việt Nam lúc đó cấp bậc Thiếu Tướng là cao nhất.
Năm 1947, khi miền Trung từ Quảng Bình trở vào bị Pháp chiếm, Tướng Nguyễn Sơn phải trở về lại Bộ Tổng Tư Lệnh. Năm 1948, Hồ Chí Minh lại cử Tướng Nguyễn Sơn vào Thanh Hóa làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Liên Khu IV, gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tướng Nguyễn Sơn đã giữ vững ba tỉnh này, Pháp chiếm không được.
Nguyễn Sơn là một tướng tài, đẹp trai và lịch thiệp, nên đi đến đâu đều được các cô các bà bám chặt. Ông ở chỗ nào ít lâu là có vợ ở chỗ đó. Cuộc đời của ông có khoảng 15 bà vợ. Khi ông vào Nghệ An, cô Đinh Thị Kim Hoài, em gái của Thượng Tọa Thích Minh Châu, rất thích ông. Ít lâu sau, hai người lấy nhau, mặc dầu lúc đó ông đã có khoảng 13 hay 14 bà vợ rồi. Sau này, Hồ Chí Minh đã ra lệnh thủ tiêu Tướng Nguyễn Sơn, vì tướng này đã coi thường Võ Nguyên Giáp và Bộ Chính Trị và hay bất tuân thượng lệnh.
Đinh Văn Linh, em của Thích Minh Châu, là một Đại Tá trong bộ đội Việt Cộng, từng làm Đại Sứ của Hà Nội ở Bắc Kinh và sau về làm Chủ nhiệm nhật báo Quân Đội Nhân Dân của Việt Cộng. Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Đinh Văn Linh là người đầu tiên được Việt Cộng đưa vào Saigon để tiếp thu.
Một người làng của Thích Minh Châu cho biết Thích Minh Châu đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh vào đầu thập niên 40, khi Mặt Trận này mới thành lập. Nhóm của ông thường họp tại chùa Cẩm Linh, Diệc Cổ Tự hay trụ sở của Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Kỳ ở trong nội thành của thành phố Vinh.
Một tăng sĩ Phật Giáo đã công khai phản đối việc dùng chùa chiền để làm nơi hội họp bí mật của nhóm nói trên là Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu. Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu tên thật là Trương Thế Giám, trụ trì ở chùa Phước Hòa, Sầm Sơn, Thanh Hóa, là người thông thạo cả Hán học lẫn Tây học. Ông đã đào tạo rất nhiều tu sĩ Phật Giáo. Ông thường đến dạy cho các tăng ni và Phật tử ở Vinh về Phật học. Ông còn mở một lớp "Cours d Aldulte" (lớp dạy cho người lớn) ở Vinh để dạy Pháp Văn cho những người lớn tuổi muốn học thêm Tây học. Ông biết chuyện một số người đã dùng chùa và trụ sở của Phật Giáo hội họp làm chính trị nên lên tiếng phản đối. Ông bị hăm dọa. Các bạn đồng môn vớl ông như Hà Huy Tập, Trần Văn Tăng đều gia nhập Đảng Cộng Sản, nhưng ông chống đối quyết liệt. Vào khoảng năm 1947, ông có liên hợp với Linh mục Hoàng Quỳnh ở Phát Diệm thành lập Mặt Trận Liên Tôn để đối phó với những sự quấy phá và lộng hành của Mặt Trận Việt Minh. Năm 1954, khi Hiệp Định Genève ký kết, ông đã liên lạc với các làng công giáo chung quanh để tìm cách di cư vào Nam nhưng đi không lọt. Trong cuộc đấu tố năm 1957, ông bị chôn sống.
Thượng Tọa Thích Minh Châu ở với vợ là Lê Thị Bé được 5 năm, sinh được hai người con, một trai và một gái. Người con trai đầu lòng tên là Đinh Văn Sương. Người con gái tên là Đinh thị Phương (tôi không nhớ tên lót chính xác). Khoảng năm 1943, ông bỏ vợ đi vào Huế làm thừa phái (thư ký) Tòa Khâm rồi tiếp tục học ở trường Khải Định Huế cho đến khi đậu Tú Tài Toàn Phần. Từ đó ông ít khi trở về quê thăm vợ con. Vợ ông phải làm việc rất vất vả để nuôi con. Tài liệu nói về Thích Minh Châu của Đại Học Vạn Hạnh cho biết đến năm 1948 ông xuất gia, vào tu ở chùa Từ Đàm và học Trường An Nam Phật Học ở Huế. Nhưng những người thân cận với gia đình ông nói rằng ông xuất gia trước khi Việt Minh cướp chính quyền. Ông được gởi đi du học Ấn Độ vào năm 1952 và đậu Tiến Sĩ Triết Học tại đại học Bihar ở Ấn. Đi cùng với ông có Nguyễn Đình Kỳ, nhưng Nguyễn Đình Kỳ lại Ấn Độ và đã chết bên đó. Thích Minh Châu trở về miền Nam Việt Nam năm 1964, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị Hoa Kỳ lật đổ.
Trong cuốn "Những Vấn Đề Trong Đạo Phật" Tập 2, Thượng Tọa Thích Chánh Lạc, hiện trụ trì tại chùa Như Lai ở Colorado, Hoa Kỳ, có cho biết ba mươi mấy năm về trước (cuối thập niên 50 ?), chính ông là người hàng tháng về Huế thu tiền các Phật tử cúng để gởi cho các thầy Thiện Ân, Minh Châu và Trần Quang Thuận đang du học ở ngoại quốc.
Ấn Độ dưới thời Tổng Thống Jawaharlal Nehru là một quốc gia thân Bắc Việt và chống Việt Nam Cộng Hòa. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, ở Ấn Độ lúc đó chỉ có Tòa Đại Sứ Bắc Việt. Cán bộ Việt Cộng hoạt động ở New Delhi rất mạnh. Trong thời gian du học ở Ấn Độ, Thích Minh Châu đã được Tòa Đại Sứ Việt Cộng ở đây khuyến khích và giúp đỡ về mọi phương diện. Ông đã sinh hoạt thường xuyên với các nhân viên sứ quán và lãnh sự của Việt Cộng như là đảng viên. Vì thế, việc trở về miền Nam của Thượng Tọa Thích Minh Châu rất gay cấn. Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo và Tổng Nha Cảnh Sát đã đưa nhiều tài liệu chứng minh ông hoạt động cho Việt Cộng ở Ấn Độ, trong đó có cả tấm hình ông bắt tay Hồ Chí Minh khi Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ. Nhưng Viện Hóa Đạo đã can thiệp mạnh vì Phật Giáo đang cần người điều khiển một viện đại học của Phật Giáo sắp thành lập. Các Đại Đức khác không đủ bằng cấp hay khả năng để đảm nhận chức vụ này. Cuối cùng, Tướng Nguyễn Khánh đã nhượng bộ sau khi Viện Hóa Đạo cam kết không để cho Thích Minh Châu hoạt động chính trị. Tướng Nguyễn Khánh vốn là con cưng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, rất sợ bị tố là dư đảng Cần Lao, nên ông đã nhượng bộ nhiều yêu sách vô lý của Phật Giáo. Tuy có lời cam kết như vậy, nhưng sau khi nhận chức Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã cho lập ngay một chi bộ đặc công Việt Cộng sinh hoạt tại viện này, còn Thượng Tọa Thích Trí Quang gởi Nguyễn Trực, mang quân hàm Trung úy Việt Cộng, vào làm Bí Thư Chi Bộ và kiểm soát hoạt động của Đại Học Vạn Hạnh. Mỗi lần nhóm cán bộ nằm vùng nói trên đi về Huế họp với Khu ỦyTrị - Thiên - Huế để nhận chỉ thị, cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa đều theo dõi và thông báo cho Viện Hoá Đạo Ấn Quang biết. Cơ quan an ninh không bắt tổ đặc công này vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo và muốn duy trì đường dây đó để theo dõi các đường dây khác.
Vợ của Thích Minh Châu là Lê Thị Bé đã hoạt động tích cực trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945 và sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Sau 30.4.1975, Lê Thị Bé được Đảng cấp giấy phép cho vào Saigòn thăm chồng là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nhưng chỉ được phép ờ lại Sai gon 10 ngày mà thôi. Trong dịp này bà có đến thăm một vài gia đình quen thân cũ đã di cư vào Nam năm 1954. Đảng không muốn dân chúng biết lai lịch của Thượng Tọa Thích Minh Châu để bảo vệ uy tín của ông và xử dụng ông vào công tác Phật Giáo vận quan trọng sau này. Quả thật người Việt ở trong và ngoài nước, kể cả các tăng sĩ lớn tuổi, ít ai biết được những bí mật về cuộc đời của Thượng Tọa Thích Minh Châu.
Khi được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đưa về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, ông đứng trung dung, không tham dự vào cuộc tranh chấp giữa Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Theo sự công bố của Việt Cộng sau 30.4.1975, Thượng Tọa Thích Minh Châu là cán bộ hoạt động nội tuyến của Việt Cộng và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành của họ. Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia và cơ quan tình báo Hoa Kỳ đều biết rõ hoạt động của tổ chức nội tuyến này, nhưng chỉ cài người vào để theo dõi chứ không bắt, có lẽ vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo. Hơn nữa, hoạt động của tổ chức trí vận này không gây tác hại nghiêm trọng về mặt chính trị như hoạt động của chùa Ấn Quang nên có thể tạm duy trì để khám phá các đường dây hoạt động liên hệ. Dân chúng chỉ thấy rõ những bộ mặt thật ẩn nấp đàng sau Viện Đại Học Vạn Hạnh vào ngày 30.4.1975, khi Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại Học Vạn Hạnh được Nguyễn Trực điều động, đã kéo nhau ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân đội giải phóng".
Không như Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Minh Châu là một cán bộ có kỷ luật, luôn hành động đúng theo chỉ thị của Đảng chớ không hành động theo ý muốn và sáng kiến cá nhân, nên rất được tin dùng. Sau khi một số tăng sĩ cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo bị bắt vào ngày 4.6.1977, ông cùng với Võ Đình Cường kết hợp với Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống và Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, chuẩn bị đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vào quốc doanh.
Trong cuộc vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước, ông làm việc rất tích cực. Mọi sự phản kháng của nhóm Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thông Bửu và Thích Thuyền Ấn đều được ông báo cáo đầy đủ. Có lần ông báo cáo đích danh Thượng Tọa Thích Quảng Độ là người phá hoại công cuộc thống nhất Phật Giáo.
Hiện nay, mặc dầu Hòa Thượng Thích Trí Tịnh được đưa lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, nhưng trong thực tế, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (của miền Bắc, vừa qua đời trong tháng 1/1994) điều hành phần Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh ở miền Bắc, còn Hòa Thượng Thích Minh Châu điều hành phần Giáo Hội quốc doanh ở miền Nam. Ông còn điều khiển một Trường Cao Cấp Phật Học ở 716 đường Nguyễn Kiệm (tức đường Võ Di Nguy nối dài cũ), Phú Nhuận, huấn luyện các tăng ni về Phật học dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê và cũng là giảng viên thường trực về môn này cho Trường Cao Cấp Phật Học tại chùa Quán Sứ Hà Nội.
Tính tình hòa nhã, không hiếu động, luôn tuân theo đường lối của Đảng, ông đã làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó trong công tác trí vận ở miền Nam Việt Nam trước đây và kết hợp các tông phái Phật Giáo tại Việt Nam thành một Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh thống nhất trên toàn quốc. Ông là một tăng sĩ có uy tính nhất đối với Đảng và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay. Mặc dầu đã góp công lớn trong việc làm tan rã Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, ông vẫn được một số Phật tử của Giáo Hội này quý mến và tôn sùng!

Thượng Tọa Thích Trí Quang: Đại náo cửa thiền.
Thượng Tọa Thích Trí Quang tên thật là Phạm Quang sinh năm 1922 tại làng Diêm Điền (còn được gọi là làng Nại Hiên hay làng Kẻ Nại ) ở phía tây ngoại ô thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Đây là một làng nổi tiếng có nhiều người hoạt động cho Việt Cộng. Các cán bộ cộng sản của làng này cũng thuộc vào loại quá khích và sắt máu. Năm 1885, khi Phong Trào Văn Thân nổi lên, chính dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình đã tiến vào đốt nhà thờ Sáo Bùn của Công Giáo ở phía Nam thành Phố Đồng Hới, thiêu luôn mấy trăm giáo dân ở trong đó. Số giáo dân còn sống sót phải bỏ làng chạy về phía Bắc thành phố Đồng Hới và về sau lập một giáo xứ mới tại đây lấy tên là giáo xứ Tam Tòa. Sự thù ghét Công Giáo của dân làng Diêm Điền đã in sâu vào tâm trí của Thượng Tọa Thích Trí Quang từ lúc ông còn niên thiếu.
Dân làng Diêm Điền chứa chấp du kích Việt Cộng. Trong thời gian Pháp chiếm đóng Đồng Hới, từ 1947 đến 1954, ít ai dám đi sâu vào làng Diêm Điền, mặc dầu làng này ở sát phía Tây thành phố và bên làng có đồn của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam trấn đóng. Rất nhiều người bị mất tích khi đi vào làng Diêm Điền.
Gia đình ông có bốn anh chị em : Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm Chánh và Phạm Đại. Bốn người em của ông chỉ học tới sơ học (lớp 3), đã gia nhập bộ đội Việt Cộng từ 1946. Phạm Chánh có cấp bậc Trung Sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của Việt Cộng, đã bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía Tây thành phố Đồng Hới vào ngày 4.6.1947 khi mới 21 tuổi. Đây là người đã được một vài "sử gia" Phật Giáo mô tả là "một trong những lãnh tụ kháng chiến" ! Phạm Đại là một y tá bộ đội đã ở lại miền Bắc sau khi Hiệp Định Genève được ký kết.
Sau khi Phạm Chánh qua đời, vợ của Phạm Chánh từ chiến khu trở về xin cấp giấy phép hồi cư để phụng dưỡng bố mẹ chồng ở Diêm Điền. Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh, Trưởng Phòng II của Trung Đoàn Nguyễn Huệ đóng ở Đồng Hới, đã cứu xét đơn, bắt cô ta làm tờ cam kết không tiếp tục hoạt động cho Việt Minh, rồi cấp giấy phép cho hồi cư, nhưng thông báo cho Trưởng Đồn Diêm Điền biết và ra lệnh phải theo dõi vì đây là một thành phần nguy hiểm. Vợ của Phạm Chánh là một người con gái có nhan sắc, mới trở về nhà cha mẹ chồng được một hai tuần thì đã lân la đến khu đồn Diêm Điền đùa cợt tình tứ với các binh sĩ trong đồn. Ít lâu sau, cô ta bắt bồ được với anh Trướng Đồn. Sau nhiều lần tiếp xúc, anh Trưởng Đồn thấy có ta có những hành vi khả nghi như hay lấm lét quan sát các vị trí chiến đấu quanh đồn, hay hỏi về tình trạng trong đồn, theo dõi các cuộc hành quân ... nên anh ta tương kế tựu kế và báo tin cho Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh biết. Khi biết chắc ngày Việt Cộng sẽ mở cuộc tấn công vào đồn Diêm Điền, Trung Đoàn Nguyễn Huệ đã tập trung một số lớn trọng pháo Mortier 60 cho phục kích và quay mũi tập trung thành một vòng đai bọc dày đặc xung quanh đồn Diêm Điền. Đồn Diêm Điền nằm về phía Tây thành phố Đồng Hới, cách thành phố khoảng một cây số. Đây là một trong những đồn vòng đai bảo vệ thành phố. Tối hôm đó, vợ của Phạm Chánh đến ngủ với Trưởng Đồn như nhiều lần trước. Khoảng 2 giờ sáng, khi nội công đã vô hiệu hóa mìn tại một số vị trí đã định, cắt xong các lỗ hàng rào kẽm gai thì cô ta bật máy lửa báo tin cho ở ngoài biết để bò vào. Khi biết chắc địch đã tới đến hàng rào trong cùng, anh Trưởng Đồn liền làm hiệu cho các đơn vị phục kích ở ngoài biết, tức thì trọng pháo bắn vào xung quanh đồn tới tấp như mưa. Anh Trưởng Đồn vùng dậy thì bị cô ta ôm ghì chặt lại và vật xuống, hai người giằng co nhau. Anh Trưởng Đồn mò tay rút khẩu súng lục giấu dưới giường bắn cô ta chết ngay tại chỗ. Sáng hôm sau, cả thành phố Đồng Hới đều biết tin vợ của Phạm Chánh, em dâu của Thích Trí Quang, làm nội ứng bị bắn chết khi đang còn trần truồng.
Trong cuốn The lost revolution do Harper and Row xuất bản năm 1965, Robert Shaplen có ghi lại rằng khoảng tháng 5 năm 1964, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, người em thứ hai của Thích Trí Quang là Thích Diệu Minh, một Ủy Viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình, đã cùng với một cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lén vào chùa Từ Đàm thăm ông. Nhưng tôi biết Phạm Minh không có đi tu. Có lẽ khi vào Huế, Phạm Minh đã mặc áo cà sa và lấy tên là Thích Diệu Minh để dễ trà trộn.
Dân làng Diêm Điền chuyên về nghề mộc, làm ruộng và đi làm mướn, không có thành phần khoa bảng, ít ai học hết tiểu học. Giọng của dân làng này hơi ngọng, giống giọng dân làng Kẻ Noi ở Bắc : chữ "làm sao" đọc là "nàm thao", "di cư" thì đọc là "ri cư", "liên kết" đọc thành "niên kết" v.v... Cả tỉnh Quảng Bình không có dân làng nào có giọng nói như vậy. Thượng Tọa Thích Trí Quang cũng có giọng đó nên đã gặp nhiều khó khăn khi nói trước quần chúng. Ông phải cố gắng luyện giọng lại nhưng kết quả không như ý muốn. Năm 1954, khi Hiệp Định Genève được ký kết, mặc dầu ở ngay ngoại ô thành phố Đồng Hới, có thể di cư vào Nam dễ dàng, 99% dân làng này ở lại với Việt Cộng.
Như đa số các tăng sĩ thời đó, học vấn của Thượng Tọa Thích Trí Quang chỉ có hạn. Về Hán học, ông đã học với các sư, chứ không học với các nhà Nho. Hán học của ông là Hán học của nhà Phật, không phải Hán học của nhà Nho. Loại Hán học này chỉ hướng vào việc tìm hiểu kinh Phật, nên kiến thức tổng quát của ông không nhiều. Về Tây học, ông chưa học hết trung học đệ nhất cấp. Thời của ông, đậu diplôme (trung học đệ nhất cấp) không phải là chuyện dễ dàng. Có thể ông chỉ học hết tiểu học ( Primaire), vì ở Đồng Hới cho đến năm 1945 chỉ có trường tiểu học. Khi vào Huế, ông đã học thêm Hán học và Phật học, chứ không học thêm ở một trường Tây học nào. Về Phật học, ông tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943. Nghe ông thuyết pháp và đọc hai tác phẩm của ông là "Cuốn sách nhỏ của người xuất gia" và "Cuốn sách nhỏ của người tại gia", chúng ta thấy ngay kiến thức của ông không nhiều và không sâu sắc. Một con người chuyên dùng thủ đoạn thì không thể nói về "người tăng già mẫu mực" hay " người cư sĩ mẫu mực" một cách sâu sắc được. Chúng tôi chỉ cần trích một đoạn ngắn dưới đây trong bài "Địa vị và nhiệm vụ hộ pháp của người Phật tử tại gia" do ông viết, người đọc cũng có thể thấy trình độ của ông qua lối hành văn và lập luận của ông:
"Cái thành kiến quái gở cho rằng "tôi phải hy sinh sự tự lợi của tôi cho sự lợi tha" cũng sẽ phải tan rã vì nguyên tắc này, bởi vì không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ ấy mà thiếu tự lợi, tức sự tự áp dụng Phật pháp trước hết, hay đổi lại, cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không vì mục đích lợi tha tức vì lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp. "
"Thật là một lỗi lầm đáng khinh bỉ khi một người đã sống trong Phật pháp vô thượng mà không thẳng thắn bộc lộ ra. Họ bảo như thế để mọi người thấy mình không cố chấp tín ngưỡng của mình, nhưng họ có biết đâu rằng cố chấp là một việc mà thành thật lại là việc khác. Không thành thực bộc lộ tư cách Phật tử của mình thì làm sao cảm hóa người được. Họ còn đi hợp tác với ngoại đạo tà ma. Họ bảo để tỏ tư cách quảng đại của Phật tử, nhưng lời ấy chỉ là che đậy những lý do lấy Đạo làm bàn đạp cho lợi lộc cá nhân của mình mà thôi, chứ Phạt tử sao đi hợp tác với ngoại đạo?"
Qua lối hành văn và tư tưởng võ đoán, hẹp hòi trong đoạn nói trên, chúng ta cũng có thể thấy được trình độ kiến thức tổng quát và kiến thức về Phật Giáo của ông.
Ông cũng có dịch một số Kinh Phật bằng chữ Hán ra chữ Việt.
Khi Việt Cộng cướp chính quyền năm 1945, ông gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Trong cuốn No More Vietnams, cựu Tổng Tống Richard Nixon có nói Thượng Tọa Thích Trí Quang, một học trò của Thích Trí Độ, đã bị Pháp bắt hai lần trước năm 1954 vì hoạt động cho Việt Cộng. Ông nhấn mạnh Thượng Tọa Thích Trí Quang không hề dấu diếm mục tiêu của ông khi ông tuyên bố Giáo Hội Phật Giáo thích hợp với chế độ cộng sản.
Theo chúng tôi được biết, sau khi có lệnh của Việt Minh phải tản cư khỏi Huế vào cuối năm 1946, ông đã về lại Diêm Điền ở Đồng Hới, nơi quê quán của ông, nghỉ lại đây một thời gian ngắn rồi cùng Thích Mật Thể đi ra Vinh. Ông ở Vinh mấy tháng lại quay về Đồng Hới và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Quảng Bình. Năm 1947, Pháp chiếm Đồng Hới, ông bỏ Diêm Điền qua cư ngụ ở làng Trung Nghĩa, phía Tây làng Diêm Điền, vì Diêm Điền quá sát thành phố, rất khó hoạt động. Những địa điểm mà ông thường xuyên lui tới để hội họp với Ủy Ban Kháng Chiến tỉnh Quảng Bình là Đức Phổ, Thuận Lý và Phú Quý, các nơi này Pháp chưa kiểm soát hoàn toàn được. Cùng hoạt động với ông có hai cán bộ nội thành của Việt Minh là Nguyễn Toại ở Đồng Đình và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Đồng Đình và Đồng Phú là hai làng nằm ngay trong thành phố Đồng Hới. Nguyễn Toại (thường được gọi là Toại béo) trước làm ở Nhà Đèn Huế, theo Việt Minh tản cư ra Đồng Hới vào cuối năm 1946 cùng một lượt với Thích Trí Quang. Cả Nguyễn Toại, Nguyễn Tịch và Thích Trí Quang đều bị Pháp bắt năm 1947. Trong thời gian hoạt động cho Việt Minh, Nguyễn Toại đã chỉ điểm nhiều thành phần đảng phái quốc gia có lập trường chống Cộng Sản cho Việt Minh bắt thủ tiêu, nên khi Nguyễn Toại bị bắt, có người đã tố cáo với Pháp về các chuyện này, do đó Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn và chặt đầu cắm ở Cổng Bình Quan, cổng vào thành phố của làng Diêm Điền. Nguyễn Tịch trốn được khỏi nhà giam vào ban đêm. Thượng Tọa Thích Trí Quang chỉ bị giam một thời gian rồi được trả tự do. Nhưng ít lâu sau ông bị bắt trở lại vì Phòng Nhì của Pháp thấy ông vẫn còn liên lạc với các cán bộ giao liên từ chiến khu ra. Sau một thời gian bị giam giữ, ông được một viên chức thuộc địa của của Pháp ở Huế bảo lãnh. Ông làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa nên được phòng Nhì đã thả ra. Nhận thấy không còn hoạt động ở Đồng Hới được, ông trở về Huế và chuyên lo về Phật sự, nhưng bên trong vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh.
Năm 1953, Hồ Chí Minh thành lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình để gây phong trào phản chiến, vận động dư luận quốc tế và quốc nội làm áp lực buộc Pháp ngưng chiến. Hòa thượng Thích Trí Độ là Ủy Viên Trung ương của tổ chức này. Thượng Tọa Thích Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy Ban.
Sau cuộc di cư năm 1954, Thượng Tọa Thích Trí Quang làm Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học ở Huế. Lợi dụng cương vị này, ông đứng ra lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình, một tổ chức phản chiến do Việt Minh lập năm 1953. Ông đã quy tụ được một số trí thức Phật Giáo thời đó tại Huế như bác sĩ Lê Khắc Quyến, Bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Nguyên Văn Đảng, Giáo Sư Tôn Thất Dương Kỵ ... Mục tiêu của Ủy Ban này là ngụy hòa, kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc và tổ chức bầu cử ngay để thống nhất hai miền Nam Bắc. Với tình trạng xã hội và chính trị vô cùng xáo trộn của miền Nam lúc đó, Hồ Chí Minh tin rằng nếu có bầu cử chắc chắn Cộng Sản sẽ thắng như năm 1945, vì họ đã gài lại vô số cán bộ nằm vùng hoạt động tại miền Nam. Thượng Tọa Thích Trí Quang đã làm công tác dân vận đó giúp Việt Cộng nên nhóm ông bị bắt. Chức Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học của ông phải giao lại cho Thượng Tọa Thích Giác Nhiên.
Vì Thích Trí Quang đang là Hội Trưởng Hội Phật Học Huế nên công an trình nội vụ cho ông Ngô Đình Cẩn giải quyết. Sau khi xem hồ sơ của Thích Trí Quang, ông Ngô Đình Cẩn thấy Thích Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi cả nhóm này. Ông Ngô Đình Cẩn cho Thích Trí Quang xem hồ sơ của Phòng Nhì Pháp để lại, trong đó ghi rõ từng trường hợp ông hoạt động cho Việt Cộng khi ở Quảng Bình và tờ cam kết của ông không tiếp tục hoạt động cho Việt Cộng nữa. Sau đó ông Ngô Đình Cẩn nói với Thượng Toạ Thích Trí Quang rằng nếu Thượng Tọa chịu giữ lời cam kết và hợp tác, chính phủ sẽ giúp đỡ cho. Trước cái thế chẳng đặng đừng này, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã chấp nhận hợp tác và ông Ngô Đình Cẩn đã dùng Thượng Tọa Thích Trí Quang để nắm khối Phật Giáo miền Trung. Nhiều người ngăn cản ông Ngô Đình Cẩn về chuyện này, nhưng ông Ngô Đình Cẩn tin rằng ông đã nắm hồ sơ Thích Trí Quang trong tay, Thích Trí Quang không dám phản lại. Ông Ngô Đình Cẩn đã yểm trợ rất nhiều cho các hoạt động của Phật Giáo tại chùa Từ Đàm để tăng uy tín cho Thượng Tọa Thích Trí Quang và thỉnh thoảng có đến Chùa Từ Đàm ăn cơm chay với Thượng Tọa Thích Trí Quang.
Chùa Từ Đàm được xây cất từ 1703, đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, có tên là Ấn Tôn Tự. Đến đời vua Hiến Tổ, hiệu là Thiệu Trị (1841 - 1847), triều đình cho rằng tên chùa phạm húy nên đổi thành chùa Từ Đàm. Vì được xây cất từ lâu nên chùa bắt đầu hư nát. Ông Ngô Đình Cẩn đã giúp cho Thích Trí Quang trùng tu lại nên trông rất mới mẻ, quan khách cứ tưởng như chùa mới xây.
Bác sĩ Lê Khắc Quyến được cử giữ chức Giám Đốc Bệnh Viện Trung ương Huế, mặc dầu ông chỉ là Y Sĩ Đông Dương (chưa có luận án), không phải là Bác Sĩ ngạch Pháp.
Ông Nguyễn Văn Đảng được bổ nhiệm làm Tổng Thư Ký toà Thị Chính Đà Nẵng năm 1955 và đến năm 1962 được đưa ra làm Tỉnh Trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng thành phố Huế. Khi vụ Phật Giáo xẩy ra vào tháng 5 năm 1963 ở Huế, ông đang làm Thị Trưởng ở đó. Ông được coi là một Phật tử thuần thành nên không hề bị đòi nợ máu khi ông ra lệnh cho Thiếu Tá Đặng Sĩ dẹp cuộc biểu tình trước đài phát thanh Huế. Thiếu Tá Đặng Sĩ, người thừa hành, bị đòi nợ máu vì Đặng Sĩ là người Công Giáo. Ngày 1.6.1963, cả ông Nguyễn Văn Đảng lẫn Thiếu Tá Đặng Sĩ đều bị ngưng chức và về đợi lệnh ở Bộ Nội Vụ. Sau này ông Đảng được cử giữ chức Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Phần. Trong trận Tết Mậu Thân, ông Đảng bị mất tích. Mọi người đều tưởng ông đã bị giết, nhưng sau 30.4.1975 ông trở về lại Huế. Điều này đã làm nhiều người ngạc nhiên về vai trò của ông. Hiện nay ông đã được bảo lãnh đến Hoa Kỳ.
Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đi theo Việt Minh từ 1945 đến năm 1951 thì trở về Hà Nội và theo học trường Dược tại Hà Nội. Năm 1954, khi mới di cư vào Nam, ông đã tham gia Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình của Thích Trí Quang. Sau khi được chiêu hồi, ông Ngô Đình Cẩn đã nhờ Linh mục Cao Văn Luận giúp Nguyễn Cao Thăng lấy xong bằng Dược Sĩ rồi giao cho Nguyễn Cao Thăng đứng đầu hãng bào chế dược phẩm OPV tại Saigon để kinh tài cho Đảng Cần Lao. Nguyễn Cao Thăng cũng được ông Ngô Đình Cẩn đưa ra làm Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến trong cuộc bầu cử năm 1957. Khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống, Nguyễn Cao Thăng lại được chọn làm Phụ Tá Tổng Thống đặc trách liên lạc với Quốc Hội. Ông có nhiệm vụ vận động các dân biểu bỏ phiếu ủng hộ các dự luật và các đường lối do Hành Pháp đưa ra. Nguyễn Văn Ngân, nhập ngũ khóa 13 Thủ Đức, đang ở Sư Đoàn 7, được Nguyễn Cao Thăng, đưa về làm Phụ Tá, có nhiệm vụ xách cặp tiền đi theo và chi tiền cho các dân biểu khi có lệnh của Nguyễn Cao Thăng. Khi Nguyễn Cao Thăng qua đời, Nguyễn Văn Ngân được cử giữ chức vụ của Nguyễn Cao Thăng vì đã quen công việc.
Thích Trí Quang chỉ trá hàng ông Ngô Đình Cẩn. Các nhân viên tình báo có cho ông Ngô Đình Cẩn biết Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn tiếp tục liên lạc với Việt Cộng nhưng ông không quan tâm nhiều. Ông tin ông có thể tương kế tựu kế được.
Tháng 5 năm 1963, khi có lệnh hạn chế treo cờ các tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã lợi dụng cơ hội này phát động phong trào Phật Giáo chống chính phủ Ngô Đình Diệm với thủ đoạn và chiến thuật mà Việt Cộng thường áp dụng. Vấn đề này chúng tôi sẽ nói ở chương nói về các cuộc thánh chiến.
Năm 1964, khi Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang) được thành lập, ông giữ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống.
Sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "chỉnh lý" và lên nắm chính quyền, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, sau biến thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng và dùng các đặc công cộng sản nằm vùng lãnh đạo hai tổ chức này. Lực lượng của ông mở cuộc đánh phá Công Giáo và các đảng phái quốc gia, dưới chiêu bài "diệt Đảng Cần Lao", đòi Mỹ rút quân, ngụy hòa, gây rối loạn miền Nam Việt Nam. Lực lượng của ông đã bị tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan vào tháng 6 năm 1966. Trong cuộc họp báo ngày 7.6.1966, Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận tuyên bố Thượng Tọa Thích Trí Quang là cộng sản nên sẽ bị bắt nhưng sau đó ông vẫn không bị bắt.
Sau 30.4.1975, nhóm Ấn Quang do ông lãnh đạo đã tổ chức mừng "giải phóng" và coi thắng lợi của Việt Cộng là thắng lợi của Phật Giáo. Nhưng đến năm 1976, Hà Nội giải thể Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhóm ông cũng bị loại.
Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh đêm 6.4.1977, các Hòa Thượng Huyền Quang, Thiện Minh, Quảng Độ và một số tăng sĩ đã bị bắt, nhưng công an không đụng đến ông. Ông chỉ bị quản thúc tại chỗ và mọi việc liên lạc giữa ông với người ngoài không có gì khó khăn lắm. Một vài người quen với tôi cho biết họ có liên lạc được với ông, nhưng chỉ hỏi chuyện về sức khỏe và gia đình. Ông không muốn bàn gì đến chính trị. Tuy nhiên, khi cựu Đại Tá Lê thiện Giáo thử tìm đến gặp ông thì bị công an bắt giữ một thời gian mới thả ra. Sau vụ này, có rất nhiều sự bàn tán về vai trò của ông trong guồng máy tình báo của Việt Cộng.
Thượng Tọa Thích Trí Quang được coi là người lãnh đạo nhóm Phật Giáo quá khích và cực đoan trong tông phái Phật Giáo Ấn Quang ở miền Trung. Nhiều người nghĩ rằng ông đã sống và hoạt động với Việt Cộng nhiều năm nên đã học được nhiều kỹ thuật đấu tranh chính trị và thủ đoạn của Cộng Sản. Nhìn cách điều động các cuộc đấu tranh của ông, người ta thấy ông nhiều mưu lược. Ông điều hành cuộc đấu tranh của Phật Giáo miền Trung đúng phương pháp mà Việt Cộng thường xử dụng. Chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ ra lệnh hạn chế việc treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, ông phao tin chính phủ ra lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo. Trong vụ nổ trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963, Bác sĩ Lê Khắc Quyến, một "đồng chí" của ông khám nghiệm tử thi các nạn nhân, đã cho ông biết các nạn nhân bị chết vì một chất nổ bằng plastic cực mạnh, nhưng ông vẫn tuyên truyền kích động, phao tin các nạn nhân bị chết vì súng bắn, lựu đạn và xe tăng cán ... Vừa ký kết xong với Ủy Ban Liên Bộ một thông cáo chung giải quyết vụ Phật Giáo, ông tung ra ngay một "mật điện" giả hô hoán chính quyền tìm cách không thực thi thông cáo chung và hô hào tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh, v.v.
Nhưng một sĩ quan tình báo cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa thời đó đã nói : Thượng Tọa Thích Trí Quang chỉ là một Ấu Chúa, mọi việc trong triều đình đều do Thái Sư và Thừa Tướng lo. Thái Sư là Võ Đình Cường, còn Thừa Tướng là Nguyễn Trực.
Thích Trí Quang quê ở Quảng Bình nên Huế không phải là đất dụng võ của ông. Ở Huế thời đó lại có quá nhiều thành phần xuất sắc, nên Thích Trí Quang nằm trong hạng vô danh tiểu tốt. Khi nhóm Thượng Tọa Thích Thiện Chiếu, Thích Trí Độ, Thích Mật Thể, ... đi tản cư và ở lại Nghệ An theo Việt Minh, một mình Thích Trí Quang bị Pháp bắt nên phải từ Quảng Bình quay lại Huế, vai trò của ông mới được chú ý. Sau này ông Ngô Đình Cẩn đã giúp đỡ ông tối đa và tạo uy tín cho ông, đưa ông trở lại làm Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học để nắm khối Phật Giáo Miền Trung, ông mới có chút uy tín. Nhưng mọi lực lượng đều nằm trong tay Võ Đình Cường. Ông bơ vơ giữa thành phố Huế.
Võ Đình Cường lãnh đạo Ban Huynh Trưởng Cố Vấn Gia Đình Phật Tử, một tổ chức do Bác Sĩ Lê Đình Thám thành lập tại Huế năm 1944. Năm 1949 Bác Sĩ Lê Đình Thám được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc, Võ Đình Cường đứng lên lãnh đạo tổ chức này và hoạt động cho Việt Minh. Chính Võ Đình Cường nhận chỉ thị của Khu Ủy Trị - Thiên - Huế, hoạch định các kế hoạch, chiến thuật và thủ đoạn đấu tranh rồi đẩy Thích Trí Quang đi theo, còn Nguyễn Trực điều động (xem phần nói về Võ Đình Cường và Nguyễn Trực).
Nhìn chung, Thượng Tọa Thích Trí Quang có những đặc tính sau đây và chính những đặc tính đó đã làm ông thất bại:
- Độc đoán: ông muốn thâu tóm mọi quyền hành trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và sau này, trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang. Mọi kế hoạch tranh đấu ông chỉ bàn với Võ Đình Cường rồi bắt các tăng sĩ khác đi theo. Ông xem thường các tăng sĩ người miền Bắc và miền Nam, coi họ là những người không có mưu lược. Có người cho rằng thái độ độc đoán này phát xuất từ các chỉ thị của Khu Ủy mà ông phải thuận theo, ông không thể để cho các tăng sĩ khác lái đi trệch hướng.
Trong cuộc thánh chiến năm 1966, ông bất chấp lệnh của Viện Hóa Đạo. Ngày 26.3.1966 Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, ra thông bạch kêu gọi giữ bình tĩnh trong khi thương lượng với chính phủ thì hôm sau, ngày 27.3.1966, Thượng Tọa Thích Trí Quang ra lệnh tổ chức một cuộc biểu tình 20.000 người ở Huế để thách đố Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Trước tình thế này, Viện Hóa Đạo đã triệu tập một phiên họp vào ngày 27.5.1966 và ra thông cáo tuyên bố từ nay Viện Hóa Đạo làm việc theo nguyên tắc "tập đoàn chỉ huy", với dụng ý cho Thượng Tọa Thích Trí Quang biết ông không thể hành động theo ý riêng. Nhưng Thích Trí Quang không hề đếm xỉa đến thông cáo đó, nên ngày 17.6.1966 Thượng Tọa Thích Tâm Châu lại phải ra một thông cáo nữa lên án "sự lạm quyền" của Thượng Tọa Thích Trí Quang và một số tăng sĩ khác.
Các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam như Võ Chí Công, Đỗ Mười cũng chỉ hết tiểu học rồi nghỉ, nhưng họ quen với phương thức "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" nên vẫn làm được việc lớn. Ông không chấp nhận nguyên tắc đó.
- Tự phụ: ông cho rằng chỉ có ông mới có thể lãnh đạo cuộc đấu tranh đi tới thành công và những thành quả mà Phật Giáo đạt được đều do mưu trí của ông.
Phỏng vấn ông là một việc khó khăn. Ông cứ trả lời gay gắt và nhát gừng. Thay vì trả lời, ông thường hay hỏi ngược lại khiến người phỏng vấn rất bực bội. Trong luận án Tiến Sĩ "Phật Giáo và Chính Trị tại Việt Nam Ngày Nay" đệ nạp ở Trường Đại Học Luật Khoa Saigon năm 1972, Tiến sĩ Hoàng Xuân Hào có ghi chú về một cuộc gặp gỡ Thượng Tọa Thích Trí Quang 40 phút để phỏng vấn như sau:
"Ngài hỏi chúng tôi : "Anh lấy tài liệu ở đâu?"
"Chúng tôi trả lời: "Tôi tìm ở bất cứ nơi nào có thể được, ở trong nước cũng như ở ngoại quốc, ở các cơ quan tư cũng như công, và ở các cá nhân có liên hệ đến đề tài khảo cứu."
"Ngài bảo : "Sai hết ! Chẳng ai viết đúng về tôi cả. Ngay đến cuốn đại tự điển Larousse thế kỷ XX, viết về tôi còn sai bét. Anh cứ coi tôi là một nguồn tài liệu của anh thôi. Lúc này dân tộc đang đau khổ, viết về Phật Giáo anh nên thận trọng, không e rằng có phản ứng."(4)
Ông chỉ muốn dằn mặt và đánh phủ đầu thôi. Ông chẳng tiết lộ thêm được điều gì. Hồ sơ lý lịch của ông đã được mật thám Pháp sưu tập đầy đủ và sau này chuyển cho cảnh sát Việt Nam Cộng Hoà. Ngoài ra, những người ở quê ông biết rất rõ về ông và gia đình ông.
Ông không có tài đối đáp nhanh nhẹn và sợ những sơ hở của ông trong lời nói có thể bị báo chí khai thác nên đã có thái độ như vậy. Điều nầy chứng tỏ ông không tự tin và không thành thật. Ông chỉ thích loại phỏng vấn cò mồi theo kiểu của các nhà lãnh đạo cộng sản.
Nhân viên tình báo Hoa Kỳ hiểu rõ tính tự phụ của ông nên năm 1966, khi muốn dẹp các phong trào do ông phát động, đã thổi phồng ông như là một lãnh tụ lỗi lạc của miền Nam Việt Nam và là người đã làm rung chuyển cả nước Mỹ để đẩy cây cho ông đi quá trớn, gây bất mãn trong dư luận, rồi bật đèn xanh cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp bỏ.
- Cực đoan: ông đưa chủ thuyết "PHẬT GIÁO và DÂN TỘC". Ông luôn tuyên bố Phật Giáo và Dân tộc gắn liền với nhau, vận mệnh của đất nước đi liền với vận mệnh của Phật Giáo. Vậy muốn cứu vãn dân tộc, chỉ có một con đường duy nhất là đưa Việt Nam trở lại thời Lý - Trần, Phật Giáo là quốc giáo, các Hòa Thượng làm Quốc Sư. Để đạt mục tiêu này, ông tuyên truyền cho thuyết Phật Giáo siêu việt và độc tôn, và cổ võ loại trừ Thiên Chúa Giáo, một tôn giáo được ông coi là "đạo ngoại lai", phản lại quyền lợi và văn hóa dân tộc. Hầu hết các tăng sĩ miền Trung gốc Bình - Trị - Thiên và Nam - Ngãi trong khối Phật Giáo Ấn Quang lúc nào cũng lặp lại chủ thuyết của ông như những con sáo. Chính chủ thuyết mà ông đưa ra đã cô lập ông với cộng đồng dân tộc.
Ông cũng tỏ ra bất khoan dung đối với các tông phái không muốn chấp nhận uy quyền và chủ trương của ông trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang. Các vụ đánh phá Việt Nam Quốc Tự và Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là những thí dụ điển hình.
- Tính chuyện mưu bá đồ vương: ông tin rằng có thể dùng lá bài Phật Giáo để tiến tới nắm chính quyền tại miền Nam Việt Nam. Trong cuộc biểu tình ngày 21.5.1966, người ta thấy một loại truyền đơn thăm dò được tung ra ở Huế, Đà Nẵng và Saigon, đòi đưa Thượng Tọa Thích Trí Quang lên làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng.
Thượng Tọa Thích Huyền Minh cho biết Thượng Tọa Thích Trí Quang muốn thiết lập lại chế độ quân chủ. Ông cho rằng dù muốn dù không, đất nước này phải có vua mới cai trị được. Ông muốn biến 17 tỉnh miền Trung thành một vùng trái độn do Cựu Hoàng Bảo Đại cai trị và Phật Giáo là quốc giáo. Trong cuốn Les forces politiques au Sud Vietnam depuis les accords de Genève (Các lực lượng chính trị ở Nam Việt Nam từ sau hiệp định Genève), Bà Trần Hoài Trân, Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Saigon, cho biết giấc mơ của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang là giấc mơ một nước Việt Nam trung lập độc lập và theo Phật Giáo, trong một Đông Nam Á trung lập và Phật Giáo.(4)
Cụ Cao Xuân Vĩ kể lại rằng năm 1964, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã bị Hoa Kỳ lật đổ, các Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Minh và Thích Đức Nghiệp đã từng họp bàn để lập lại tập tục Tế Nam Giao ở Huế như thời Bảo Đại. Thích Trí Thủ nói không có vua thì chỉ cần tìm một người gần nhất trong hoàng tộc mặc áo đứng đó là đủ. Mọi thủ tục khác Phật Giáo đảm nhận.
Ước muốn trở lại thời quân chủ của các tăng sĩ trong nhóm An Nam Phật Học ở Huế không có gì khó hiểu. Dưới thời Bảo Đại, ngoài sự khuyến khích của thực dân Pháp, triều đình Huế đã giúp đỡ Phật Giáo Huế tối đa. Bà Từ Cung, Thái Hậu của vua Bảo Đại, là người bảo trợ cho các chùa và các tổ chức Phật Giáo ở Huế. Mỗi khi các tăng sĩ hoạt động cho Việt Minh bị Pháp bắt đều được bà Từ Cung bảo lãnh cho trở về. Hoà Thượng Thích Đôn Hậu hoạt động cho Việt Minh, bị Pháp bắt được nhiều lần, nếu không có sự can thiệp của bà Từ Cung, đã bị Pháp đem đi bắn. Được triều đình nhà Nguyễn bảo trợ tối ta, nhóm tăng sĩ trong An Nam Phật Học muốn tái lập chế độ quân chủ để được tiếp tục hưởng ơn mưa móc, đó là chuyện thường tình.
Nhưng khả năng của Thích Trí Quang không tương xứng với những việc ông muốn làm :
Trước hết, kiến thức tổng quát của ông cũng như của Võ Đình Cường đều rất giới hạn. Nhìn qua chủ trương nói trên chúng ta thấy ông và Võ Đình Cường không hiểu gì về tình hình chính trị quốc nội và quốc tế, không hiểu cả những định chế chính trị sơ đẳng trong chính trị học. Cả hai không thấy được chiến lược và chiến thuật của Hoa Kỳ khi hành động. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, cả hai vẫn tin rằng sự sụp đổ đó là do công lao của họ. Cả hai không nhận ra được rằng Hoa Kỳ đã cố tình thổi phồng vụ Phật Giáo để có lý do lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm và đem quân vào lập các căn cứ quân sự nên đã thừa thắng xông lên. Phật Giáo đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ mà không hay biết và cuối cùng bị báo chí Hoa Kỳ đẩy cây cho đi quá trớn và sa lầy rồi bật đèn xanh cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ thanh toán.
Ông biết dùng thủ đoạn nhưng không biết phương pháp tổ chức nên không kiểm soát được các phong trào do ông lập ra và các việc ông làm. Trong các phong trào của ông, từ trên xuống dưới không hề có một hệ thống tổ chức chặt chẽ. Ông tung ra một chiến dịch rồi không biết nó sẽ đi tới đâu. Trong các tổ chức của ông, cơ quan nào cũng gài người vào được: Đặc công Việt Cộng, nhân viên CIA, tình báo của cả Tổng Nha Cảnh Sát lẫn Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình Báo của Việt Nam Cộng Hòa. Về sau, nhất cử nhất động của ông đều bị đối phương phát hiện trước nên các chiến dịch ông đưa ra thường bị bẻ gãy.
Ông cũng thiếu thận trọng khi dùng người. Bí thư và phát ngôn viên của ông trong thời kỳ đấu tranh là Đại Đức Thích Nhật Thiện. Thích Nhật Thiện có tên thật là Lê Mậu Chí, tức Hàm, người Thừa Thiên. Trước 1954, Lê Mậu Chí là công an viên của Ty Công An Đồng Hới, sau chuyển vào Ty Công An Khánh Hòa. Vì một vụ dan díu rắc rối với phụ nữ, Lê Mậu Chí bị đổi ra Chi Công An Sông Cầu và đến năm 1959 thì bị cho nghỉ việc. Lê Mậu Chí vào Saigon học thêm Anh văn rồi đi tu. Đến năm 1963, khi xẩy ra vụ Phật Giáo, Lê Mậu Chí đã thành Đại Đức với Pháp danh Thích Nhật Thiện. Thượng Tọa Thích Trí Quang đã chọn Lê Mậu Chí làm bí thư và phát ngôn viên của ông. Chính Lê Mậu Chí đã thu xếp và đưa Thượng Tọa Thích Trí Quang qua ẩn náu trong cơ quan USAID Saigon khi cảnh sát sắp lục soát chùa Xá Lợi. Một người thận trọng không ai dám dùng những người có lai lịch như thế làm bí thư khi hoạt động chính trị bí mật.
Ông hoàn toàn bị lệ thuộc vào Võ Đình Cường, "cố vấn chỉ đạo" của ông. Võ Đình Cường lại nhận chỉ thị của Khu Ủy Trị Thiên - Huế. Ông không thể hành động ngoài sự chỉ đạo đó. Mưu lược mà Võ Đình Cường bày vẽ cho ông chỉ là những tiểu xảo quá quen thuộc, tuy lừa được một số người nhẹ dạ và các chính khách ấu trĩ, nhưng cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ đều biết rất rõ nên đã bẻ gẫy không có gì khó khăn. Vụ lật đổ chế độ Ngô Dình Diệm là do Hoa Kỳ trực tiếp hành động, nhóm của ông chỉ là công cụ.
Ông không có tài nói trước quần chúng vì giọng ông hơi ngọng. Đây là một thất bại lớn của ông. Ông phải cố gắng tạo huyền thoại để thay thế.
Ông lại thiếu xã giao, nên Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang không dám cử ông tham dự vào các phái đoàn Phật Giáo đi thương thuyết với chính quyền hay đi dự các hội nghị Phật Giáo quốc tế.
Ông cũng thuộc vào loại miệng hùm gan sứa, khi đắc thắng thì phách lối, kiêu căng, nhưng khi thấy tình hình nguy ngập thì tìm cách trốn tránh trách nhiệm hay chạy trốn. Cuốn Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu công bố ngày 31.12.1993 có ghi lại một số câu chuyện sau đây cho thấy ông không phải là người có bản lãnh của một cấp lãnh đạo:
"Thượng Tọa Trí Quang viết thư cho Ngô Đình Cẩn, tôi được các Thượng Tọa lãnh đạo tại Huế nói chuyện trực tiếp với tôi. Sau này Đại Đức Thích Quảng Thành, đệ tử của các Thượng Tọa tại Huế, có gửi một lá thư viết tay gồm 10 trang đề ngày 31.2.973, cho Thượng Tọa Trí Quang (và kèm thêm thư xác nhận của ông Nguyễn Văn Đẳng), Đại Đức đã viết : "...Nhưng chưa ai biết, sau buổi lễ này (lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm năm 1963), Thượng Tọa lại gửi thơ cho ông Cẩn, nhân danh Hội Trưởng Hội Phật Giáo Trung Phần Việt Nam, qua trung gian của ông Nguyễn Văn Đẳng, Thị Trưởng Huế lúc bấy giờ để xin cam đoan không có chuyện gì sẽ xẩy ra nữa, sẽ chấm dứt mọi chuyện, nếu ông Cẩn cho tổ chức một lễ cầu siêu. Sau khi gửi thư, Thượng Tọa gặp ông Cẩn và sau đó, Thượng Tọa giao hết mọi chuyện cho các Thượng Tọa khác, Thượng Tọa chỉ còn gặp ông Woulf. Nếu các Thượng Tọa khác cũng làm như Thượng Tọa thì liệu có hay không cuộc cách mạng 1963 ?" Đại Đức Thích Quảng Thành còn trách Thượng Tọa Trí Quang : "Đem con bỏ chợ. Đầu hàng nửa chừng. Trốn tránh trách nhiệm. Không xứng đáng làm gương cho Tăng, Ni noi theo".
Ngày 26.8.1964 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc đốt hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng. Ngày 28.8.1964 Hội đồng này mở cuộc tấn công trường Nguyễn Bá Tòng và đốt tòa báo Xây Dựng của Linh mục Nguyễn Quang Lãm ở Saigon. Trước sự lộng hành này, các thanh niên Công Giáo thuộc các giáo xứ xung quanh Saigon mở cuộc tấn công mạnh mẽ đánh trả lại khiến Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bỏ chạy. Thấy tình thế nguy ngập, hai Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh cũng chạy trốn. Trong một đoạn khác của cuốn Bạch Thư, Thượng Tọa Tâm Châu kể lại như sau :
"Việc Thượng Tọa Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật Tử mà Thượng Tọa cư ngụ ớ đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau Thượng Tọa cùng hai vị tùy tùng trở về Saigon thì ai cũng biết. Để xác tín về việc này, Đại Đức Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho Thượng Tọa Trí Quang ngày 31.12.1973 như sau : "Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chính phủ Nguyễn Khánh, Thượng Tọa đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình thế biến chuyển, Thượng Tọa mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, Thượng Tọa đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các Thượng Tọa khác".
Ông đã từng ở với Việt Cộng trong những ngày có các cuộc tàn sát đẫm máu các chiến sĩ quốc gia từ 1945 - 1947 nên khi Việt Cộng chiếm được miền Nam, ông quay lại ngồi thiền, cầu mong được an thân, không bao giờ dám bàn đến chính trị, để mặc cho các tăng sĩ khác và Phật tử tranh đầu với nhà cầm quyền Cộng Sản. Đây cũng là một cách trốn tránh tránh nhiệm.
Với những khuyết điểm chồng chất như chất trên, ông đã đi từ sai lầm này đến sai lầm khác, từ thế chủ động sang thế bị động, biến Phật Giáo miền Trung thành công cụ của cả Việt Cộng lẫn Hoa Kỳ, gây phân hóa trầm trọng trong nội bộ của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang và cuối cùng để Phật Giáo Việt Nam rơi vào tình trạng bi đát như ngày hôm nay là bị Việt Cộng "quốc doanh hóa" hoàn toàn.
Cựu Tổng Thống R. Nixon đã nói khá nhiều đến các chiến thuật phá rối chính quyền miền Nam của Thượng Tọa Thích Trí Quang. Tất cả những vấn đề này và các đặc tính của ông sẽ xuất hiện đầy đủ trong phần đề cập về các cuộc thánh chiến từ 1963 - 1966.

Cư sĩ Lê Đình Thám: có pháp danh là Tâm Minh, sinh năm 1897 tại làng Phú Mỹ, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Lê Đỉnh, Thượng Thư Bộ Binh dưới triều vua Tự Đức. Ông thông thạo cả Hán Học lẫn Tây học, đậu Đông Dương Y Sĩ năm 1916 và Y Khoa Bác Sĩ năm 1930 tại Y Khoa Đại Học Đường Hà Nội.
Năm 1928 Bác Sĩ Lê Đình Thám được đưa đến phục vụ tại Viện Pasteur Huế. Ông là một trong những viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa đứng ra tổ chức phong trào chấn hưng Phật Giáo lại Trung Kỳ. Ông đã thọ giới với hai Hòa thượng Giác Tiên và Phước Huệ nên rất am tường về Phật Học. Năm 1932, ông đứng ra thành lập Hội An Nam Phật Học Huế và ông là Hội Trưởng đầu tiên của hội này. Sau đó, ông cùng với Thượng Tọa Thích Mật Khế đứng ra lập Trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm ở Huế vào năm 1934. Trường này đã đào tạo rất nhiều tăng sĩ sau này tham gia Mặt trận Việt Minh như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Mật Thể. Năm 1940 ông thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục. Chính ông và cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ Thích Minh Châu, đã đích thân huấn luyện cho các thanh Niên Phật Tử. Võ Đình Cường, "cố vấn chỉ đạo" của Thượng Tọa Thích Trí Quang, cũng xuất thân từ đoàn này. Năm 1944 ông thành lập Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đến năm 1951, tổ chức này được đổi thành Gia Đình Phật Tử.
Năm 1945 ông tham gia Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc của Mặt Trận Việt Minh ở Huế và là lý thuyết gia điều hợp chủ nghĩa cộng sản với Phật pháp. Năm 1946 Pháp chiếm Huế, ông và gia đình tản cư về Quảng Nam và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V của Việt Cộng gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tại đây ông đã tập họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn Phật Học Đức Dục ở Bồng Sơn, Bình Định, để giảng dạy về "Phật Giáo và dân chủ mới", coi con đường của Phật Giáo và con đường của cộng sản chủ nghĩa là một, với mục tiêu thúc đẩy thanh niên Phật tử gia nhập Đảng Cộng sản và tham gia kháng chiến. Ông cho lập ban nghiên cứu tổng hợp giáo lý Phật Giáo với chủ thuyết Mác-Lê. Kết quả, Nguyễn Hữu Quán đã tóm lược lại công trình nghiên cứu này trong cuốn "Phật Giáo và nền dân chủ mới" phổ biến khắp các tỉnh miền Trung. Ảnh hưởng của cuốn sách này rất lớn lao đối với các tăng sĩ và một số Phật tử ở miền Trung như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, v.v.
Năm 1949, khi Hồ Chí Minh quyết định trao Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ lại cho một người khác, ông bị gọi ra Bắc và cho giữ chức Chủ Tịch Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới để mở chiến dịch chống lại việc Pháp tái lập các thuộc địa. Ông phải theo đường Trường Sơn để đến Hà Tĩnh, vì lúc đó các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng Bình đã bị Pháp chiếm. Năm 1953, khi bắt đầu mở các cuộc tấn công lớn để buộc Pháp nhường đất, Hồ Chí Minh đổi Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới thành Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hoà Bình. Bác sĩ Lê Đình Thám cũng được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban này. Năm 1956, ông được nhà cầm quyền Hà Nội cử đi dự lễ Buddha Jayanti tại Ấn Độ với Hòa Thượng Thích Trí Độ. Trong dịp đó ông đã tiếp xúc nhiều với các tăng sĩ miền Nam đến tham dự lễ. Sau chuyến đi này, nhà cầm quyền Hà Nội đã đặt nhiều nghi vấn về lập trường của ông nên không cho ông làm Chủ Tịch Ủy ban nữa. Kể từ đó ông dành những ngày thất sủng trong khoảng đời còn lại để dịch bộ Kinh Lăng Nghiêm. Ông mất tại Hà Nội ngày 23.4.1969.
Trước tiên, Bác Sĩ Lê Đình Thám là một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa được đưa ra Huế để thành lập tổ chức phục hưng Phật Giáo tại Trung Kỳ nhằm "hóa giải" phong trào chống Pháp của nhà Nho. Nhưng đến năm 1945, khi Việt Minh cướp được chính quyền, ông theo Việt Minh kháng chiến vì lòng yêu nước. Khi ông tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Tư tưởng dung hợp Phật Giáo với Cộng Sản và chủ trương khai thác tư tưởng Phật Giáo theo hướng chủ nghĩa Mác-Lênin của ông đã gây tác hại lớn lao trên các tăng sĩ và cư sĩ trong tổ chức An Nam Phật Học ở Huế. Đa số các tăng sĩ và cư sĩ trong hội này đã theo Cộng Sản. Năm 1956 ông đã bị thất sủng tại miền Bắc và đang tự sám hối thì một số đồng đạo và môn sinh của ông không hay biết chuyện đó, vẫn tiếp tục con đường ông đã vạch ra nên đã đem lại nhiều tang tóc cho Phật Giáo và quê hương.
Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hòa Cầm
Võ Đình Cường sinh năm 1922 tại Sịa, xã Thạch Bình, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Học lực trung học đệ nhất cấp, làm giáo viên trường Bồ Đề ở Huế và xuất bản sách báo Phật Giáo.
Năm 1940, khi Bác Sĩ Lê Đình Thám thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục ở Huế thì Võ Đình Cường là một trong các Phật tử đầu tiên gia nhập tổ chức này. Cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ của Thích Minh Châu, và Bác Sĩ Lê Đình Thám là những người hướng dẫn cho Đoàn. Năm 1944 Bác sĩ Lê Đình Thám thành lập tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ. Võ Đình Cường trở thành một Huynh Trưởng Phật tử cốt cán trong tổ chức này.
Năm 1945, khi Việt Minh mới cướp chính quyền, Võ Đình Cường tham gia ngay Hội Phật Giáo Cứu Quốc cùng với một số đông tăng sĩ và Phật tử nòng cốt trong Hội An Nam Phật Học. Hội Phật Giáo Cứu Quốc ở Huế do Thích Mật Thể làm Chủ Tịch. Cuối năm 1946, Lê Đình Thám tản cư về Liên khu V còn cụ Đinh Văn Chấp về Liên Khu IV. Cả Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục lẫn tổ chức Gia Đình Phật Hoá Phổ đều giao cho Võ Đình Cường quán xuyến. Võ Đình Cường đã chịu ảnh hưởng lớn lao tư tưởng và cuộc đời của Lê Đình Thám và cụ Đinh Văn Chấp, cả hai người này đều chủ trương dung hợp Phật Giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Bác sĩ Lê Đình Thám được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ còn cụ Đinh Văn Chấp làm chủ Tịch Ủy Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-Lê và sau đó làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Liên Khu IV. Võ Đình Cường quyết tâm đi theo con đường của hai thầy.
Vì tình trạng chiến tranh, các thành phần cốt cán trong Gia Đình Phật Hóa Phổ tản cư mỗi người một nơi nên tổ chức này phải ngưng hoạt động. Đến cuối năm 1947, khi Pháp ổn định xong tình hình ở Huế, Hội Việt Nam Phật Học hoạt động trở lại và đặt trụ sở tại số 1b đường Nguyễn Hoàng ở Huế, Võ Đình Cường và Phan Cảnh Tú vận động tái lập Gia Đình Phật Hóa Phổ và mượn trụ sở Hội An Nam Phật Học làm nơi sinh hoạt tạm thời. Ngày Chúa nhật 18.1.1948, Võ Đình Cường chính thức làm lễ ra mắt tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ mới tại chùa Từ Đàm. Tham dự trong lễ ra mắt này người ta còn thấy những Phật tử nhiệt thành sau đây: Tống Hồ Cầm, Hoàng Thị Kim Cúc, Cao Chánh Hựu, Văn Đình Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Phan Xuân Sanh, v.v. Những người này về sau đều nằm trong Ban Cố Vấn Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử và Võ Đình Cường trở thành người lãnh đạo. Năm 1951, Tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ được đổi thành Gia Đình Phật Tử
Võ Đình Cường có cho xuất bản cuốn Ánh Đạo Vàng để phổ biến tinh thần Phật Học trong giới Gia Đình Phật Tử nhưng không có gì sâu sắc vì trình độ văn hóa tổng quát cũng như Phật học của ông chưa đầy đủ. Đến năm 1950, nhóm học tăng trung học của Phật Học Đường Báo Quốc phải soạn tập Phật Pháp cho các thanh thiếu niên học. Nhóm này đều là học trò của Bác Sĩ Lê Đình Thám và cụ Đinh Văn Chấp trước đây trong đó có Minh Châu, Đức Tâm, Trí Không, Thiện Ấn và Chân Trí .
Sau khi Thượng Tọa Thích Trí Quang từ Quảng Bình trở lại chùa Từ Đàm, Võ Đình Cường đã hợp tác với Thích Trí Quang phát triển tổ chức Gia Đình Phật Tử, đi về từng xã thiết lập các Khuôn Hội Phật Giáo. Tinh thần của tổ chức nầy vẫn là tinh thần mà Bác Sĩ Lê Đình Thám đưa ra : dung hợp Phật Giáo với chủ nghĩa Mác-Lê, dùng cuốn "Phật Giáo và nền dân chủ mới" của Phật Giáo Liên Khu V làm cẩm nang. Cả Thượng Tọa Thích Trí Quang lẫn Võ Đình Cường luôn cổ võ cho chủ nghĩa cộng sản. Nhân vật thứ hai đứng bên Võ Đình Cường là Tống Hồ Cầm. Anh này làm nhà in nên đã giúp Võ Đình Cường kinh tài bằng cách in các sách về Phật giáo và kinh Phật. Cả hai đã sống bằng nguồn lợi tức này.
Võ Đình Cường còn có một đồng chí là Tôn Thất Dương Kỵ, ông nầy cũng là một Phật tử cực đoan và thân Cộng. Tôn Thất Dương Kỵ đã cùng Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm giúp Thích Quảng Liên phát động phong trào nguỵ hoà để làm suy yếu tinh thần chống Cộng tại miền Nam Việt Nam nên đã bị chính phủ Phan Huy Quát tống xuất ra miền Bắc ngày 19.3.1965.
Sau khi hiệp định Genève được ký kết, Việt Cộng đã phái Nguyễn Trực đến phụ giúp nhóm Võ Đình Cường. Nguyễn Trực người Thừa Thiên, một đảng viên của Đảng Cộng Sản, mang quân hàm Trung úy, tuy học lực thấp nhất trong nhóm, nhưng làm Bí Thư Chi Bộ, có nhiệm vụ thâu lượm tin tức và báo cáo tình hình cho Khu Ủy Trị-thiên- Huế, nhận lãnh và thi hành các chỉ thị của cơ quan này. Cơ quan tình báo cũng như Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa có đầy đủ hồ sơ của Nguyễn Trực. Dưới thời Ngô Đình Diệm, Nguyễn Trực đã bị công an bắt giam vì hoạt động cho Việt Cộng. Nhưng sau khi Ủy Ban Liên Bộ và Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo ký thông cáo chung, Thích Trí Quang đã đòi thả Nguyễn Trực ra. Năm 1964, Nguyễn Trực bị cảnh sát bắt trở lại, nhưng Thích Trí Quang đã .. điều đình và bảo lãnh về. Dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Trực bị cơ quan An Ninh Quân Đội bắt một lần nữa vì vẫn tiếp tục hoạt động cho Việt Cộng, nhưng Thích Trí Quang làm áp lực mạnh và xin bảo lãnh, cơ quan An Ninh Quân Đội lại phải cho về. Khi các cuộc đấu tranh miền Trung chấm dứt, bộ chỉ huy được chuyển vào chùa Ấn Quang ở Saigon, Nguyễn Trực vào điều khiển nhóm cán bộ nằm vùng tại Đại Học Vạn Hạnh. Võ Đình Cường cũng vào Saigon, ở đường Phan Thanh Giản, Quận 3, khu trước bệnh viện Bình Dân.
Ngày 30.4.1975, Nguyễn Trực xuất hiện với quân hàm Trung úy, súng K54 bên hông, đứng ra điều động Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại Học Vạn Hạnh đi ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng". Sau đó Nguyễn Trực lên làm Chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Quận 3. Tất cả Ban Giảng Huấn Đại Học Vạn Hạnh, kể cả Thích Minh Châu, đều phải đến trình diện Nguyễn Trực và được cấp giấy chứng nhận. Nguyễn Trực cũng là người tiếp thu Đại Học Vạn Hạnh. Nhưng năm 1981, Nguyễn Trực đứng ra tổ chức vượt biên để lấy tiền. Nội vụ bị bại lộ, Nguyễn Trực bị truy tố ra tòa và bị phạt 4 năm tù và sau đó bị loại khỏi Đảng. Như vậy qua 4 thời chính phủ khác nhau, Nguyễn Trực đều phải đi tù. Sau khi Nguyễn Trực bị Việt Cộng bắt, một đứa con trai của Nguyễn Trực đã vượt biên lọt, đang được định cư tại Orange County, California, Hoa Kỳ. Sau khi ra tù, Nguyễn Trực ở với 3 người con gái tại Sai gon và đang chờ đứa con trai bảo lãnh qua định cư tại Hoa Kỳ !
Trong các biến cố do Phật Giáo miền Trung gây ra từ 1963 đến 1966, Võ Đình Cường và Nguyễn Trực đã hoạch định mọi kế hoạch và chiến thuật dưới sự chỉ đạo của Bộ Chỉ Huy Việt Cộng ở Thừa Thiên và đẩy Thượng Tọa Thích Trí Quang chạy theo. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Võ Đình Cường đã cho biến các Khuôn Hội Phật Giáo ở Thừa Thiên thành những Chi Bộ giống như tổ chức của Đảng Cộng Sản
Vừa nắm quyền, vừa nắm quân, Võ Đình Cường đã không coi Thượng Tọa Thích Trí Quang ra gì. Ông hoàn toàn bị nhóm Võ Đình Cường bao vây. Khi cơ quan chính quyền hay đoàn thể muốn lấy ý kiến hay thương lượng vấn đề gì với Thích Trí Quang cũng như khi các ký giả muốn gặp ông, Võ Đình Cường đều kiểm soát trước và quyết định cho gặp hay không. Có lần Võ Đình Cường đã nói thẳng với chúng tôi : "Thích Trí Quang thì cũng phải qua đây". Đầu tháng 4 năm 1975, khi Việt Cộng đã chiếm Đà Nẵng, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến và Tướng Nguyễn Cao Kỳ định làm đảo chính lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để tổ chức lại quân đội. Bác Sĩ Trần Kim Tuyến có vào bàn với Thượng Tọa Thích Trí Quang thì ông đồng ý ngay, với điều kiện sau khi lập chính phủ mới, phải lập Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp gồm ba thành phần như Hiệp Định Genève đã quy định. Thành phần thứ nhất đại diện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, thành phần thứ hai đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và thành phần thứ ba là đại diện Phật Giáo Ấn Quang. Nhưng khi Võ Đình Cường đến họp chung với một vài nhóm khác thì Võ Đình Cường tuyên bố dứt khoát rằng sau khi đảo chánh phải lập ngay chính phủ liên hiệp ba thành phần, tuyên bố trung lập và người Mỹ phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam. Bác Sĩ Tuyến có nhắc lại ý kiến của Thượng Tọa Thích Trí Quang thì Võ Đình Cường trả lời : "Tôi là người quyết định chớ không phải Thích Trí Quang"! Vụ âm mưu đảo chánh này bất thành.
Sau ngày 30.4.1975, Võ Đình Cường và Thượng Tọa Thích Minh Châu đứng lên lãnh đạo khối Phật Giáo Ấn Quang. Ngày 4.6.1977 công an xét chùa Ấn Quang, bắt Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, và một số tăng sĩ chống đối, Võ Đình Cường đã đóng vai trò chủ lực trong Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo để đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang vào quốc doanh.
Võ Đình Cường được Mặt Trận Tổ Quốc giao cho làm Tổng Biên Tập tạp chí Giác Ngộ, đã dùng tờ báo này công kích các tăng sĩ chống lại sự khống chế Phật Giáo của chính quyền, tấn công các tăng sĩ chống lại việc đưa Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang gia nhập vào Giáo Hội quốc doanh. Tăng sĩ bị lên án nặng nhất trong vụ này là Hòa Thượng Thích Trí Độ. Tống Hòa Cầm là Quản Lý của tạp chí này. Dưới bút hiệu Tống Anh Nghị, Tống Hoà Cầm đã viết rất nhiều bài yểm trợ nhà cầm quyền thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để gôm Phật Giáo về một mối. Năm 1992, Võ Đình Cường được Đảng cho về hưu trí và đưa Thượng Tọa Thích Trí Quảng lên làm Tổng Biên Tập thay. Tống Hòa Cầm vẫn tiếp tục làm Quản Lý, nhưng cũng đã cho một đứa con trai vượt biên qua định cư tại Hoa Kỳ để phòng khi bị thất sủng sẽ nhờ con bảo lãnh qua Mỹ.
Trong Bông Sen số 18, Trần Tâm Nguyên (tức Lý Khôi Việt) đã cho biết trong tang lễ của Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, Pháp Chủ Giáo Hội quốc doanh, qua đời tại Hà Nội trong tháng 1 năm 1994, Saigon có gởi một phái đoàn 26 người đến dự, trong đó có Võ Đình Cường. Trần Tam Nguyên có hỏi một người bạn "chuyên viên về Phật Giáo" Saigon: "Tại sao có anh Cường mà không có Thầy Trí Quảng?". Anh nầy cười và đáp : "Điều này có nghĩa Thầy Trí Quảng không có uy tín bằng hay không được tin cậy bằng anh Cường, dưới con mắt của Nhà Nước".
Võ Đình Cường là một thành phần cuồng tín và cực đoan trên tất cả ba phương diện : đề cao Phật Giáo, phục vụ Cộng Sản và chống Thiên Chúa Giáo. Tất cả hoạt động của Võ Đình Cường đều nhắm vào ba mục tiêu này. Những người thân tính nhất với Võ Đình Cường đã nói với chúng tôi rằng từ năm 1945 đến nay Võ Đình Cường vẫn tin rằng chỉ có Phật Giáo và Cộng Sản mới có thể cứu dân tộc Việt Nam. Võ Đình Cường đã biến thuyết dung hợp Phật Giáo với Cộng Sản để cứu nước của Bác Sĩ Lê Đình Thám thành thuyết liên hiệp Phật Giáo với Cộng Sản để hóa giải Thiên Chúa Giáo. Nhưng cũng như Thượng Tọa Thích Trí Quang, trình độ kiến thức và khả năng của Võ Đình Cường rất giới hạn, không thể hệ thống hóa được chủ thuyết muốn đưa ra để hướng dẫn hành động nên đã đi từ cuồng động đến xuẩn động và thay vì cứu Phật Giáo và dân tộc, đã biến Phật Giáo thành nạn nhân của chế độ cộng sản và trở thành công cụ đắc lực cho những mưu đồ chính trị đen tối. Lénine đã từng nói :
Thiện chí + ngu dốt = phá hoại.
***
Tại miền Nam trước 30.4.1975, còn một số tăng sĩ đã hoạt động cho Việt Cộng như Thích Quảng Liên, Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ, Thích Bửu Phương, Thích Nhất Hạnh, Thích Mật Hiển v.v. Hoạt động của các tăng sĩ này sẽ được chúng tôi đề cập đến khi trình bày các vấn đề liên hệ.
Số các tăng sĩ miền Bắc tham gia tích cực vào các hoạt động của Việt Cộng cũng nhiều: Thích Pháp Dõng, Thích Minh Nguyệt, Thích Huệ Phương, Thích Viên Minh, Thích Không Không, Thích Pháp Tràng, Thích Pháp Long, Thích Huệ Quang ... trong các Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc ở miền Nam, hoặc các Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh), Thích Kim Cương Tử (Đại Biểu Quốc Hội, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung ương), Thích Tâm Thông (Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương), Thích Tâm Tứ (Phó Tổng Thư Ký Văn Phòng Trung Ương), Thích Tâm Tịnh (Trưởng Ban Trị Sự)... trong Giáo hội Phật Giáo quốc doanh hiện nay. Ngoài ra, còn có vô số cán bộ cộng sản nằm vùng đội lốt nhà sư mà chúng ta không biết được. Năm 1985, vào một buổi tối tôi đi ngang qua ngôi chùa bên hông chung cư Nguyễn Thiện Thuật ở Saigon, tôi thấy áo vàng treo đầy khắp nơi, còn ở giữa là một đám đàn ông ngồi nhậu. Tôi hỏi một bà bán thuốc lá kế bên họ đang hội họp gì đó. Bà ta cười và trả lời : "Mấy ông "sư hổ mang " đó mà ! Ngày mai, các ông lại mặc áo vàng vào đi khất thực." Thì ra Việt Cộng đã tổ chức hàng đoàn "sư khất thực" để mỗi ngày đi dò thám khắp nơi, tối về hội họp nhau nhậu. Nếu có cuộc đại hội gì của Phật Giáo, các sư giả nầy sẽ là đại biểu tới tham dự!
Trường hợp của Thượng Tọa Thích Quảng Liên, nguyên ủy Viên Giáo Dục Vụ trong Tổng Vụ Pháp Sự của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, là trường hợp cần được điều tra kỹ càng hơn. Chính ông đã thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, một tổ chức ngụy hòa của Việt Cộng tại miền Nam, vào ngày 27.2.1965 và làm Chủ Tịch Phong Trào này. Các thành viên của hai tổ chức đó đã bị chính quyền miền Nam tống xuất ra Bắc hay đưa ra tòa xét xử và tuyên án rất nặng, nhưng ông không hề bị liên lụy gì. Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất đã giao cho ông làm Hiệu Trưởng Trường Bồ Đề ở Saigon nhưng khi Giáo Hội này bể làm đôi, ông chiếm đoạt luôn tài sản của Giáo Hội, không chịu giao cho bên nào.
Hiện nay, ông đang hợp tác với Thượng Tọa Thích Minh Châu điều khiển Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh ở miền Nam. Mới đây, trong một bài diễn văn đọc tại Tu Viện Quán Âm ở Thủ Đức ngày 9.6.1993, nhân ngày húy của Thích Quảng Đức, ông tuyên bố ông sẵn sàng đứng ra làm nhịp cầu để phe Phật Giáo quốc doanh và chống quốc doanh bắt tay nhau.
Nhìn chung, các nhà sư Trí Độ, Đôn Hậu, Trí Quang, Thiện Minh, Huyền Quang, Minh Châu và hai cư sĩ Lê Đình Thám và Võ Đình Cường là những người đã góp phần tích cực trong việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản và đưa Phật Giáo vào các cuộc phiêu lưu chính trị với những hậu quả rất tai hại cho Phật Giáo Việt Nam.

CÁC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÓM PHẬT GIÁO CỰC ĐOAN NHẰM YỂM TRỢ CHO CỘNG SẢN
Trong những năm Việt Cộng hô hào kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chống các chính phủ quốc gia Việt Nam, một số tăng sĩ cao cấp của Phật Giáo Ấn Quang, người miền Trung, nằm trong hệ thống Trường An Nam Phật Học ở Huế, đã gia nhập hay thành lập nhiều tổ chức nhằm tiếp tay cho Cộng Sản Việt Nam. Sau đây là những trường hợp điển hình :
I- TỔ CHỨC CÁC HỘI PHẬT GIÁO CỨU QUỐC ĐỂ YỂM TRỢ VIỆT CỘNG
Năm 1941, khi Đảng Cộng Sản Đông Dương lập ra Mặt trận Việt Minh để chuẩn bị cướp chính quyền thì Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học Huế đã lập ra Hội Phật Giáo Cứu Quốc toàn quốc để tham gia Mặt Trận Việt Minh.
Năm 1945, Việt Cộng cướp chính quyền, Hòa Thượng Thích Trí Độ xuất hiện với tư cách Hội Trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung ương, kêu gọi các tăng sĩ thành lập và tham gia các Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc các cấp.
Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (Tập III), Nguyễn Lang (tức Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh) đã viết :
Trong số các tăng ni trẻ tuổi được các Phật Học Viện Huế, Bình Định, Lưỡng Xuyên và Hà Nội đào tạo thuở ấy, hầu hết tất cả đều có tham dự vào phong trào Cách Mạng Cứu Quốc. Các học tăng tội nghiệp xuất sắc nhân của trường An Nam Phật Học như Phạm Quang (Thích Trí Quang), Đổ Xuân Hàng (Thích Thiện Minh), Trần Trọng Thuyền (Thích Trí Thuyền ), v. v. . . đều đã không ngần ngại bắt tay vào việc...
"Mặt trận kháng chiến Saigon rồi Hà Nội và Huế tan vỡ; tang tóc gieo trên quê hương càng lúc càng nhiều. Một số tăng sĩ và cư sĩ làm việc trong kháng chiến rút theo về các căn cứ chiến khu ...
"Những tổ chức Phật Giáo Cứu Quốc được tiếp tục duy trì. Trụ sở của các tổ chức này, có nơi đặt tại vùng kháng chiến, có nơi đặt tại vùng hồi cư. Tỉnh nào cũng duy trì một Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc. Không những chỉ có các tăng sĩ trẻ đứng ra đảm nhiệm công cuộc này mà những vị tôn túc nhiều khi cũng đã chịu đứng ra làm chủ tịch các Ủy ban để các tăng sĩ trẻ tuổi dựa vào mà làm việc."(6)
Sau đây là danh sách các tăng sĩ đã làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc cấp tỉnh mà chúng ta được biết :
- Quảng Bình : Thích Trí Quang.
- Quảng Trị : Thích Trí Nghiễm, tức Thích Thiện Minh.
- Thừa Thiên : Thích Mật Thể.
- Bình Định : Thích Huyền Quang
- Gia Định : Thích Pháp Dõng.
- Mỹ Tho : Thích Pháp Tràng.
- Vĩnh Long : Thích Pháp Long.
- Trà Vinh : Thích Huệ Quang.
Hòa Thượng Thích Đôn Hậu làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, trụ sở của Hội đặt tại chùa Từ Đàm, Huế. Hòa Thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ, trụ sở đặt tại chùa Ô Môi, xã Mỹ Quý, thuộc chiến khu Đồng Tháp. Ban Chấp Hành Hội gồm có các (tăng sĩ?) Thích Minh Nguyệt, Thích Huệ Phương, Thích Viên Minh và Thích Không Không.
Hội Phật Giáo Cứu Quốc nằm trong Mặt Trận Việt Minh, hoạt động từ năm 1941 đến 1951 thì ngưng. Ngày 5.3.1951, Hồ Chí Minh sát nhập Mặt Trận Việt Minh với Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt, các hội cứu quốc được giải tán và thay thế bằng những tổ chức mới. Hội Phật Giáo Cứu Quốc đổi thành Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Hội Trưởng. Một số tăng sĩ được chuyển qua các "Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình" để mở các chiến dịch chiến tranh tâm lý trong lòng địch.
II- CÁC TỔ CHỨC NGỤY HÒA

Các tổ chức ngụy hòa thường được Việt Cộng thành lập hoặc để vận động phản chiến trong hàng ngũ quốc gia hoặc để yểm trợ cho những yêu sách của Việt Cộng trên bàn hội nghị. Sau đây là những tổ chức ngụy hòa chính do một số tăng sĩ hay cư sĩ Phật Giáo đảm nhiệm hay thành lập để yểm trợ cho các chiến thuật của Việt Cộng :
1- Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới
Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, Hồ Chí Minh thành lập Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ Hồ Chí Minh. Cư sĩ Tâm Minh tức Bác sĩ Lê Đình Thám đã được Hồ Chí Minh cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, vì các tăng sĩ Phật Giáo không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông. Nhưng Hòa Thượng Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của Phong Trào để chỉ đạo đường lối.
2.- Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết.
Năm 1953, Hồ Chí Minh thay Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp hòa bình cho Đông Dương. Cư sĩ Lê Đình Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Uỷ Ban này. Hòa Thượng Thích Trí Độ giữ chức Ủy Viên Trung ương của Ủy Ban. Thượng Tọa Thích Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy Ban.
Năm 1954, sau khi hiệp định Genève mới được ký kết, Thượng Tọa Thích Trí Quang vào Huế làm Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học ở Huế. Ông đã lợi dụng cương vị này, quy tụ một số nhà trí thức Phật Giáo thời đó tại Huế như bác sĩ Lê Khắc Quyến, bác sĩ Phạm Văn Huyến, Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ... để lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình tại miền Nam Việt Nam. Mục tiêu của Ủy Ban là ngụy hòa, tiếp tay cho Hồ Chí Minh trong việc kêu gọi hòa hợp hòa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất hai miền Nam Bắc trong thời hạn hai năm sau ngày ký kết Hiệp Định Genève. Hồ Chí Minh tin rằng trong khi tình hình miền Nam đang rối loạn vì giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định Cộng Sản sẽ thắng vì trong" những năm kháng chiến chống Pháp họ đã gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận động. Phong Trào này đã bị Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt rồi chiêu hồi.
Ngày 27.2.1965, Thượng Tọa Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc. Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình do Thượng Tọa Thích Trí Quang lập năm 1954 đã nói. Thượng Tọa Thích Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang. Song song với Ủy Ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên là Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt động. Cả hai phong trào đưa ra chủ trương ngụy hòa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ miền Nam Việt Nam phải chấm dứt chiến tranh.
Ngày 5.3.1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông cho cho dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Hòa Bình, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v. tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của Việt Cộng đặt ra nhắm làm suy yếu tinh thần chống cộng của quân dân miền Nam. Cảnh sát đưa ra nhiều tài liệu của Việt cộng hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các Phong trào này. Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11.3.1965 Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình là do Thượng Tọa Thích Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hóa Đạo. Ngày 17.3.1965, Thượng Tọa Thích Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ Tịch của Phong Trào.
Những người tham gia hai phong trào này đã bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều tra. Trước đó, ngày 1.3.1965, Chính phủ Phan Huy Quát đã ra tuyên bố xác định chỉ nói chuyện hòa bình khi nào Cộng Sản chấm dứt xâm lăng. Ngày 19.3.1965, ba người thuộc Phong Trào Hòa Bình bị trục xuất ra miền Bắc là Bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, ký giả Cao Minh Chiếm và Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Ngày 4.8.1965, Tòa án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Phong trào Dân Tộc Tự Quyết do Thượng Tọa Thích Quảng Liên thành lập và làm Chủ Tịch, xác nhận hoạt động của hai tổ chức này có liên hệ với Cộng Sản, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 người. Nhưng Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Chủ Tịch của Phong Trào lại không bị bắt hay truy tố. Chính sự tránh né này của chính phủ Phan Huy Quát đã làm cho một số tăng sĩ Phật Giáo miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đã trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xã hội. Với ý nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra nhiều tai biến nghiêm trọng sau này.
3.- Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc
Ngày 27.1.1973 Hiệp Định Paris vừa được ký kết thì ngày 31.1.1973, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch với nhiệm vụ đòi "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ hòa hợp hòa giải.
Thượng Tọa Thích Mãn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hóa Đạo, theo đề nghị của Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu. Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Thiện Minh đã yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này(7).
Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã lập lực lượng nói trên để làm gì ?
Điều 12 của Hiệp Định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam Việt Nam một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm ba thành phần : Việt Nam Cộng Hòa, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và các thành phần ở giữa. Lúc đầu Hà Nội cương quyết đòi Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôi. Hà Nội tin rằng trong ba thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm hai thành phần là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại miền Nam. Thượng Tọa Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập thành phần thứ ba gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc nói trên.
Thông bạch do Thượng Tọa Thích Thiện Minh công bố đã bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích mạnh mẽ nên lực lượng không hoạt động được.
4.- Phong trào Phật Giáo hải ngoại đòi hòa giải hòa hợp, giao lưu, hợp lưu với Việt Cộng.
Tại hải ngoại, nhóm Phật Giáo cực đoan gốc miền Trung luôn phát động phong trào đòi hòa giải hòa hợp, giao lưu với Cộng Sản Việt Nam. Chủ trương của nhóm này được đăng trong các tờ Giao Điểm, Giao Lưu, Hợp Lưu, Trăm Con và Bông Sen. Bài "Việt Nam trước nạn thực dân kinh tế mới" của Nguyễn Trường Kỳ đăng trong tạp chí Giao Điểm của Hồng Quang số 9 ngày 15.7.1992 là một thí dụ điển hình. Bài này kêu gọi phải hợp tác với Việt Cộng để xây đựng đất nước bằng những lập luận sơ đẳng và khờ khạo như sau :
"Đất nước Việt Nam là của chung, 70 triệu đồng bào là anh em ruột thịt. Chúng ta chống Đảng Cộng Sản Việt Nam chứ không chống nhân dân Việt Nam. Trách nhiệm mang lại cơm no áo ấm cho toàn dân và giúp giải quyết nạn thất nghiệp của 21 triệu người là trách nhiệm của cả nước. "
"Nhờ những chính sách cởi mở, chúng ta cũng có thể tiến hành xây dựng những trường dạy nghề, những đại học chuyên nghiệp và các cơ sở huấn nghệ do các chuyên gia ở ngoại quốc về giảng dạy những chương trình kỹ thuật cập nhật với đà tiến bộ khoa học thế giới. Những dự án đầu tư của người Việt hùn vốn lại với nhau, hoặc liên doanh với các doanh gia nước ngoài với trong nước, cũng phải bắt đầu khởi sự."
Trong phần giới thiệu bài này, tạp chí Giao Điểm cho biết Nguyễn Trường Kỳ là một chuyên gia Việt Nam làm việc tại Singapore và lưu ý độc giả về "lời cảnh giác cấp thiết của tác giả và những thông tin có tính tổng hợp mà tác giả ghi nhận được trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 6 vừa qua."
Tạp chí Giao Điểm đã bỏ qua một cách dễ dàng việc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã rập theo khuôn mẫu tổ chức xã hội và kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa, biến Việt Nam thành một nước vừa nghèo nhất thế giới vừa không có nhân quyền và dân quyền. Sau đó tạp chí Giao Điểm cố tình đánh lộn giữa việc cứu dân và cứu nguy chế độ, thúc đẩy đồng bào hải ngoại giúp chế độ độc tài và khát máu trong nước tồn tại lâu hơn và coi đó là một hành động cứu nước và yêu đồng bào ! Nguyễn Trường Kỳ cũng không hiểu gì về tình hình Việt Nam sau các chuyến về quan sát tại chỗ hoặc chỉ viết bài này với mục đính mở đường cho các công ty ngoại quốc mà anh đang phục vụ làm ăn mà thôi. Nhiều doanh gia Việt Nam nghe theo lời kêu gọi của tạp chí Giao Điểm đã bị tán gia bại sản và có người còn bị tù tội.
Ngoài việc đăng các bài cổ võ hợp tác với Việt Cộng, các tạp chí nói trên còn phổ biến văn hóa của Việt Cộng gọi là để "giao lưu văn hóa". Võ Văn Ái, Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam và Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế tại Paris đã tranh chấp với Phan Huy Đường để in cuốn "Thiên Đường Mù" của Dương Thu Hương, kéo nhau ra tòa Nanterre ở Pháp. Tòa buộc Võ Văn Ái phải huỷ hết các sách đã in trong vòng 15 ngày, nếu vi phạm, mỗi lần bị phạt 50.000 francs !
Nhóm này cũng đang phát động một chiến dịch quyên góp tiền bạc về giúp các tổ chức Phật Giáo quốc doanh trong nước, kể cả các trường dạy "Phật học dưới ánh sáng Mác-Lê" của Viện Khoa Học Xã Hội ở chùa Sứ Quán Hà Nội và của Thượng Tọa Thích Minh Châu ở 716 đường Nguyễn Kiệm (Võ Di Nguy nối dài cũ) ở Phú Nhuận. Tờ Giao Điểm ở Orange County, California, còn đăng cả lời kêu gọi của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một đặc công Việt Cộng nằm vùng có nhiều tội ác trong vụ tàn sát tập thể ở Huế năm 1968. Lý Khôi Việt, tức Lê Hiếu Liêm, chủ biên tạp chí Bông Sen, thường về Việt Nam để phối hợp chặt chẽ trong chiến dịch nầy.
Sau khi các chế độ cộng sản Âu Châu sụp đổ và nhất là sau khi Hòa Thượng Huyền Quang công khai chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, người ta thấy bên ngoài đã có một vài sự thay đổi về đường lối trên các tờ Giao Điểm, Hợp Lưu, Trăm Con, nhưng tờ Bông Sen vẫn chưa chuyển hướng. Bên trong thì chưa biết như thế nào.

III-THÀNH LẬP CÁC TỔ CHỨC GÂY BẤT ỔN TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM GIÚP VIỆT CỘNG CƯỚP CHÍNH QUYỀN

Từ năm 1963 đến 30.4.1975, nhóm Phật Giáo miền Trung thân Cộng đã gây không biết bao nhiêu xáo trộn và tai biến trên quê hương nhằm giúp Việt Cộng thôn tính miền Nam Việt nam. Sau đây là một vài sự kiện cụ thể :
1-Thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.
Năm 1964, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã cho tái sinh hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh của Đảng Cộng Sản Việt Nam dưới cái tên là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, Thượng Tọa Thích Trí Quang cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng. Mục tiêu của hai tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam Việt Nam để tiến tới cướp chính quyền.
Dưới chiêu bài chống đàn áp Phật Giáo và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", hai tổ chức nói trên đã tung hoành từ Quảng Trị đến Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra gì, nhưng đến tháng 6 năm 1966 thì bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 nhất là sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam Việt Nam người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong hai lực lượng này đều là đặc công cộng sản nằm vùng như Thượng Tọa Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, hai Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm, v.v. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trong chương nói về các cuộc thánh chiến.
2.- Dùng Đại Học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành của Việt Cộng
Viện Đại Học Vạn Hạnh được xây cất ngày 9.6.1965. Khi hoàn thành, Thượng Tọa Thích Minh Châu được Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang cử làm Viện Trưởng. Trong thời gian làm Viện Trưởng, ông đã biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công Việt Cộng nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu tình và bạo động gây rối.
Ngày 30.4.1975, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Trực, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã dẫn Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại Học Vạn Hạnh cầm cờ Phật Giáo ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng" Các tài liệu của Việt Cộng xác nhận là Thượng Tọa Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành của họ.
3.- Nhận chỉ thị của Việt Cộng để hoạt động
Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Trị-Thiên- Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá tại miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên tình báo của Việt Nam Cộng Hòa theo dõi và chụp hình. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại Học Vạn Hạnh biết kém theo lời cảnh cáo. Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.
Các Thượng Tọa Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bửu Phuơng đã nhiều lần đi Tây Ninh họp với Việt Cộng để nhận chỉ thị về hoạt động nội thành. Lần họp tại chùa Từ Vân ở Gò Dầu Hạ, Tây Ninh, đã bị cơ quan an ninh phát giác. Thượng Tọa Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Phòng buộc phải từ chức Phó Giám Đốc Nha Tuyên úy Phật Giáo. Thượng Tọa Thích Quảng Độ từ khi du học ở Ấn Độ về đã có lập trường thân Cộng và hoạt động cho Mặt Trận Giải Phóng miền Nam. Chỉ sau 30.4.1975, khi ông cũng như Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt. Hiện nay, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đang được biến thành "công thần chống Cộng".
Chính quyền miền Nam đã không bắt đưa đi an trí hay truy tố các trường hợp nói trên vì sợ gây hoang mang dư luận và cơ quan tình báo không muốn phá vỡ đường dây để dễ dàng theo dõi. Các tài liệu trên đã được công bố ở trong nước cũng như ở hải ngoại, không ai phủ nhận được.
IV-YỂM TRỢ CÁC ĐÒI HỎI CỦA VIỆT CỘNG

Nhóm cực đoan miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã phát động rất nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các chủ trương và đường lối do Việt Cộng đưa ra.
1 - Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa"
Ngày 3.6.1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp thì được một nhóm phản chiến của Mỹ mời qua thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đã công bố chủ trương 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang như sau :
- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.
- Quân đội Mỹ rút lui.
- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.
- Ngưng các cuộc hành quân tại miền Nam Việt Nam.
- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và tái thiết miền Nam không điều kiện.
Năm điểm đòi hỏi này giống hệt 5 điểm đòi hỏi của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Năm 1967, Đại Đức Thích Nhất Hạnh cho xuất bản cuốn "Việt Nam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for Peace " (Việt Nam, Hoa Sen trong Biển Lửa, một Đề Nghị Hòa Bình của Phật Giáo), nói về các cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ 1963 - 1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội miền Nam Việt Nam gây ra. Ông lên án Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng vì Mỹ đã đổ quân và vũ khí vào Việt Nam, nên họ "nghiêng theo khối Cộng Sản, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối Cộng Sản", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẫn tuyên bố trong Đại Hội Đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lãnh đạo Mặt Trận.
Trong bộ Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam do Nhà Xuất Bản Sách Giáo Khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập do Nghị Quyết của Đại Hội III của Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tại Hà Nội tháng 9 năm 1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rất rõ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho Việt Cộng, ông đã cố tình bóp méo sự thật để biện hộ cho cuộc xâm lăng của Hà Nội.
Năm 1968, khi hòa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang ở hải ngoại.
Đại Đức Thích Nhất Hạnh ra ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp, lấy cô Cao Thị Hương và có một đứa con với cô này. Đọc những bài ông viết sau năm 1977, chúng ta thấy lập trường chính trị của ông đã có nhiều thay đổi.
2.- Thành lập Nhóm Hòa Giải sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ
Sau Đại Hội Phật Giáo kỳ 3 của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20.8.1968 vừa chấm dứt, Luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Hòa Giải gồm 25 người. Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ. Ngày 15.11.1969 Luật sư Trần Ngọc Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc Việt Nam là hòa bình trên cơ sở độc lập và tự do dân chủ". Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ hòa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam Việt Nam thật sớm. Các báo ở Saigon đã hỏi ông tại sao không nói gì về phía Cộng Sản, ông không trả lời. Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đòi hỏi của Bắc Việt tại hoà đàm Paris.
3.- Tuyên Ngôn 6 điểm của Phái Đoàn Phật Giáo Ấn Quang
Tháng 10 năm 1970, Thượng Tọa Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái Đoàn Phật Giáo Việt Nam qua Nhật Bổn dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình họp tại Kyoto từ 16 đến 22. 10. 1970. Phái đoàn này gồm có Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Minh Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và hai cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bửu. Tại Hội Nghị nói trên, phái đoàn đã đưa ra một đề nghị 6 điểm của Phật Giáo Việt Nam như sau :
1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26.1.1971)
2. Liên Hiệp Quốc sẽ chỉ định một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.
3. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đã bị tạm giam vì tranh đấu cho hòa bình và chủ quyền dân tộc
4. Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt tình trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam Việt Nam bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất hòa giải dân tộc, không liên kết và có đầy đủ khả năng để:
- Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
- Thương thuyết với Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam về những thể thức tổ chức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam Việt Nam, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế trong đó mọi người Việt Nam thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dự.
5. Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô Viêt, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề nghị này do chính người Việt đề ra.
6. Các phe lâm chiến tại Việt Nam, nhân dân ưa chuộng hòa bình trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh Việt Nam chấm dứt cuộc chiến tranh tại Việt Nam, Kampuchea và Lào.
Từ các danh từ và văn từ được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bản tuyên bố được viết với một giọng trịch thượng, giống lối hành văn của một văn kiện lập pháp hay một quyết định hành chánh chớ không phải lối hành văn nhẹ nhàng của một đề nghị trước một tổ chức quốc tế về tôn giáo và hòa bình, chỉ thiếu câu "các quốc gia trên thế giới, chiếu nhiệm vụ, thi hành tuyên bố này"! Rõ ràng là phái đoàn Phật Giáo Ấn Quang không biết gì về ngoại giao và vẫn còn nuôi ảo vọng về uy thế của mình, không phải chỉ trên Quốc gia mà trên cả thế giới!
Sau bản tuyên bố trên, Giáo Hội Phật Giáo đã làm mất hết cảm tình của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phái đoàn Đan Mạch đã hỏi tại sao Phật Giáo Việt Nam chỉ đòi quân đội Mỹ rút mà không đòi tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội Cộng Sản miền Bắc, Phái đoàn Phật Giáo Việt Nam không trả lời được.
V - THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ PHẬT GIÁO ĐỂ GIAO MIỀN NAM VIỆT NAM CHO VIỆT CỘNG

Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10 & 11 năm 1993 đã công bố bản tự thuật của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4 năm 1975, Phật Giáo đã thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản Hà Nội. Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật nói trên:
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng :
- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, Phật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Lập làm gì vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không ?
Hòa Thượng đáp:
- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế này. Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đã hỏi các vị trong viện Hóa Đạo. Các vị cho biết như sau : Hòa Thượng nên nhớ rằng, Phật Giáo chúng ta không ngu đến độ lập Chính phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đã bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồi. Của cải, thế lực ở miền Nam Việt Nam chẳng còn gì, Cách Mạng đã đến bên lưng. Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại gì muốn lên làm Tổng Thống lúc ấy.
Các vị ở Viện Hóa Đạo nói tiếp : Phật Giáo chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống gì con người ! Đã ba mươi năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần văn Hương tuyên bố "Đánh!" Thử hỏi cả hai bên tham chiến chết thêm bao nhiêu người nữa ? Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên Phật Giáo chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ chẳng còn ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, Phật Giáo đâu thể ngồi như vậy mà nhìn ? Nên phải lập Chính phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Mạng.
Thủ Tướng nói:
- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, lại tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng thì để làm gì ?
Tôi hỏi Thủ Tướng :
- Khi Dương văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không ?
- Không.
- Như vậy Dương văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh.
Đọc những lời Hòa Thượng Thích Đôn Hậu biện giải, chúng ta nhớ lại câu chuyện đối đáp giữa vua Trần Nhân Tông, một Hòa Thượng, với Bắc Bình Vương Trần Hưng Đạo. Khi giặc đánh mạnh, dân chết nhiều, với tâm tư của một nhà sư Phật Giáo, vua Trần Nhân Tôn đã nói với Trần Hưng Đạo :
"Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân."
Hưng Đạo Vương đã tâu một cách khẳng khái :
"Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà Tông Miếu Xã Tắc thì sao ? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã rồi sẽ hàng sau."
Một nhóm trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã theo lòng nhân của đạo Phật, không nghĩ đến Tông Miếu Xã Tắc, đem toàn bộ miền Nam Việt Nam dâng cho Cộng Sản "để hạn chế chết chóc". Kết quả, toàn dân Việt Nam đã lâm cảnh cùng khốn trong gần 20 năm qua, tăng ni Phật tử bị bắt bớ giam cầm, tài sản nhà chùa bị chiếm dụng và Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang bị "quốc doanh hóa". Rất tiếc, lúc đó nước ta không có một Trần Hưng Đạo để chống cự lại !
Chính phủ Phật Giáo nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29.4. 1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố :
- Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ kể từ ngày 29.4.1975.
- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam.
VI- TỔ CHỨC MỪNG "GIẢI PHÓNG"
1 - Mừng "giải phóng" tại Đà Nẵng
Ngày 29.3.1975, Việt Cộng vừa chiếm được Đà Nẵng thì các tổ chức Phật Giáo tại Đà Nẵng cắm cờ Phật Giáo trên xe, chạy khắp thành phố reo mừng. Sau đó, tại các chùa Tỉnh Hội, Phổ Đà, Phật Học, Vĩnh Hội và một vài nơi khác trong thành phố đã bắc loa kêu gọi quân nhân và công chức chế độ cũ ra trình diện. Một số được coi là "thành phần ác ôn" đã bị các chùa bắt giữ và giao nạp cho bộ đội Việt Cộng. Số còn lại bị Ban Lãnh Đạo Cách Mạng thành lập ở các chùa nói trên thu hồi thẻ quân nhân hay công chức rồi cấp giấy phép tạm tha cho về để đợi lệnh. Những người được coi là "có công với Cách Mạng" được nhà chùa cấp giấy chứng nhận để khỏi đi học tập cải tạo. Phật Giáo Đà Nẵng đã coi chiến thắng của Việt cộng như chiến thắng của chính mình và các chùa ở Đà Nẵng đã hoạt động giống như những cơ sở chính quyền của Việt Cộng.
Tại Saigon, Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu tuyên bố một cách hãnh diện rằng khi "quân giải phóng" vào Đà Nẵng, chỉ còn một lá cờ duy nhất được tung bay trên thành phố này mà thôi, đó là lá cờ của Lực Lượng Hòa Giải của Phật Giáo !
Nhưng sau khi làm chủ được tình hình, Việt Cộng dẹp tất cả các Ban Lãnh Đạo Cách Mạng ở các chùa và thay thế bằng các Ủy Ban Quân Quản của họ.
2.- Mừng "giải phóng" tại Saigon.
Như đã trình bày ở trên, ngày 30.4.1975, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã cùng Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại Học Vạn Hạnh ra Ngã Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng"
Sau khi Việt Cộng nắm quyền tại miền Nam Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang lập Ủy Ban Tổ Chức Mừng Chiến Thắng do Thượng Tọa Thích Mãn Giác, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Viện Hóa Đạo làm Chủ Tịch. Ủy Ban này đã huy động Phật tử tổ chức lễ "mừng giải phóng" ngày 15.5.1975 và lễ mừng sinh nhật "Bác Hồ" ngày 19.5.1975. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu có ghi lại như sau :
"Ngày 30.4.1974 là ngày cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những bộ mặt thân Cộng Sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân Cộng Sản từ rừng về Saigon, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19.5.1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí minh tại chùa Ấn Quang.
- Hiệp Thương Chính Trị thống nhất hai miền Nam Bắc của Cộng Sản, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài tham luận, nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và đả kích Nha Tuyên úy Phật Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu".
Những tài liệu của Việt Cộng cho biết số Tăng, Ni tham dự ngày mừng "giải phóng" lên đến 900 người.
Sau đây là một đoạn trong bài diễn văn mừng "giải phóng" do Thượng Tọa Thích Mãn Giác đọc ngày 15.5.1975 :
"Trong những năm dài sống dưới ách nô lệ thực dân mới, Phật Giáo chỉ nuôi một ước vọng sâu kín : độc lập và thống nhất. Vì nguyện vọng cũng là ý chí thống nhất ấy, mà biết bao nhiêu thế hệ Phật tử đã lao mình vào đấu tranh chống lại kẻ thù gây chia rẽ. Hết thực dân Pháp chia rẽ Bắc Kỳ, đến đế quốc Mỹ chia rẽ Nam Bắc. ...
"Ngày nay, ước vọng đó đã hiện thực. Hiện thực ấy ngày càng rõ nét trong đời sống dân tộc, làm vang vọng lời xác quyết của Hồ Chủ Tịch "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi" ... Bác Hồ kính yêu đã thay lời tổ tiên nói lên... "
"Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh vì CHỦ NGHĨA XÃ HỘI..."(10)
Sau khi Giáo Hội Ấn Quang bị Việt Cộng tấn công, một số tăng sĩ bị bắt giữ, Hòa Thượng Thích Mãn Giác đã vượt biên và được đến định cư tại Hoa Kỳ. Trong một đại hội của Phật Giáo tại Seattle ngày 29.8.1980, bị đồng bào chất vấn, Hòa Thượng Thích Mãn Giác đã xác nhận ông có đọc bài diễn văn đó và nhìn nhận sự lầm lẫn của ông. Hòa Thượng Thích Mãn Giác đang trụ trì tại chùa Phật Giáo Việt Nam, Los Angeles, California.

VII - THÀNH LẬP CÁC TỔ CHỨC PHẬT GIÁO QUỐC DOANH ĐỂ LÀM CÔNG CỤ PHẬT GIÁO VẬN CHO VIỆT CỘNG

Tại miền Bắc cũng như miền Nam, sau khi Việt Cộng chiếm được chính quyền, đa số các tăng sĩ cao cấp của Phật Giáo đã hợp tác với nhà cầm quyền Cộng Sản thành lập các tổ chức Phật Giáo quốc doanh để làm công cụ Phật Giáo vận cho chế độ.
1 - Lập Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại miền Bắc
Sau Hiệp Định Genève 1954, Việt Cộng chiếm được miền Bắc Việt Nam một năm thì Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời. Hội này do Hòa Thượng Thích Trí Độ thành lập và làm Hội Trưởng. Đây là một hội quốc doanh, đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, quy tụ tất cả hàng giáo của Phật Giáo ở miền Bắc. Năm 1979, Hòa Thượng Thích Trí Độ qua đời, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (ở Bắc) nắm chức Quyền Hội Trưởng. Hội này tồn tại đến tháng 11 năm 1981 thì sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
2.- Lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh
Các cao tăng trong Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã góp phần tích cực vào việc thành lập Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh đặt dưới quyền chỉ đạo của Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc.
Năm 1980, Ủy Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo được thành lập, Thượng Tọa Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Phật Giáo Ấn Quang làm Trưởng Ban, còn Hòa Thượng Đôn Hậu, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, làm Cố Vấn.
Ngày 4.11.1981, Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam đã được triệu tập tại chùa Quán Sứ Hà Nội. Theo Nhật Báo Nhân Dân ngày 5.11.1981, "dự hội nghị có 164 đại biểu các tố chức, giáo hội, hệ phái : Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (miền Bắc), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn Quang), Giáo Hội Phật Giáo Cổ truyền Việt Nam, Ban Liên Lạc Phật Giáo Yêu Nước Thành Phố Hồ Chí Minh ... "
Nhật báo Nhân Dân ngày 8.11.1981 cho biết sau 4 ngày làm việc tại chùa Quán Sứ Hà Nội, hôm 7.11.1981, hội nghị đã kết thúc "tốt đẹp", thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thông qua Hiến Chương và đại cương chương trình hoạt động, giới thiệu và suy tôn Hội Đồng Chứng Minh do Hòa Thượng Thích Đức Nhuận (quốc doanh miền Bắc) làm Pháp Chủ. Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (Ấn Quang) được bầu làm Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh, giới thiệu và cử Hội Đồng Trị Sự do Hoà Thượng Thích Trí Thủ (Ấn Quang) làm Chủ Tịch.
Tờ báo trên cũng cho biết, trong buổi bế mạc, Hội Nghị đã thông qua thư gởi Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Trường Chinh, báo cáo thành công của hội nghị và cam kết tiếp tục thực hiện truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết với cộng đồng dân tộc. Bức thư nêu rõ :
"Suốt ba mươi năm chống Pháp, chống Mỹ, nhiều chùa là cơ sở của cách mạng (kể cả Đại Học Vạn Hạnh Sai gon!) nhiều tăng ni tạm thời rời bỏ Thiền môn, hăng hái tòng quân đánh giặc cứu nước. Bác Hồ dạy: "Không gì quý hơn độc lập tự do!", đoàn thể tăng ni và Phật tử Việt Nam ghi lòng tạc dạ lời dạy đó của Bác, nhận thức rõ lý tưởng giải thoát của người tu hành không thể tách rời sự nghiệp giải phóng dân tộc, do Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. "
Bức thư còn hứa :
"Chúng tôi, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, xin long trọng hứa với Trung ương Đảng và Hội Đồng Nhà Nước, cũng như với Chủ Tịch rằng : Phật Giáo Việt Nam luôn luôn đoàn kết chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân trong đại gia đình Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, hoạt động tích cực trong khuôn khổ Hiến pháp và luật pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, luôn luôn xứng đáng là một thành viên đáng tin cậy của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc."
Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự đã qua đời năm 1984. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự thay thế Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh trước đây đã đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng Phái Đoàn Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Tăng Sư và Chánh Thư ký Viện Tăng Thống và Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.
Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi cho nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Huyền Quang đã phải nhìn nhận :
"Chúng tôi nhận thấy thành phần Lãnh đạo Giáo Hội Nhà Nước, hầu hết là các vị Giáo phẩm cao cấp của Giáo Hội Thống Nhất (tức Ấn Quang). Vì nhiều lý do : đa phần là nhu nhược, bị ép buộc tham gia. Đã bỏ Giáo hội chúng tôi ra đi với tư cách cá nhân, không có một lời từ nhiệm."
BIỆN MINH CHO SỰ HỢP TÁC VỚI CỘNG SẢN VIỆT NAM
Như vậy sự yểm trợ của nhóm Phật Giáo Miền Trung trong tông phái Ấn Quang cho Việt Cộng trong việc làm sụp đổ các chế độ Cộng Hòa miền Nam Việt Nam và cuối cùng là toàn bộ miền Nam Việt Nam không phải là một sự vu khống hay chụp mũ như nhóm Bông Sen đã tố cáo. Đó là một sự thật với những bằng chứng cụ thể và đã được các nhà lãnh đạo cao cấp của tông phái Phật Giáo Ấn Quang nhìn nhận. Hòa Thượng Thích Huyền Quang xác nhận một lần nữa sự kiện này trong Thông Bạch số 16/VPLV-VHĐ, viết tại Quảng Ngãi ngày 20.9.1993 :
"Gần đây, trong hai cuộc kháng chiến dành Độc Lập, từ năm 1945 đến 1975, trong hoàn cảnh khó khăn, Phật Giáo chúng ta rất tự hào đã cùng một lúc làm hai việc: một mặt nỗ lực xây dựng phong trào chấn hưng Phật Giáo, mặt khác cùng toàn dân góp phần xương máu dành Độc Lập cho Tổ Quốc. Thế nhưng sau khi đất nước được Hòa Bình, thống nhứt, những người Cộng Sản khi nắm quyền cai trị đất nước đã phủ nhận công lao xương máu của toàn dân trong đó có Phật Giáo, đã đối xử với chúng ta một cách ngang ngược thô bạo, bằng hành động xóa bỏ, lật đổ GHPGVNTN Ấn Quang để lập ra một Giáo Hội mới mang danh hiệu tương tự cuối năm 1981"(11)
Các nhà nghiên cứu và phân tích của Phật Giáo đang cố gắng biện minh cho sự hợp tác này. Trong bài "Bản chất dung hòa và hóa giải dân tộc của Phật Giáo" Nguyễn Điều viết :
"Phật Giáo Việt Nam trung hậu với dân tộc đến độ một nhà lãnh đạo Phật Giáo đã nói : "Khi hoàn cảnh lịch sử đẩy dân tộc vào con đường đấu tranh mù quáng chống ngoại bang, Phật giáo cam chịu mang tiếng mù quáng theo, nhưng quyết không đứng về phía ngoại bang chống lại dân tộc... !"(12)
Phạm Quang Độ, trong bài "Phật Giáo và Chính Quyền" cũng đã đưa ra một lập luận tương tự :
"Trong thời kháng chiến chống Pháp, PGVN đã tham gia trọn vẹn, hàng hàng lớp lớp tăng sĩ trẻ tuổi cởi áo cà sa mặc chiến bào và riêng tăng ni tham gia kháng chiến đã có hơn 400 người hy sinh tại khắp các mặt trận. Và PGVN đã hy sinh tất cả những gì của riêng mình để hiến dâng tất cả, trọn vẹn cho dân tộc."
Ngay từ trước năm 1945, Cao Đài Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo và Thiên Chúa Giáo đã nhận ra rằng Cộng Sản Việt Nam chỉ là tay sai của Cộng Sản Quốc Tế, dùng súng của Cộng Sản Nga và Cộng Sản Tàu để đưa dân tộc Việt Nam vào quỹ đạo của Cộng Sản Quốc Tế, theo đuổi một chủ nghĩa phi nhân bản, phản lại quyền lợi của dân tộc nên không hợp tác, thì nhóm An Nam Phật Học ở Huế đã đi theo Cộng Sản Việt Nam tranh đấu cho chủ nghĩa phi nhân bản và phản lại dân tộc này. Sự hợp tác đó không phải là thỏa hiệp với ngoại bang và những kẻ phản lại dân tộc sao ?
Trong bài "Từ nhãn thị chúng sanh", Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã lý giải một cách bình tĩnh hơn :
"Phật Giáo từ trước và sau 1975 đều phải đối phó với tình trạng chia rẽ trong nội bộ. Trước 1975, các nỗ lực chính thức của Giáo Hội đều nhằm hòa giải (?) cuộc nội chiến, trong bản chất vốn là cuộc chiến ủy nhiệm vì quyền lợi của hai khối ý thức hệ trên thế giới, nhưng đã gặp thất bại"
"Do hoàn cảnh lịch sử, những tiếng nói của lương tâm dân tộc đều bị cả hai phe áp đảo. Bên cạnh tiếng nói chính thức phủ nhận cuộc nội chiến đó, một số đơn vị nhỏ Phật Giáo tham dự vào cuộc chiến ở cả hai bên, nhưng không lên tiếng cổ vũ chiến tranh vì điều này trái với giáo lý, nhưng đều có hỗ trợ tinh thần - không tuyên úy thì cũng cầu an, cầu siêu; tất cả đều là phương tiện để đem lời giải thoát, tâm bình an cho chúng sinh. Tuy nhiên như vậy cũng vẫn đào thêm hố sâu ngăn cách vốn đã có của chính trị. Khoảng cách giữa Giáo Hội và những vị tham dự chiến tranh, cùng lúc với khoảng cách giữa những vị bước vào cuộc chiến. Là một Phật tử giai đoạn này, ta phải đứng về phe nào? Trước mặt là Mỹ, sau lưng là cộng sản, và cả khối dân tộc không phải chỉ chia đôi mà thực sự là chia năm xẻ bảy (kể cả Phật Giáo). Phe nào thực sự có lợi cho dân tộc?"
Các tài liệu chúng tôi đã đưa ra, cho thấy trong cuộc chiến một số giáo phẩm trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang như Thích Trí Độ, Thích Minh Châu, Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh đã đứng hẳn về phe Cộng Sản và ngụy hòa để giúp Cộng Sản chiến thắng chớ không có "hòa giải" gì cả.
Câu trả lời cho vấn nạn mà Nguyên Giác Phan Tấn Hải đưa ra có lẽ cũng rất đơn giản. Tục ngữ của người Anh có câu : "Of two evils choose the less" (trong hai cái xấu hãy chọn cái ít xấu hơn). Còn người Việt bảo "Đầu gà hơn đuôi trâu". Cao Đài Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, Thiên Chúa Giáo, các đảng phái quốc gia và đa số tăng ni, Phật tử Việt Nam đã chọn "đầu gà" từ năm 1945. Chỉ một số tăng sĩ Phật Giáo Ấn Quang đã chọn "đuôi trâu", góp phần kéo dài cuộc chiến tang thương 30 năm và cuối cùng biến Việt Nam trở thành một nước nghèo nhất thế giới, không dân chủ và nhân quyền !
***
Nhìn chung, chúng ta nhận thấy khi quyết định hợp tác với Cộng Sản, các nhà lãnh đạo Phật Giáo miền Trung đã có những tính toán lầm lẫn sau đây :
Lầm lẫn thứ nhất là tưởng rằng có thể dung hợp Phật Giáo với chủ nghĩa Cộng Sản. Mới tiếp xúc với chính quyền Cộng Sản, Bác Sĩ Lê Đình Thám đã cho thành lập ngay một tổ chức có tên là Phật Giáo và Dân Chủ Mới ở Bồng Sơn, Bình Định, nơi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ, để nghiên cứu tổng hợp chủ nghĩa Mác-Lênin và Phật Giáo. Sau đó, Nguyễn Hữu Quán đã cho ra cuốn Đạo Phật và Nền Dân Chủ Mới để khuyến dụ tăng ni và Phật tử hợp tác với Cộng Sản. Điều này chứng tỏ các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo thời đó không am hiểu nhiều về chủ nghĩa cộng sản và quan niệm của Cộng Sản về tôn giáo. Cuối cùng, đa số đành chấp nhận quan điểm "Phật Giáo dưới ánh sáng Mác-Lê" mà Thượng Tọa Thích Minh Châu đang thuyết giảng để biến Phật Giáo thành công cụ của Cộng Sản.
Lầm lẫn thứ hai là không biết gì về phương pháp và thủ đoạn của Cộng Sản nên bị Cộng Sản lừa rồi vắt chanh bỏ vỏ. Số phận mà Bác Sĩ Lê Đình Thám, Hòa Thượng Thích Thiện Chiếu, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thượng Tọa Thích Mật Thể, Thượng Tọa Thích Hiền Minh, Thượng Tọa Thích Quảng Độ ... phải lãnh nhận chính là do hậu quả của sự lầm lẫn này.
Lầm lẫn thứ ba của riêng nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung là tưởng rằng có thể mượn bàn tay Cộng Sản để loại trừ Thiên Chúa Giáo, tách Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra khỏi Tòa Thánh La Mã rồi diệt dần, sau đó sẽ cùng Cộng Sản chiếm địa vị độc tôn. Nhóm Lý Khôi Việt và các nhóm đứng sau lưng Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn, Chu Văn Trình ... đã nỗ lực một cách vô vọng trong chủ trương đó. Cái mà Cộng Sản không làm nổi thì nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung không bao giờ làm được.
Lầm lẫn thứ tư là tin tưởng sau khi Cộng Sản cướp được chính quyền, Giáo Hội Ấn Quang sẽ được ưu đãi, nên đã coi chiến thắng của Cộng Sản như của chính mình, nhưng cuối cùng họ đã phải lãnh nhận tai họa. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ trình bày trong cuộc thánh chiến thứ tư ở Chương IV.

Ghi Chú Chương II :
1. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tập I, nhà xuất bản sách Giáo Khoa Mác-Lênin, tr. 317 - 360.
2. Hồ Chí Minh Toàn Tập, tr. 408 - 409.
3. Tạp chí Quê Mẹ, số 125 & 126 tháng 10 & 11.1993, tr.70.
4. Hoàng Xuân Hào, Phật Giáo và Chính Trị tại Việt Nam Ngày Nay, 1972, tr. 171 & 178.
5. Hoa Sen số 20 tháng 11 năm 1993, tr. 15 - 19.
6. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập III, Lá Bối 1985. tr.188, 205, 206.
7. Hòa Thượng Thích Mẫn Giác, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam, 1980, tr. 85 - 86.
8. Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, Hill & Wang, NY, 1967.
9. Quê Mẹ 125 & 126 tháng 10 & 11.1993, trang 17 và 18.
10. Báo Chấn Hưng số 6 ngày 20.5.1986, Ủy Ban Vận Động Chấn Hưng Tổ Chức Phật Giáo Việt Nam
11. Giao Điểm số 10 ngày 15.10.1992, xuất bản ở Orange County.
12. Bông Sen số 3 tháng 12 năm 1991.
13. Bông Sen số 17 tháng 9 & 10 năm 1993.
14. Phan Tấn Hải, Từ nhãn thị chúng sanh, Giao Điểm số 10, ngày 15.10.1992, tr. 5 - 7.

Chương III

Tương quan giữa Công Giáo, Cao Đài và Phật Giáo HH

Lịch sử cho thấy ba tôn giáo tại Việt Nam chống Cộng Sản mạnh mẽ nhất là Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của ba tôn giáo này đã tham gia Mặt Trận Việt Minh với tư cách cá nhân vì lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm. Nhưng khi nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đa số đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh.
Tại sao Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không gia nhập Mặt Trận Việt Minh ?
Trước hết, Mặt Trận Việt Minh chỉ là mặt nổi của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Các nhà lãnh đạo ba tôn giáo nói trên đều nhận thức rằng chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáo. Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo để chống xâm lăng, Cộng Sản chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôi. Cuối cùng, Cộng Sản cũng thanh toán tôn giáo. Karl Marx đã từng nhận định :
"Tôn giáo là hơi thờ của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng."
Sau đó Karl Marx tuyên bố :
"Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đòi hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân."
Nói một cách khác, Karl Marx cho rằng tôn giáo chỉ là một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi mới có thể đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Trong khi đó, tín đồ của các tôn giáo đều tin rằng tôn giáo là con đường giải thoát của nhân loại. Bauldelaire đã nói :
"Dù không có Thượng Đế đi nữa, tôn giáo vẫn thánh thiện và thần thánh."
Ngoài sự bất dung hợp giữa tôn giáo với chủ nghĩa cộng sản, sự tráo trở và phản bội của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã làm cho Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo dứt khoát với Việt Cộng.
Sau khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền tháng 8 năm 1945, tình hình trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ vì cho rằng Việt Minh đã cướp công của họ, bên ngoài Pháp bắt đầu mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong tình thế này, Hồ Chí Minh đã giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1.1.1946, Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời với các đảng phái quốc gia, dành cho các đảng phái quốc gia 5 ghế :
- Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính) : Bộ Trưởng Ngoại Giao.
- Huỳnh Thúc Kháng : Bộ Trưởng Nội Vụ.
- Trần Đình Chi (Việt Cách) : Bộ Trưởng Xã Hội và Y Tế.
- Bồ Xuân Luật (Việt Cách) : Bộ Trưởng Canh Nông.
- Chu Bá Phượng (Việt Quốc) : Bộ Trưởng Kinh Tế.
Ngoài ra, Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) được giữ chức Phó Chủ Tịch, còn Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) giữ chức đồng ủy Viên Quốc Phòng với Võ Nguyên Giáp. Nhưng trong thực tế, công an và bộ đội đều nằm trong tay Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Ngày 6.3.1946, Hồ Chí Minh ký thỏa ước sơ bộ với Pháp để làm kế hoãn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, Hồ Chí Minh quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo. Hai vụ tàn sát có quy mô nhất là hai vụ sau đây :
Vụ thứ nhất xẩy ra vào đêm 27.6.1946. Để cho các đảng phái và các tôn giáo không nghi ngờ và đề phòng, ngày 7.5.1946 Hồ Chí Minh cho lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam và kêu gọi các tôn giáo và các đảng phái quốc gia tham gia để chống Pháp. Bất thần, trong đêm 27.6.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái quốc gia được xếp vào loại "phản động" trên toàn quốc, giết hoặc đem đi thủ tiêu các lãnh tụ và cán bộ của các tổ chức này. Con số bị giết tại chỗ hoặc bị thủ tiêu lên đến khoảng 50.000 người. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoa.
Vụ tàn sát thứ hai xẩy ra vào đêm 19.12.1946 còn khốc liệt hơn. Ngày 18.12.1946, Bộ Tư Lệnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của Việt Minh tại Hà Nội. Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung về bố trí nhiều nơi, tình hình trở nên nghiêm trọng. Bộ Tư Lệnh Pháp liền ra mật lệnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần các trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự Vệ. Vào khoảng 20 giờ ngày 19.12.1946, Hồ Chí Minh ra lệnh cho nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công các đồn của Pháp vừa lùng bắt các lãnh tụ và cán bộ của các đảng phái và tôn giáo. Số người bị giết lần này còn cao hơn lần trước. Nhà cách mạng Trương Tử Anh đã bị giết trong đợt tấn công này. Cuộc tấn công cũng được mở rộng cùng một lúc trên toàn quốc.
Sau hai vụ đó, đa số các sĩ phu và tín đồ Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo đã từ bỏ Mặt Trận Việt Minh và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Nhưng các tăng sĩ Phật Giáo vẫn còn tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội Phật Giáo Cứu Quốc như chúng tôi đã trình bày ở Chương II.
Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, Hồ Chí Minh quay lại ve vãn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp từ 15 - 17.1.1948, có ghi rõ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau :
"Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những hình thức tổ chức thấp như "hội cầu nguyện cho các chiến sĩ", "hội cầu nguyện cho nước độc lập", v.v. Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậy."
"Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạo. Vạch cho giáo dân thấy rõ kháng chiến thì sống, khuất phục thì chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ý không đụng chạm đến tôn giáo tín ngưỡng của giáo dân.
"Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhau. Chú ý lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên - Việt, "Hội ủng hộ kháng chiến". Đối với những phần tử phản động, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động quấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc."(2)
Nhưng sau khi cướp được chính quyền rồi, Đảng Cộng Sản Việt Nam trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáo. Hà Nội đã gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn Chủ Nghĩa Vô Thần Khoa Học do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáo.
Vì thế, Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo không đứng chung hàng ngũ với Cộng Sản.
TƯƠNG QUAN GIỮA CÔNG GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM
XÁC ĐỊNH DANH TỪ
Trước khi nói về tương quan giữa Công Giáo và Cộng Sản Việt Nam, chúng tôi nhận thấy cần phải xác định ngay một vài danh từ để tránh ngộ nhận.
Tại sao không gọi là Thiên Chúa Giáo mà gọi là Công Giáo ?
Lục soát trong các cuốn tự điển cũng như niên giám bằng ngoại ngữ trên thế giới hiện nay chúng ta không thấy có tôn giáo nào có tên là "Thiên Chúa Giáo" hay "đạo Thiên Chúa". Những người theo đạo Chúa Jesus Christ được gọi là Chrétien (Pháp) hay Christian (Anh).
Chữ Christus (Latin), Le Christ (Pháp) hay Jesus Christ (Anh), nghĩa là Chúa Cứu Thế hay Chúa Giêsu thành Nazareth. Chữ Christus trong tiếng Latin được người Tàu phiên âm ra chữ Hán là 耶穌. Nếu đọc đúng giọng Tàu là Ki-tô, nhưng nếu đọc theo lối Hán Việt thì thành Gia-Tô. Cũng vậy, chữ Buddha khi phiên âm ra chữ Hán là 佛陀 người Tàu vẫn đọc là Bu-đa, nhưng người Việt đọc thành Phật Đà. Ngày nay, người Công Giáo phiên âm thẳng từ tiếng Latin, không qua lối Hán Việt, nên gọi là Ki-tô.
Đạo Chúa Ki-tô chia ra nhiều chi nhánh: Roman Catholics (Công Giáo La Mã), Protestants (Tin Lành), Orthodox (Chính Thống), v.v.. Không có chi nhánh nào gọi là "Thiên Chúa Giáo" hay "Đạo Thiên Chúa".
Giáo Hội La Mã được người Việt Nam gọi là Giáo Hội Công Giáo, vì dịch ở chữ Ecclesia Catholica trong tiếng Latin. Nhiều người lầm tưởng rằng "công giáo" là đạo nhà nước hay quốc giáo. Sự thật chữ Catholic gốc tiếng Hy Lạp là Katholikos, có nghĩa là hoàn toàn, tất cả và tiếng Latin là Catholicus, có nghĩa là phổ biến (universal), chung (general). Chữ Ecclesia Catholica trước tiên lấy trong Kinh Tin Kính do các Tông Đồ của Chúa Giêsu đặt ra trước khi lên đường đi rao giảng tin mừng để có sự thống nhất về các điều buộc phải tin mới được chịu phép rửa. Trong kinh này có câu : "Credo in Spiritum Sanctum, Santam Ecelesiam Catholicam ... "(I believe in the Holy Spirit, the Holy Catholic Church), có nghĩa là "Tôi tin Đức Chúa Thánh Thần, tin có một Giáo Hội Thánh thiện và Công Giáo (hay phổ biến)". Kinh Tin Kính này được gọi là Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostles Creed).
Năm 325, một Đại Công Đồng (Great Council) đã được tổ chức tại thành Nicaea từ ngày 20.5.325, gồm tất cả các Giám Mục trên thế giới. Sau hơn một tháng thảo luận, Đại Công Đồng đã đưa ra một Kinh Tin Kính thứ hai, gọi là Kinh Tin Kính Công Đồng Nicaea (Nicene Creed), trong đó có câu : "Et unam, sanctam, catholicam et apostolicam Ecclesiam" (We believe in one, holy, catholic and apostolic Church), có nghĩa là "Chúng tôi tin có một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền ". Kinh Tin Kính này được đọc hàng ngày trong thánh lễ của Giáo Hội Công Giáo.
Nguồn gốc của chữ Ecclelica Catholica phát xuất từ hai Kinh Tin Kính này và có nghĩa là một Giáo Hội phổ biến (universal), một Giáo Hội chung (general) cho mọi người (chứ không phải chỉ là đạo dân tộc). Sở dĩ các linh mục thừa sai đã dịch chữ "Catholicus" là "Công Giáo" vì trong chữ Hán chữ CÔNG có nghĩa là "việc chung", "mọi người" (xem Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh). Dùng chữ CÔNG để dịch chữ Catholicus trong tiếng Latin vừa sát nghĩa, vừa vắn gọn, và chữ Ecclesia Catholica đã được dịch là Giáo Hội Công Giáo. Nếu dùng chữ "Thiên Chúa Giáo", khi dịch ra tiếng Latin, tiếng Anh hay tiếng Pháp, không có chữ tương đương. Tuy nhiên, những người Việt Nam ngoài Công Giáo quen dùng chữ "Thiên Chúa Giáo" để chỉ những người theo đạo Chúa Giêsu Kitô, nên một đôi khi chúng tôi cũng tạm dùng theo thói quen này.
LÝ DO NGƯỜI CÔNG GIÁO KHÔNG THEO CỘNG SẢN
1 - Giáo Hội Công Giáo đã lên án chủ nghĩa vô thần
Giáo Hội Công Giáo đã ban hành rất nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặc biệt là Thông Điệp Divini Redemtoris 19.3.1937 của Đức Giáo Hoàng Pio XI. Trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Giáo Hội Công Giáo xác định lại một lần nữa :
"Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Giáo Hội không thể không tiếp tục phi bác với nỗi đau buồn và với tất cả sự cương quyết, như đã từng phi bác, những chủ thuyết vô thần và những hành động nguy hại đi ngược lại lý tính và kinh nghiệm chung của con người cũng như làm cho con người mất đi sự cao cả bẩm sinh của mình. "
Hồ Chí Minh đã thấy rõ điều đó. Trong văn thư ngày 2.3.1947 phúc đáp thư đề ngày 17.2.1947 của Đức Giám Mục Lê Hữu Từ khiếu nại việc Việt Cộng bắt giam các tự vệ Công Giáo, Hồ Chí Minh đã viết :
"Tôi có nhận được một ít tài liệu. Sau khi nghiên cứu kỹ, thì thấy rõ ba điều :
1. Đồng bào công záo rất ghét thực zân Fáp, rất yêu nước.
2. Đồng bào công záo ghét cộng sản.
3. Một số đồng bào công záo nhẹ zạ, vì vậy có người đã lợi dụng chỗ đó mà gây mối chia rẽ. Bọn này nói : chính phủ là Việt Minh, Việt Minh là cộng sản.
" Điểm 1, chúng ta sẵn biết, không cần bàn.
Điểm 2, lý thuyết Zuy Thần và học thuyết Zuy Vật không hợp nhau, là lẽ tất nhiên... "(3)
Hồ Chí Minh không biết gì về ngữ học, đã nhiều lần cổ võ lối viết Việt ngữ như trên để biến dần di sản quốc ngữ mà các linh mục thừa sai đã hình thành, nhưng không ai hưởng ứng. Đây cũng là một nỗ lực chống Công Giáo của Hồ Chí Minh.

2.- Bộ Giáo Luật cấm người Công Giáo tham gia các hội bị Giáo Hội lên án
Bộ Giáo luật của Giáo Hội La Mã ban hành năm 1917 cấm giáo sĩ và giáo dân không được tham gia các hội kín, các hội đáng nghi ngờ, các tổ chức phiến loạn đã bị Giáo Hội lên án. Cũng không được tham gia vào các hội cố ý tách khỏi quyền kiểm soát của Giáo Hội (điều 684). Các giáo dân không được kết hôn với những người đã gia nhập vào các hội vô thần (điều 1060 và 1240). Điều 1374 của Bộ Giáo Luật năm 1983 dự liệu một cách tổng quát hơn, cấm người Công Giáo không được gia nhập vào các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội. Ai gia nhập sẽ bị phạt xứng đáng. Ai cổ động hay điều khiển các hội đó sẽ bị phạt cấm chỉ (không cho phép lãnh nhận bí tích Thánh Thể).
Trong Thư Luân Lưu số 34 ngày 10.10.1948, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã nhắc nhở người Công Giáo không được vi phạm các điều luật vừa kể. Ngày 9.11.1951, Hội Đồng Giám Mục Đông Dương đã dựa vào tinh thần của Thông Điệp Divini Redemtoris nói trên, cho phổ biến một Thư Chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ chức của Cộng Sản. Với những sự quy định chặt chẽ như vậy, ít người Công Giáo nào dám gia nhập hay đi theo Đảng Cộng Sản Việt Nam
3.- Hồ Chí Minh đã khai chiến với Công Giáo khi còn lưu vong chống Pháp
Trong thời kỳ lưu vong chống Pháp, Hồ Chí Minh đã viết vô số bài vu khống và mạ lỵ Thiên Chúa Giáo. Các tài liệu này đã được đăng lại trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập do nhà xuất bản Sự Thật ở Hà Nội ấn hành. Những luận điệu mà Hồ Chí Minh đã đưa ra để phi bác Công Giáo đang được nhóm nấp sau lưng Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn và Lý Khôi Việt lặp lại.
Vì những lý do trên, giáo sĩ và giáo dân Công Giáo Việt Nam tẩy chay các tổ chức của Việt Cộng.
NHỮNG NỖ LỰC ĐÀN ÁP CÔNG GIÁO CỦA VIỆT CỘNG
a) Khởi đầu bằng chính sách ve vãn Công Giáo
Như chúng tôi đã nói ở trên, khi mới cướp được chính quyền, Việt Minh bị đánh phá tứ phía nên Hồ Chí Minh đã ve vãn các tôn giáo để sống còn. Ông vuốt ve cả Phật Giáo lẫn Công Giáo.
Khi tình hình Công Giáo miền Bắc đang gặp khó khăn thì ngày 1.10.1945, Linh Mục Lê Hữu Từ được Tòa Thánh La Mã cử đến nhận chức Giám Mục Giáo Phận Phát Diệm. Ngày 29.10.1945, ngài được tấn phong tại đây. Nhân dịp này Hồ Chí Minh đã gởi một phái đoàn chính phủ tới tham dự và một thư chúc mừng :
"Thưa Ngài,
Mừng Ngài vì cuộc tấn phong này đã chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngài.
Mừng đồng bào Công Giáo, vì từ nay các bạn đã được một vị lãnh đạo rất xứng đáng.
Đồng thời mừng cho nước ta vì tôi chắc rằng Ngài sẽ lãnh đạo đồng bào Công Giáo noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ gìn quyền Tự Do và Độc Lập của nước nhà.
Kính chúc Ngài được luôn luôn an mạnh"(4)
Mặc dầu có những lời ve vãn và chúc tụng của Hồ Chí Minh, Đức Giám Mục Lê Hữu Từ hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với tình thế mới. Ngài cho lập ngay những cơ cấu mới, trong đó có cả Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam và Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Phạm Văn Đồng đã phải về ở Phát Diệm một tuần để nghiên cứu theo dõi và xoa dịu tình hình. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đó đã ký Nghị Định số 52/BNV ngày 6.4.1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức Liên Đoàn lan rộng một cách nhanh chóng trên toàn quốc.
Ngày 25.1.1946, nhân lễ bế mạc tuần Tĩnh Tâm của Giáo phận Phát Diệm, Hồ Chí Minh xuất hiện, ra đứng trước đồng bào Công Giáo và hô to: "Đức Chúa muôn năm!" Sau đó Hồ Chí Minh tuyên bố mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ.
Trong "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 26.5.1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã viết:
"Cụ Hồ lãnh đạo Kháng Chiến chống Pháp, nhưng mỗi lần lễ Noel đến, cụ Hồ không quên gởi Thông điệp chúc mừng Noel, thân thiện với Thiên Chúa Giáo. Năm rồi Đài Phát Thanh Hà Nội có dành hai giờ văn nghệ, để cúng dường Giáng Sinh. Trong lúc đó, lễ Phật đản chúng tôi, không được nhà nước nói đến một lời nào mà còn làm khó dễ đủ thứ trong việc tổ chức lễ Phật đản. Tôi nghĩ, và có lẽ tôi nghĩ không sai: Ai mạnh thì Nhà nước coi trọng, ai yếu thì nhà nước xem khinh..."
Đọc qua đoạn này, người ta thấy rằng Hòa Thượng Huyền Quang đã viết lá đơn nói trên trong tình trạng mất bình tĩnh và có tinh thần bài bác Thiên Chúa Giáo. Sự thật, như chúng tôi đã trình bày ở Chương II, mỗi lần lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng Bảy, Hồ Chí Minh đều có gởi Thông Điệp chúc mừng đến các tín đồ liên hệ. Chúng tôi đã trích một phần thông điệp đề ngày 15 tháng 7 âm lịch năm Bính Tuất (tức 11.8.1946) của Hồ Chí Minh gởi Hội Phật Tử Việt Nam ở Chương II để chứng minh điều đó.
Về phía Công Giáo, Hồ Chí Minh cũng làm tương tự như thế. Vào dịp lễ Giáng Sinh, Hồ Chí Minh cũng đã gởi đến đồng bào Công Giáo những Thông Điệp với giọng điệu như đã viết cho Phật tử. Sau đây là một đoạn trong Thông Điệp ngày 24.12.1946 gởi đồng bào nhân ngày lễ Giáng Sinh :
"Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng.
"Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu..."
Hồ Chí Minh còn đi xa hơn nữa trong trò ảo thuật ve vãn Công Giáo. Cuối năm 1947, Hồ Chí Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào Công Giáo Phát Diệm và Bùi Chu không chịu tuân hành. Ngày 20. 12. 1947, Hồ Chí Minh về huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và mời Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đến dùng cơm trưa với ông và các Bộ Trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, Hồ Chí Minh đã xin chịu phép rửa tội! Đức Giám Mục Hữu Từ kể lại như sau :
"Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẵn hai cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên nhau, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói : "Xin cụ làm Báptêm (Rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa.
" Nghe thế tôi phải hết sức cầm mình ở bình tĩnh cho khỏi phát cười và nói: "Thật là vô cùng quý giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng vì là việc rất can hệ, phải phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự bị trước, nên để sau sẽ tính."(6)
b) Đàn áp Công Giáo từ 1946 - 1954
Bên ngoài Hồ Chí Minh ve vãn Công Giáo như trên, nhưng bên trong Hồ Chí Minh chuẩn bị để thanh toán. Hồ Chí Minh biết Công Giáo và Cộng Sản không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27.6.1946 nói trên, Việt Minh bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần Công giáo hoạt động tích cực cho các tổ chức Công Giáo tại mỗi địa phương.
Trên toàn quốc, có ba vùng có đông giáo dân tập trung được Việt Minh chú ý là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định 117 giáo xứ) và Ninh Bình (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc Giáo Phận Vinh, nắm trong vùng kiểm soát của Việt Minh nên không thể võ trang tự vệ được. Các giáo xứ chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho Việt Minh chi phối vào các hoạt động của giáo phận và các giáo xứ. Giáo Phận Bùi Chu ở Nam Định và Giáo Phận Phát Diệm ở Ninh Bình nằm trong vùng tranh chấp giữa hai bên nên Hồ Chí Minh tìm cách lôi kéo hai giáo phận này đi theo Việt Minh. Cả hai Giáo Phận đã phải đối phó một cách khôn khéo để sống còn. Khi không còn thuyết phục được, Hồ Chí Minh cho lệnh tấn công.
Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1946, Việt Minh cho mở các cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc Giáo Phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân "vây bắt côn đồ". Cuộc hành quân này đã mang đi khoảng 5.000 người, cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt được đưa về giam ở Huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùn ở Thanh Hóa, trong số người bị giam có Linh mục Trần Đức Lại, chánh xứ Nam Biên. Hồ Chí Minh cũng đã cho phục kích mưu sát "Đức Cha Cố Vấn" ba lần, nhưng Ngài đều thoát nạn.
Trước tình trạng này, đồng bào Công Giáo ở hai Giáo Phận Bùi Chu và Phát Diệm không thể làm cách nào khác hơn là thành lập các tổ chức tự vệ. Các tổ chức tự vệ này được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng Bộ Chỉ Huy Tự Vệ Bùi Chu - Phát Diệm do ông Bùi Công Nga làm Chủ Tịch.
Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của Giáo Phận. Đa số giáo dân tập trung ở Huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đỡ của tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xã, 32 giáo xứ gồm các tổng Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150.000 người. Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc phòng thủ : ba mặt được bọc bởi ba con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Tòa Giám Mục và Nhà Chung nằm ở giữa. Tính đến tháng 2 năm 1947 đã có khoảng 60.000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xã Phát Diệm đã phải chứa khoảng 30.000 người. Giáo dân đùm bọc lấy nhau.
Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng vũ trang chống cả Việt Minh lẫn Pháp. Tổ chức đã cho người vượt biên đi tìm mua vũ khí. Hai Giáo Phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đã liên lạc được với Hoà Thượng Thích Thiện Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh Bình thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.
Pháp thuyết phục Đức Giám Mục Lê Hữu Từ để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng Đức Giám Mục không đồng ý. Ngày 22.11.1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào cả Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào Công Giáo. Trong khi đó Việt Minh cho bộ đội vây các xã Văn Hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt đi 596 người, trong đó có 13 người bị xử bắn ở núi Cánh Diều. Bị tấn công từ cả hai phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.
Ngày 29.2.1948, Chủ Tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh Bình có triệu lập một buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về những vụ bắt bớ vừa qua. Ông nói rằng Mặt Trận Việt Minh không chủ trương diệt tôn giáo và "có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm" !
Tình trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16.10.1949, khi Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.
Sau này, Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22.12.1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống Cộng Sản, đã có khoảng 5 ngàn thanh niên Công Giáo bi Việt Minh bắt giam ở các trại Đầm Đùn, Yên Lai và Kim Tân.
Khu Phát Diệm có Pháp đóng nên Việt Minh gặp khó khăn khi mở cuộc tấn công vào các giáo xứ, Việt Minh quay qua tấn công ở các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11 năm 1949. Bộ đội và công an Việt Minh đã bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ, nhưng Linh mục Nguyễn Duy Tôn trốn được. Ngày 19.11.1949, Pháp mở một cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát.
Trong thời gian chống Việt Minh và chống Pháp, khu Phát Diệm cũng đã che chớ được nhiều nhân vật quan trọng, giúp họ thoát được sự sát hại của Việt Cộng. Đặc biệt là trường hợp của các ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Văn Chương.
Khoảng tháng 6 năm 1946, khi Hồ Chí Minh ra lệnh tàn sát các lãnh tụ đảng phái quốc gia thì ông Ngô Đình Diệm đến ẩn nấp ở nhà Linh mục Độ, Chánh xứ Tuy Hòa. Việt Minh biết được nên đến giả vờ mời ông đi họp rồi đưa lên giam tại Tuyên Quang. Sợ ông Diệm cũng bị sát hại như trường hợp của ông Ngô Đình Khôi, nhiều người đã báo tin cho đức Giám Mục Lê Hữu Từ nhờ can thiệp gấp. Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đã cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và ông Ngô Tử Hạ (sau làm Bộ Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh của Việt Minh) đến gặp Hồ Chí Minh yêu cầu trả tự do cho ông Ngô Đình Diệm. Hồ Chí Minh giả vờ không biết gì chuyện bắt ông Diệm và hứa sẽ cho lệnh thả ra. Ít lâu sau, ông Diệm đưa đưa về Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông Diệm làm cố vấn, nhưng ông Diệm từ chối, viện lý do xin về thăm gia đình rồi mới quyết định. Hồ Chí Minh chỉ thị trả tự do cho ông Diệm.
Ông Trần Văn Chương bị quản chế ở Yên Mô, đã tìm cách chạy thoát về khu an toàn Phát Diệm. Ông Chương đổi tên thành Tham Huệ và ở trong Trường Lý Đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm còn bà Trần Văn Chương ở Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm. Một thời gian sau, Đức Giám Mục Hữu Từ cho người dẫn cả hai ông bà ra Hà Nội qua ngã Phủ Lý.
Ông Ngô Đình Nhu cũng đến tá túc ở Trường Lý đoán (Đại Chủng Viện) Phát Diệm khi bị Việt Minh lùng bắt. Nhân một đêm mưa gió, Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã dùng một chiếc xe tay che kín cho người kéo ông đi vào Thanh Hóa, nhà cha già Mai, Chánh xứ Tam Tổng. Đạp xe đạp đi kè kè một bên để dẫn đường cho người kéo xe và hộ tống ông Ngô Đình Nhu là một cậu thanh niên mặc áo tơi bằng lá và đội nón lá, đó là cậu Trần Kim Tuyến. Trần Kim Tuyến quê ở Tam Tổng nên rất rành đường sá ở khu này vì thế Bộ Chỉ Huy Phát Diệm đã giao cho cậu làm công việc dẫn đường và hộ tống ông Nhu. Cha già Mai đã nhờ Nguyễn Văn Châu, người Quảng Bình, đưa ông Nhu lên Bái Thượng và từ Bái Thượng đi theo tỉnh lộ 14 vượt rừng qua Lào. Khi hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chấp chánh, Trần Kim Tuyến trở thành Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị, tức cơ quan mật vụ của ông Ngô Đình Nhu, còn Trung Tá Nguyễn Văn Châu làm Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Nhìn chung, trên toàn quốc, đa số các giáo xứ đều có thành lập các đơn vị tự vệ để chống sự xâm nhập hay tấn công của du kích Việt Minh.
c) Đàn áp Công Giáo từ 1954 đến 1975
1.- Ngăn cản và đàn áp đẫm máu cuộc di cư của người Công Giáo
Điều 14, đoạn b, của Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954 quy định :
"Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, thì nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy.”
Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21.7.1954, ở đoạn 8 có nói :
"Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sống."
Lúc đầu, Việt Cộng cho di cư khá dễ dàng. Người Công Giáo ý thức rằng không thể có tự do tôn giáo dưới chế độ cộng sản nên đa số quyết tâm ra đi. Về sau, số người bỏ làng mạc di cư vào Nam ngày càng đông, Việt Cộng thấy rằng nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, có thể làm suy yếu tiềm năng nhân lực và kinh tế của miền Bắc nên đã dùng nhiều biện pháp đàn áp dã man để ngăn chận. Nạn nhân chính của vụ đàn áp này đa số là người Công Giáo. Các ký giả Tây Phương đã viết khá nhiều về các cuộc đàn áp phong trào di cư với đầy đủ chi tiết. Sau đây là những vụ chính :
- Vụ Ba Làng : khoảng 8.000 giáo dân biểu tình trước nhà thờ Ba Làng đòi được quyền di cư, đã bị bộ đội và công an Việt Cộng xả súng bắn thẳng vào họ làm vô số người chết.
- Vụ Trà Lý : khoảng 2.000 giáo dân ra một cồn cát ở biển Trà Lý đợi tàu đến đón đi. Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao thì bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết trôi dạt trên sóng. Tiếng la kêu cứu vang cả một vùng trời. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đã đến cứu được 1445 người. Khoảng 600 người bị chìm dưới bể.
- Vụ Cửa Lò : Cửa Lò là vùng duyên hải nằm cách Hải Phòng chỉ khoảng 300 cây số, nhưng giáo dân không đi được vì bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Em Mai Văn Thịnh, 12 tuổi, phải đánh lừa bằng cách tạo những đám cháy khắp nơi khiến bộ đội lo chữa cháy, nhờ đó 1156 dân làng xuôi thuyền đi được. Số phận em Mai Văn Thịnh không biết sau ra sao !
Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đình hay từng cá nhân, có khi rất nghiêm trọng, nhưng không thể kể hết ở đây được. Sau 30.4.1975, người ta được biết có rất nhiều người Công Giáo đứng ra tổ chức di cư vào năm 1954 đã bị công an bắt và xử phạt từ 12 đến 20 năm khổ sai !
Kết quả : Đã có 860.206 người di cư được vào Nam, chia như sau :
- Thiên Chúa Giáo : 677.389 người (Công Giáo : 676.348 người, Tin Lành : 1.041 người)
- Phật Giáo : 182.817 người 2.
Giáo Hội Công Giáo miền Bắc từ 1954 - 1975
Sau cuộc di cư năm 1954, số giáo dân còn lại ở miền Bắc khoảng 750.000 người với 254 linh mục và 7 Giám Mục, chia làm 10 Giáo Phận. Ngoài ra, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Jean Dooley cũng đã quyết định ở lại với Giáo Hội miền Bắc.
Việt Cộng đã ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế Giáo Hội Công Giáo. Trước hết, nhà cầm quyền quyết định cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của Giáo Hội Công Giáo. Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này Hà Nội đã mời một phái đoàn Công Giáo quốc doanh từ Ba Lan đến miền Bắc vào dịp lễ Phục Sinh năm 1955 để phối hợp với nhóm "Công Giáo cấp tiến" miền Bắc tuyên truyền về "tự do tôn giáo" tại các nước cộng sản. Phái đoàn đi gặp các Giám Mục Việt Nam và cho biết Ba Lan tuy theo chủ nghĩa xã hội nhưng Công Giáo vẫn được sinh hoạt bình thường.
* Sắc lệnh về tôn giáo
Ngày 14.6.1955 Hồ Chính Minh ban hành Sắc Lệnh số 234/SL về tôn giáo. Tuy đã chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi Sắc Lệnh này vừa được công bố trên Nhật báo Nhân Dân số 488 ngày 15.8.1955 thì đã gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của Giáo Hội Công Giáo miền Bắc vì các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm qua không còn nữa. Sắc Lệnh quy định :
- Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán. Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáo.
- Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương trình của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lý cho các học sinh muốn học.
- Các linh mục không được vào bệnh viện, trừ khi chính bệnh nhân xin đích danh.
- Tài sản của Giáo Hội do nhà nước quản lý. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.
Chương trình giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ võ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáo.
Để làm dịu bớt dư luận, Hà Nội lại cho mời phái đoàn Công Giáo quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm Giáo Hội miền Bắc. Phái đoàn do ông Rostielov Petra cầm đầu đã đi thăm khắp các giáo phận miền Bắc. Ông nói rằng khi người Công Giáo thực hiện các kế hoạch của Nhà Nước và Mặt Trận Tổ Quốc là thực hiện "lý tưởng Công Giáo". Đức Giám Mục Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này đã làm nhà cầm quyền Hà Nội tức giận.
Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 19(?), chính phủ bắt phải đọc trong các nhà thờ thông điệp của Hồ Chí Minh nguyền rủa đế quốc
* Thành lập tổ chức Công Giáo quốc doanh
Giáo sĩ đầu tiên của Công Giáo đã tham chính trong chính quyền Cộng Sản là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc Giáo Phận Hà Nội và là một trong ba linh mục Việt Nam đầu tiên được đưa qua La Mã và Pháp học lấy bằng Tiến Sĩ. Ông cũng như Linh mục Ngô Đình Thục (sau nầy trở thành Giám Mục) đều đậu ba bằng Tiến Sĩ.
Linh mục Nguyễn Bá Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc Hội đầu tiên của Việt Minh và là ủy Viên Thường Trực của Quốc Hội. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo Việt Minh vào chiến khu và được cử làm Quốc Vụ Khanh của chính phủ, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và Công Giáo. Ông đã nhiều lần được Hồ Chí Minh giao cho tiếp xúc với Đức Giám Mục Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị này. Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần Hồ Chí Minh phải đích thân đến. Sau Linh mục Nguyễn Bá Trực, còn có hai linh mục nổi tiếng khác đã cộng tác với Cộng Sản, đó là Linh mục Vũ Xuân Kỹ và Linh mục Nguyễn Thế Vịnh. Linh mục Nguyễn Thế Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức linh mục năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc Giáo Phận Phát Diệm. Năm 1947, khi Việt Minh rút vào chiến khu, ông đã đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được Hồ Chí Minh giao cho phụ trách công tác Công Giáo vận ở trong cũng như ngoài nước .
Sau khi chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng muốn biến Giáo Hội Công Giáo miền Bắc thành một Giáo Hội Công Giáo Tự Trị như ở Trung Quốc, nhưng sau nhiều lần thăm dò, Hồ Chí Minh thấy rằng miền Bắc vẫn còn có một Khâm Sứ Tòa Thánh, 7 Giám Mục, 254 linh mục và 750.000 giáo dân. Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật Giáo. Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc Hồ Chính Minh phải thận trọng. Vì thế, Hồ Chí Minh quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá Giáo Hội Công Giáo.
Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đã quyết định cho triệu tập một Đại Hội Đại Biểu Công Giáo vào ngày 11.3.1955 tại Hà Nội để thành lập một tổ chức liên kết người Công Giáo miền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội đều do Mặt Trận Tổ Quốc chỉ định. Các linh mục Nguyễn Bá Trực, Nguyễn Thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đã vận động tích cực cho việc tổ chức Đại Hội. Sau hai ngày thảo luận, Đại Hội đã quyết định thành lập "ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình" và bầu linh mục quốc doanh Vũ Xuân Kỷ làm Chủ Tịch, linh mục quốc doanh Hồ Thành Biên làm Phó Chủ Tịch. Ba linh mục quốc doanh khác là Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy Viên Trung ương của ủy Ban. Nhiệm vụ chính của ủy Ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được Nhà Nước yểm trợ nhưng ủy Ban không làm được việc gì quan trọng vì giáo dân tẩy chay.
Sau khi lập xong tổ chức Công Giáo quốc doanh nói trên, nhà cầm quyền coi các Giám Mục miền Bắc như không nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng linh mục và kết hợp hoạt động qua ủy Ban Liên Lạc Công Giáo. Năm 1960, linh mục Phạm Hân Quynh đã lên tiếng chỉ trích các hành động gây chia rẽ trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo của ủy Ban nên bị công an bắt đi cải tạo và quản thúc trong suốt 30 năm.
* Xiết chặt vòng kiểm soát
Cũng trong năm 1955, nhà cầm quyền cho triệu tập một Hội Nghị Công Giáo Toàn Quốc thứ hai tại Hà Nội, trong có 16 linh mục bị chỉ định phải đến tham dự. Trong hội nghị này, Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa ra một thỉnh nguyện thư gửi Đức Giáo Hoàng yêu cầu "trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo phục vụ đế quốc. " Thỉnh nguyện thư này mở màn cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của chính phủ và bị lên án là "tay sai đế quốc".
Trước hết, Việt Cộng hạn chế sự di chuyển của linh mục nên những giáo xứ không có linh mục thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghỉ lại đêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Hòn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40.000 giáo dân nhưng không có linh mục nào. Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng Sinh hay lễ Phục Sinh.
Tại những nơi có linh mục, Việt Cộng cố tình sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.
Năm 1956, Nhà cầm quyền miền Bắc bắt đầu trục xuất dần các linh mục thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 linh mục thừa sai đã tình nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc, trong đó có Đức Khâm Sứ Jean Dooley. Số linh mục này lần lượt bị gọi đến và ra lệnh phải rời Việt Nam. Đầu năm 1959, Đức Khâm Sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đã bị trục xuất qua ngả Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như đã hoàn tất. Sự thiếu thốn linh mục càng trở nên trầm trọng hơn.
Đến giai đoạn thứ hai, Việt Cộng bắt đầu thanh toán các trường Công Giáo. Bỗng dưng các học sinh không công giáo từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường Công Giáo rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là một âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền Cộng Sản. Sau khi dồn được một số đông học sinh không công giáo vào trường Công Giáo, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo linh mục hiệu trưởng và nổi loạn. Chinh phủ lấy lý do ổn định học đường, đã đứng ra quản lý trường Công Giáo. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do Linh mục Nguyễn Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi nhà cầm quyền tuyên bố quản lý trường này, Linh Mục Nguyễn Văn Vinh đã gởi một văn thư phản đối đi khắp nơi. Thư này cũng được đọc trong các nhà thờ ở Hà Nội. Sau vụ này, Linh mục Nguyễn Văn Vinh bị đưa đi học tập cải tạo ở lại Quyết Tiến (còn gọi là trại Cổng Trời) thuộc tỉnh Hoàng Liên sơn, sát biên giới Trung quốc, phải sống chung với các tội nhân hình sự có án nặng và chết tại đây.
Xong vụ các trường tư thục Công Giáo, nhà cầm quyền miền Bắc từ từ chiếm đoạt các tài sản của Giáo Hội, kể cả các nơi thờ tự. Khi đang bị giam ở Thanh Hoá, tôi được gặp một ông chánh trương của một giáo xứ ở Nam Định cùng bị giam chung một trại với tôi. Ông có kể lại cho tôi nghe rằng khi muốn lấy nhà thờ giáo xứ của ông làm kho lúa, bọn cán bộ đã cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sài. Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, cán bộ xin cha xứ cho tạm gởi lúa vào phần nửa dưới của nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho lúa lại. Linh mục chánh xứ đã đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đã cho chận phân nửa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của họ. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, nhà cầm quyền miền Bắc cướp dần các tài sản còn lại của Giáo Hội.
Sau phần tước đoạt tài sản, nhà cầm quyền miền Bắc tiến tới chỗ phân tán các giáo xứ đông đảo, bằng cách buộc đi xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đình đến ở luôn. Đặc biệt, nhà cầm quyền chú ý đến các thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ tìm mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những công ăn việc làm tốt. Một ông chánh trương khác mà tôi được gặp khi đi lao động ngoài trại cho biết trường hợp gia đình ông bị đưa lên miền núi như sau : Trước đây gia đình ông ở một giáo xứ gần biển tại Thanh Hóa. Một hôm, có người quen ở làng kế cận đến rủ con trai của ông đi làm ăn. Chuyến đầu, cậu con trai đem tiền lời về khá nhiều. Hỏi ra, thì cháu đi buôn thuốc lá. Chuyến thứ hai bình an vô sự. Nhưng đến chuyến thứ ba thì bị bắt. Cán bộ xã đã gọi ông lên và bảo nếu chịu dời gia đình lên huyện Cẩm Thủy ở vùng núi canh tác thì họ tha cho, còn nếu gia đình không chấp nhận, con trai ông sẽ phải đi cải tạo lâu dài về tội buôn bán trái phép. Khi biết thằng con trai ông bị gài bẫy, ông đành chấp nhận giải pháp do công an xã đưa ra. Bằng những hình thức như thế, nhà cầm quyền đã làm các giáo xứ miền Bắc mất đi các thành phần có khả năng lãnh đạo giáo xứ.
* Quỳnh Lưu nổi dậy
Trong thời gian Pháp chiếm đóng Việt Nam, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng Việt Minh kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kìm kẹp gắt gao. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, giáo dân các giáo xứ trong vùng Việt Cộng kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, vào đầu năm 1956, các giáo dân thuộc các giáo xứ Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễm Tân, Diễm Đức, Diễm Đông, Diễm Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đã triệu tập một đại hội, có mời đại diện chính quyền đến tham dự. Trong đại hội này, giáo dân đã bất thần đưa ra một bản kiến nghị gồm 4 điểm sau đây :
1. Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.
2. Trả lại xác các linh mục đã bị hành quyết hay thủ tiêu.
3. Trả lại các tài sản của Giáo Phận, giáo xứ và đền Đức Mẹ đã bị chính phủ tịch thu.
4. Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ và giáo dân bị nhục mạ và phỉ báng.
Kiến nghị này được lập thành 5 bản gởi cho Tòa Thánh Vatican, Hồ Chí Minh, Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến và Chính quyền miền Nam.
Đến ngày 9.11.1956, khi hay tin ủy Hội Quốc Tế sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cư. Sau đó họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghị. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, hai bên xô xát nhau, chết khá nhiều.
Sáng ngày 13.11.1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân võ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu tình biểu dương lực lượng. Khoảng 3.000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trợ. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước tình thế này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh và Quỳnh Lưu ngập chìm trong máu lửa. Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn này. Các linh mục bị đưa về giam tại Hà Nội.

* Những ngày đen tối
Năm 1970, khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyền miền Bắc sợ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đã ra lệnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo của Công Giáo. Năm 1976, khi chúng tôi được chuyển từ trại Long Thành ra trại Thanh Cẩm ở Thanh Hóa, chúng tôi được gặp khoảng 160 tu sĩ và giáo dân thuộc các vùng Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa ... đang bị giam giữ tại đây. Những người này được tập trung vào một khu riêng. ọỌ cho chúng tôi biết họ đã bị tập trung từ 1970. Đến năm 1978 họ bị chuyển qua lập trại Thanh Phong, cũng ở Thanh Hóa. Phải đến năm 1986 họ mới được thả về. Ở các trại khác cũng có những thành phần như vậy bị giam giữ, nhưng chúng tôi không tìm hiểu được. Một thanh niên Công Giáo ở Thái Bình đã kể lại cho tôi nghe trường hợp anh bị bắt như sau: Một hôm nhà cầm quyền cho biết Đức Giám Mục Đinh Đức Trụ sẽ về thăm các giáo xứ trong vùng. Các cán bộ thông tin đã giúp đỡ phương tiện cho các giáo xứ tổ chức đón tiếp Đức Giám Mục rất trọng thể. Ai cũng tưởng chính phủ có chính sách tôn giáo mới. Nhưng sau khi Đức Cha Trụ đi được một tuần, những thành phần đứng ra tổ chức tiếp đón Đức Cha, từ anh giúp lễ, hát thánh ca đến những người tổ chức đám rước đều bị gọi đi học tập cải tạo. Người thanh niên Thái Bình kể chuyện này cho tôi vào năm 1978 khi anh mới 26 tuổi và đã ở tù được 7 năm. Nhà cầm quyền miền Bắc đã tạo ra rất nhiều cái bẫy khác nhau để các phần tử tích cực của các giáo xứ xuất đầu lộ diện rồi bắt. Phải đến năm 1986 họ mới được trả tự do hết, nghĩa là sau 16 năm giam giữ.
Phật Giáo không hề bị những vụ "pháp nạn" này.
Kết quả, sau 20 năm đàn áp, số giáo dân miền Bắc vẫn tăng đều theo nhịp tăng của dân số. Tới ngày 30.4.1975, người ta được biết số giáo dân Công Giáo tại miền Bắc có khoảng 1.158.000 người với khoảng 600 giáo xứ, nhưng số linh mục không còn bao nhiêu, đa số từ 60 tuổi trở lên. Có Giáo Phận như Giáo Phận Hải Phòng có 145.000 giáo dân mà chỉ có 7 linh mục từ 62 tuổi trở lên. Giáo Phận Phát Diệm có 95.000 giáo dân cũng chỉ có 15 linh mục. Trung bình cứ 4.000 giáo dân mới có một linh mục. Nhà cầm quyền miền Bắc tính rằng chỉ trong vòng 15 năm nữa, số linh mục già sẽ qua đời, giáo dân không ai coi sóc, Giáo Hội Công Giáo sẽ tan rã !
Nhưng Việt Cộng đã lầm. Sau khi tìm hiểu tình hình Giáo Hội miền Bắc, các giáo sĩ và giáo dân miền Nam đã ngạc nhiên khi nhận ra rằng đức tin của giáo dân miền Bắc còn vững vàng hơn giáo dân ở miền Nam vì đức tin của họ đã được tôi luyện trong đau khổ, đúng như Ralph Waldo Enerson đã nói :
"Trên sự đổ nát của giáo hội và tôn giáo, Thượng Đế đã xây đền thờ trong lòng cơn người".
Một số linh mục "chui" đã được phong chức để đi làm mục vụ cho giáo dân. Nhiều thầy giảng đã được huấn luyện bí mật để hướng dẫn các giáo xứ không có linh mục. Cha mẹ dạy đạo cho con v.v. Bằng những hình thức đó, Giáo Hội vẫn tồn tại.
d) Tình hình Giáo Hội Công Giáo sau 30.4.1975
Sau 30.4.1975, nhà cầm quyền Hà Nội cho áp dụng tại miền Nam các biện pháp đàn áp Công Giáo đã áp dụng ở miền bắc.
1.- Dùng Công Giáo khống chế Công Giáo
Công việc đầu tiên mà Việt Cộng nhận thấy phải làm ngay sau khi chiếm được miền Nam là trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, giam giữ các các Giám Mục, linh mục và giáo dân được xếp vào loại "phản động", có thể lãnh đạo chống chế độ. Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đúng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này.
* Trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre
Để yểm trợ cho quyết định của chính phủ trong việc trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre, nhà cầm quyền giao cho hai linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, là hai linh mục họ đã móc nối được trong thời gian hai ông này được Giáo Hội cho đi du học ở Pháp, đứng ra tổ chức "phong trào quần chúng" yêu cầu trục xuất Đức Khâm Sứ. Phong trào này gồm có 7 tổ chức sau đây : Thanh Niên Công Giáo Đại Học, Công Giáo Xây Dựng Hòa Bình, Thanh Lao Công, Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Công Giáo và Dân Tộc, Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, Nhóm Liên Tu Trẻ và Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế. Đa số tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.
Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Tổng Giám Mục Henri Lemaitre trước đây đã yểm trợ cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ và cho chính quyền sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm Sứ Tòa Thánh đã can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ của Giáo Hội Việt Nam và tuyên bố "Giải thoát các Giám Mục miền Nam Việt Nam khỏi áp lực xâm lấn của Khâm Sứ Tòa Thánh là giúp Giáo Hội Việt Nam được trưởng thành. " Ngày 2.5.1975 họ biểu tình đòi Đức Khâm Sứ Tòa Thánh phải ra đi. Ngày 14.5.1975, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm Sứ ở đường Hai Bà Trưng, trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa Thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Khâm Sứ Tòa Thánh phải cút đi. Họ đẩy Đức Khâm Sứ, một linh mục phụ tá người Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm Sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp hình còn Linh mục Thanh Lãng phát bản cáo trạng tố cáo năm đời Khâm Sứ Tòa Thánh can dự vào vấn đề nội bộ của Việt Nam.
Trong thời gian từ 5.5.1975 - 4.6.1975, các nhóm trên đã tiếp xúc với Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để đe dọa và nói nếu không rời Việt Nam, họ sẽ có những "biện pháp đáng tiếc."
Ngày 3.6.1975, các nhóm nói trên đến quấy phá Tòa Khâm Sứ một lân nữa, họ quấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tới định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng thì bị bộ đội xả súng bắn thẳng vào, một người bị chết và nhiều người bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.
Ngày 4.6.1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre tới, yêu cầu Ngài phải lánh khỏi Việt nam một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm Sứ đã phải rời Việt Nam.
* Trục xuất Đức Tổng Giám Giám Mục Nguyễn Văn Thuận
Trước 30.4.1975, theo đề nghị của Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, ngày 25.4.1975, Tòa Thánh Vatican đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đang là Giám Mục Nha Trang, làm Tổng Giám Mục hiệu tòa Vadesitana, Phụ Tá Tổng Giám Mục Saigon với năng quyền kế vị Tổng Giám Mục Saigon. Ngày 12.5.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số linh mục đã đến bao vây Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng Viện Tháp Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có các Linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim.
Trước đó, ngày 8.5.1975, nhóm linh mục nói trên đã gửi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình một văn thư yêu cầu hoãn công bố việc bổ nhiệm Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ký tên trong văn thư này còn có các Linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.
Ngày 13.5.1975, một toán sinh viên Công Giáo nằm trong tổ chức đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đã xâm nhập Tòa Tổng Giám Mục Saigon, căng lên ba biểu ngữ như sau : "Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục của ai ?", "Vì quyền lợi của Giáo Hội Việt Nam, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức", "Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui. "
Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaire, người mà họ đang yêu cầu "cút đi", một thỉnh nguyện thư tố cáo Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là một Giám Mục chống Cộng, thuộc dòng dõi chống Cộng cực đoan, đã tổ chức Phong Trào Công Lý và Hòa Bình để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân Xã, hậu thân của Đảng Cần Lao. Họ lên án Giám Mục Nguyễn Văn Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất ... Theo họ, trong tinh thần hòa hợp hiện nay, khi "Mỹ Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy ****, sự bổ nhiệm một Giám Mục chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho Giáo Hội mà còn cho cả dân tộc Việt Nam" Họ đòi Đức Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận phải từ chức để "tránh cho Giáo Hội và dân tộc Việt Nam những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm."
Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã gởi thư thông báo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết :
"Tôi đã hết sức ôn hòa, lắng nghe và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn."
Sau đó, Ngài kêu gọi như sau :
"Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa Thánh La Mã"
Ngày 8.6.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cũng gởi cho Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam yêu cầu ba điểm sau đây :
1 Triệt để thi hành Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.
2. Chấm dứt chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
3. Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được, về đối nội cũng như đối ngoại, cho Quốc Gia Dân Tộc.
Nhưng câu chuyện cãi qua cãi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15.8.1975, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy Ban Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các dòng tu nam nữ và giáo xứ để nghe trình bày về trường hợp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách Mạng quyết định đưa Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước ngày giải phóng với lý do sự hiện diện của Giám Mục Nguyễn Văn Thuận gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.
Cũng trong ngày 15.8.1975, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đã bị công an bắt, nhưng không phải đưa về Nha Trang như Mai Chí Thọ đã tuyên bố mà đưa đi biệt giam nhiều nơi ở Saigon. Ngày 8.12.1976, tôi bị Việt Cộng giải ra Bắc và tôi đã gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng bị giải đi trên một chuyến tàu với tôi, nhưng khi đến Hải Phòng, Ngài bị đưa ra trại Vĩnh Phú, còn tôi bị chuyển vào Thanh Hóa. Sau một thời gian giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Tòa Thánh La Mã, năm 1982 Ngài được đưa đến quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 cây số cho đến ngày 21.11.1988 thì được phóng thích, nhưng đặt trong tình trạng quản chế. Năm 1991 Ngài bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay đang ở La Mã. Hà Nội cương quyết không cho ngài về kế vị Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình hay làm Tổng Giám Mục bất cứ nơi nào.
2.- Khống chế các giáo sĩ có uy tín
Song song với các vụ trục xuất Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng chú ý đến các giáo sĩ có khả năng lãnh đạo các cuộc chống đối chính phủ như Linh mục Hoàng Quỳnh, Linh mục Trần Hữu Thanh và Linh mục Đinh Bình Định.
* Linh mục Hoàng Quỳnh : Khi còn ở Phát Diệm, ông đã từng giữ các chức Tổng Tuyên úy Thanh Niên Cố Vấn Chỉ Đạo Chiến Khu Công Giáo Phát Diệm, Phó Chủ Tịch Ban Chấp Hành Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và Tổng Chỉ Huy Tự Vệ, nên thường được gọi là Cha Tổng. Vào Nam, ông coi giáo xứ Bình An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ Tịch Khối Công Dân Công Giáo để đối phó với tình hình. Tính tình hòa nhã, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết, ông đã giúp khối Công Giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, không bao giờ Việt Cộng để cho tự do sau khi chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đã bắt Linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Hòa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lý trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Hòa rồi đem xác đi chôn lén.
* Linh mục Trần Hữu Thanh : Sáng lập Phong Trào Chống Tham Nhũng dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp cả nước. Ông là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sác. Chính ông là người đã viết bộ "Cẩm nang của người Công Giáo dưới chế độ Cộng Sản", đem huấn luyện cho các cán bộ Công Giáo hai năm trước ngày Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà Cộng sản áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để tồn tại khi phải sống dưới chế độ cộng sản. Công an Việt Cộng cũng đã bắt ông giam vào khám Chí Hòa sau khi chiếm được miền Nam, sau đó đưa ông ra quản chế ở miền Bắc và hiện nay vẫn chưa trả tự do.
* Linh mục Đinh Bình Định : ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Quận II Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có ký tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Năm 1985, gặp lại tôi ở Saigon, ông có than phiền với tôi về việc nhà cầm quyền đã lầm lẫn khi giam giữ ông quá lâu. Ông cho rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hành động gì chống Cách Mạng, không hiểu tại sao nhà cầm quyền đã giam giữ ông lâu như vậy. Tôi thưa với ông rằng cha bị giam lâu không phải vì tội "chống tham nhũng" mà vì tội "có tài tổ chức" và có uy tín đối với giáo dân. Nhà cầm quyền đề phòng khi có những sự bất mãn vì các chính sách mới của Nhà Nước, cha sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ nên bắt cha giam giữ trước để trừ hậu họa. Nay tình hình tạm ổn định, họ mới thả ra.
Gần như Giáo Phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong tình trạng tương tự như đã nói trên. Tính chung, đã khoảng trên 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong có 139 linh mục tuyên úy. Khoảng 15 linh mục đã chết trong các trại tù.
3.- Thanh toán các tổ chức bị coi là phản động
Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam, rất nhiều tổ chức nổi lên chống Cộng Sản, trong đó có cả các tổ chức chống đối giả tạo do chính công an Cộng Sản dựng lên để câu các thành phần chống đối chế độ tham gia rồi thanh toán. Khi ở trong tù, tôi gặp rất nhiều anh em trẻ đã bị bắt vì bị các tổ chức chống Cộng giả này lừa. Về phía Công Giáo, có rất nhiều tổ chức chống Cộng do một số giáo sĩ hay giáo dân lập ra, và cũng có vài tổ chức chống Cộng giả do công an Việt Cộng lập để lấy cớ tịch thu các cơ sở của Công Giáo. Sau đây là một số tổ chức quan trọng đã bị Việt Cộng thanh toán :
* Vụ Mặt Trận Phục Quốc : vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn vì xẩy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Quận III, Saigon vào năm 1976. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân Công Giáo đã thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sớ phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các Linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. Hai Linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân còn Linh mục Đỗ Văn Nghị bị án tử hình và bị bắn tại Thủ Đức ngày 15.3.1978.
* Vụ Việt Tiến : Vụ này xẩy ra ở khu nhà thờ Fatima, Bình Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatima. Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhà cầm quyền. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, còn Linh mục Võ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và đã được trả tự do năm 1992.
* Vụ Mặt Trận Liên Tôn : Vụ này do Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Ông đã cho lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theo. Nhưng do phản gián của Việt Cộng len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại trại Hàm Tân, Bình Tuy, năm 1989.
* Vụ Đắc Lộ : Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Dòng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đổ (nay gọi là Lý Chính Thắng), Quận III, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà Việt Cộng muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hội. Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in ronéo, có tên là Đạo Nhập Thế, do Linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người giáo dân trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền. Những người đi phổ biến tờ báo này có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên khác. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho hai mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dõi. Vì hai người này đều là Công Giáo, một người xuất thân từ trường Tabert, nên được ông Hiển coi như "đồng chí". Một thời gian sau, hai người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức võ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ tìm mua võ khí và cung cấp cho. Có lần họ đem võ khí đến giao cho ông Nguyễn Văn Hiển, nhưng ông này không dám nhận. Ông Hiển chưa làm gì khác hơn là lên tiếng khích bác chế độ trước mặt hai tên mật báo viên. Những lời kích bác này đều được hai mật báo viên báo cáo đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ võ trang chống đối không thành, hai tên nội tuyến đem đến một số tài liệu hô hào chống đối chế độ để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ Đạo Nhập Thế.
Khi tin rằng các tài liệu chống chế độ đã được đem vào Trung Tâm để phát một lần với tờ Đạo Nhập Thế, ngày 12.12.1980 công an tràn vào Trung Tâm Đắc Lộ lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nào. Tuy vậy công an vẫn bắt giam Linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Dòng Tên tại đây, Linh mục Lê Thanh Quế, chủ biên tờ Đạo Nhập Thế và các Linh mục khác trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quý. Ông Nguyễn Văn Hiển và những người quan hệ chặt chẽ với ông Hiển đều bị bắt. Khi đối chất với hai tên mật báo tại công an, ông Nguyễn Văn Hiển đã bác bỏ tất cả những lời tố cáo của hai tên mật báo và công an cũng không đưa được bằng chứng cụ thể nào để buộc tội. Các Linh mục bị bắt đã khai họ không biết gì đến hành động của ông Nguyễn Văn Hiển và hai mật báo viên kia. Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra tòa về hai tội chính : âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế độ. Trong phiên tòa ngày 29.6.1982, các cuộc đối đáp qua lại khá gay cấn : ông Nguyễn Văn Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất trình bằng chứng ông đã âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đã trả lời : "Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh". Linh mục Lê Thanh Quế nói ông không biết gì về các việc ông Nguyễn Văn Hiển và hai nhân chứng đã làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền thì xin tòa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Tòa trả lời rằng "tội của bị cáo không phải là tội hình mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả thì chế độ đã bị lật đổ mất rồi!”
Linh mục Nguyễn Công Đoan đã bị truy tố về tội hỗ trợ cho Linh mục Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông trình bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đã có trước 30.4.1975, chỉ hướng dẫn về giáo lý, không đề cập đến chính trị. Nếu bảo chúng tôi chống đối chế độ xin cho bằng chứng.
Kết quả tòa tuyên án ông Nguyễn Văn Hiển khổ sai chung thân, Linh mục Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, Linh mục Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, Linh mục Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và Linh mục Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu. Trung Tâm này hiện dùng làm tòa soạn báo Tuổi Trẻ của Việt Cộng.
Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được đối xử tàn tệ nhất tại miền Nam Việt Nam. Đến năm 1991 vì quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đã qua đời tại đây ngày 22.11.1992. Ông Nguyễn Văn Hiển xuất thân từ Đại Chủng Viện Huế, đã dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đã bị Việt Cộng lừa và chết trong tù. Lúc bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dã man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày đem ra xét xử.
Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an cũng bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8.9.1981 vì tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đã dùng tờ Sống Đức Tin để phê bình những sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lý của tờ báo Công Giáo quốc doanh là tờ Công Giáo và Dân Tộc của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước. Nhóm này đã yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đình đã được sang định cư tại Hoa Kỳ năm 1993 và đang viết cuốn "Đức Tin Đại Thắng" nói về các vụ đàn áp Công Giáo tại Việt Nam.
* Vụ Đồng Công : Dòng Đồng Công nằm ở ấp Phú Chân, Xã Tam Phú, Huyện Thủ Đức, là trung tâm tổ chức các cuộc tĩnh tâm định kỳ cho các nhóm Gia Đình Đồng Công thường được gọi là các nhóm Gia Đình Nazareth. Công an thường xuyên theo dõi những diễn biến trong các kỳ tĩnh tâm này và kỳ nào cũng có cài người vào để dò thám nhưng không bắt được sự sơ hở nào, vì các buổi tĩnh tâm không bao giờ đề cập đến vấn đề chính trị.

Năm 1987, nhân nhận được một số xe Honda của chi nhánh Dòng ở Missouri gởi về, Linh mục Trần Đình Thủ, Bề Trên Tổng Quyền của Dòng, đã đem số xe này đổi cho Ty Lương Thực Sông Bé được 21 tấn gạo (báo Công An nói đến 74 tấn). Khi chở gạo về xong thì công an đến hỏi nhà Dòng giữ gạo nhiều để làm gì. Linh mục Trần Đình Thủ trả lời rằng nhà Dòng sẽ dùng số gạo đó để nuôi những người trong Dòng và lo ăn cho những người đến tĩnh tâm, số còn dư sẽ giúp đồng bào nghèo ở chung quanh. Công an nói rằng muốn giúp đồng bào nghèo phải đưa số gạo đó cho Mặt Trận Tổ Quốc, nhà Dòng không được làm việc này. Sau nhiều lần bị công an thúc giục phải giao gạo cho Mặt Trận Tổ Quốc, Linh mục Trần Đình Thủ trả lời thẳng rằng gạo là tài sản của Dòng, công an muốn lấy cứ đến lấy, còn ông không có quyền giao.
Ngày 15.5.1987, có khoảng 40 công an Thủ Đức đến kiểm soát cơ sở của Dòng Đồng Công, lúc đó có 62 người đang tĩnh tâm. Công an lập biên bản và yêu cầu giải tán. Ngày 1 6.5.1987, công an mời Linh mục Trần Đình Thủ đến làm việc ở Công An Huyện Thủ Đức. Tại đây, công an bắt Linh mục Thủ phải làm tờ tự kiểm về các tổ chức và sinh hoạt trong Dòng mà họ cho là bất hợp pháp. Sau đó, công an chở Linh mục Thủ trở lại Dòng với 40 công an đi theo. Các công an phong tỏa xung quanh Dòng và kiểm tra hành chánh. Đến 3 giờ chiều, họ qua kiểm tra Khu Kitô Vương cách đó 400 thước, là nơi canh tác của Dòng. Họ bắt giữ 5 thầy, tịch thu hết đồ đạc rồi lấy xe chở gạo đi. Dân chúng hay tin công an bắt các cha, các thầy và chở tài sản của Dòng đi liền xông tới ngăn chận lại. Một cuộc ẩu đả xẩy ra, có đổ máu. Công an bỏ chạy. Hôm sau dân chúng tập trung càng đông hơn. Công an được tăng cường thêm, đã mở cuộc tấn công trở lại, nhưng giáo dân đông và liều mạng hơn nên họ lại rút lui. Công an nhờ Linh mục chính xứ Châu Bình đến can thiệp, dân chúng vẫn không nghe. Số người tập trung tại Dòng ngày càng đông. Nhờ sự tiếp ứng của bộ đội, ngày 20.5.1987 công an mới làm chủ được tình hình và bắt đi khoảng 40 người. Toàn bộ cơ sở và tài sản của Dòng bị tịch thu.
Linh mục Trần Đình Thủ không có mặt khi các cuộc giao tranh xẩy ra. Ông đến ẩn náu tại một gia đình giáo dân là bà Nguyễn Thị Liễu ở đường Cách Mạng Tháng 8 nối dài (Phạm Hồng Thái cũ) cách Ngã Tư Bảy Hiền khoảng 300 thước, đối diện với khu Đắc Lộ, và bị bắt tại đây ngày 2.7.1987.
Những người liên hệ trong vụ này bị truy tố về các tội chứa các tài liệu phản động, phá hoại an ninh quốc gia và đầu cơ tích trữ.
Trong phiên tòa ngày 5.11.1987, Linh mục Trần Đình Thủ bị kết án chung thân khổ sai, còn 22 bị cáo khác gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân đều bị phạt từ 2 năm tù giam đến khổ sai chung thân. Người cho Linh mục Trần Đình Thủ ẩn náu là bà Nguyễn Thị Liễu cũng bị phạt tù. Linh mục Vũ Long Toàn đã chết trong tù ngày 23.6.1991. Linh mục Trần Đình Thủ đã 87 tuổi, quá già yếu và được các cơ quan nhân quyền quốc tế can thiệp mạnh mẽ nên đã được thả ra ngày 18.5.1993, nhưng bị đặt trong tình trạng quản chế.
Năm 1967, Việt Cộng đã đến cơ sở của Dòng Đồng Công ở Tân Thành, Phú Mỹ, Bình Định, bắt đi 15 tu sĩ. Cho đến nay, chưa ai biết rõ số phận của 15 tu sĩ này, có lẽ tất cả đã bị giết. Sau 30.4.1975 đến ngày xẩy ra vụ này, nhà cầm quyền đã tịch thu tất cả các cơ sở khác của Dòng Đồng Công ở Bình Định, Lâm Đồng và Phước Long. Sau biến cố 25.5.1967 nói trên, hàng chục tu sĩ của Dòng đã bị đưa đi học tập cải tạo. Tu sĩ Đinh Khiêm Tố bị tra tấn dã man và đã chết trong ngục. Linh mục Nguyễn Hiến Tân bị đi cải tạo 12 năm mới được cho về. Linh mục Trần Đình Thủ cũng đã bị giam giữ 2 năm trước đó. Sau vụ nói trên, Dòng Đồng Công không còn cơ sở nào ở Việt Nam.

4.- Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo
Sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14.6.1955 Hồ Chí Minh đã cho ban hành Sắc Lệnh số 234/SL về Tôn Giáo. Tuy gọi là Sắc Lệnh về Tôn Giáo nhưng nội dung Sắc Lệnh nhắm vào Công Giáo, vì lúc đó Phật Giáo chưa có Giáo Hội. Các tăng sĩ Phật Giáo đã được tập trung vào Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Hội Trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc Lệnh về Tôn Giáo. Khi chưa quen với chế độ cộng sản, các linh mục Công Giáo nhận thấy rằng Sắc Lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đã công khai chống đối.
Điều 3 của Sắc Lệnh dự liệu :
"Các nhà truyền giáo ngoại quốc được sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có thể dạy tôn giáo mình như những người truyền giáo Việt Nam và phải tôn trọng luật pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như những người ngoại quốc khác."
Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vụ. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương trình nhà nước đưa ra. Các trường tư thục Công giáo có thể dạy thêm giáo lý cho những học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn :
"Chính quyền dân sự không can thiệp vào nội bộ tôn giáo. Những liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ."
Đây chỉ là cái bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáo. Mặc dầu luật quy định như vậy, trong thực tế nhà cầm quyền Hà Nội đã dần dần khống chế Giáo Hội Công Giáo miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, Hồ Chí Minh ban hành Sắc Lệnh số L02/SL ngày 20.5.1957 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế hiệp hội này.
Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam, Hà Nội cũng đã đem Sắc Lệnh ngày 14.6.1955 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ cộng sản cũng có tự do tôn giáo. Nhưng sự rêu rao nầy đã gây những hậu quả tai hại. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã viện dẫn Sắc Lệnh nói trên để chống lại việc nhà cầm quyền phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Phó Tổng Giám Mục Saigon. Vì thế, chỉ một thời gian ngắn sau, nhà cầm quyền đã xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị Quyết số 297 ngày 11.11.1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, nhà cầm quyền đã thay đổi cả một văn kiện pháp quy là Sắc Lệnh ngày 14.6.1955. Nội dung Nghị Quyết số 297 gồm những điểm chính sau đây :
- Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lý, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi ... phải có giấy phép" của chính quyền.
- Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân chấp hành chính sách và luật pháp của Nhà Nước. Không được tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan. Được quyền mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, nhưng những người được tuyển chọn đi đào tạo phải có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Trước khi mở trường phải xin giấy phép. Người giảng đạo phải được chính quyền chấp nhận.
- Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ý của chính quyền
- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc gia.
- Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xã quản lý và hưởng mức lời từ 25% - 30% tổng số thu hoạch.

Đến năm 1991. nhà cầm quyền lại ban hành Nghị Định số 69-ĐBT ngày 21.3.1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáo. Nội dung của Nghị Định này không khác Nghị Quyết số 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng rãi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị Định gồm các điểm chính sau đây :
- Chỉ được phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương trình sinh hoạt phải đăng ký trước hàng năm.
- Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.
- Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hệ. Các dòng tu hay các hình thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.
- Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.
Nhà cầm quyền Hà Nội đã hành động bất chấp hệ cấp pháp lý : Dùng Nghị Quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc Lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị Định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc Lệnh. Điều này cho thấy khả năng về pháp lý của nhân viên nhà nước rất thấp và nhà cầm quyền nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái gì mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lý. Sau khi Nghị Định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.
5.- Thành lập cơ cấu Công Giáo quốc doanh để lũng đoạn Giáo Hội Công Giáo

Trong "Đơn Xin cứu xét nhiều việc", Hòa Thượng Huyền Quang có phân bì : "Đây, nếu là chính sách cải tạo của 1 nước thì tại sao Nhà nước không dựng lên một Giáo Hội thứ 2 cho Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam và các tôn giáo khác. Ngược lại, nhà nước đã không làm việc cải tạo đó với Thiên Chúa Giáo, mà còn lập lại ngoại giao với Thiên Chúa Giáo sau gần 50 năm gián đoạn, cô lập? Theo chúng tôi được biết, ngày nay mọi khó khăn giữa Thiên Chúa Giáo La Mã và nước Việt Nam đã tháo gỡ gần hết, các sinh hoạt của Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam gần như bình thường, sau khi phái đoàn Giáo Phẩm cao cấp của Vatican đến thăm Việt Nam cách đây 2 năm." Rõ ràng Hòa Thượng Thích Huyền Quang không biết nhiều về các nỗ lực khống chế Giáo Hội Công Giáo của nhà cầm quyền Hà Nội. Sự phát biểu của ông thiếu dè dặt cần thiết của một nhà lãnh đạo tôn giáo.

* Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh

Nhận thấy tổ chức Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình không gây được ảnh hưởng gì đối với Giáo Hội Công Giáo miền Bắc trong suốt 20 năm, nhà cầm quyền Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn. Công việc đầu tiên của nhà cầm quyền Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh mạnh. Nhận thấy một số đông linh mục và giáo dân "cấp tiến" đứng ra đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, nhà cầm quyền rất phấn khởi. Tại mỗi tỉnh, nhà cầm quyền kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa Công Giáo và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị. Nhà cầm quyền không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục Giáo Phận. Một số các giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai trò liên lạc giữa chính quyền và Công Giáo nên tham gia. Về sau, đa số các giáo sĩ nhận ra âm mưu thành lập một Giáo Hội tự trị nên rút lui. Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đã nhận ra bộ mặt thực của chế độ cộng sản nên quay lại chống đối chế độ.

Tại miền Bắc, chúng ta thấy có các linh mục sau đây đã tham gia Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa bình: Vũ Xuân Kỷ (đã qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đã qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh. Tại miền Nam, số linh mục tham gia Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước lúc đầu khá đông : Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đình Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ý, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đòi trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre và bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, các linh mục sau đây cũng đã tham gia: Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lãng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trình, Hoàng Kim, Đinh Bình Định, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các linh mục này về sau không tham gia nhóm linh mục quốc doanh. Hai linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan còn quay lại chống chính quyền nên bị quản chế một thời gian khá dài. Linh mục Đinh Bình Định bị đi cải tạo 10 năm, còn Linh mục Nguyễn Quang Lãm bị công an bám sát cho đến khi qua đời vào năm 1993. Hai linh mục Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đã xin từ bỏ chức linh mục và trở về lập gia đình.

Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đã tham gia tích cực các tổ chức Công Giáo quốc doanh: Lý Chánh Trung, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Đông Ngân, Đỗ Văn (tức Đỗ Hữu Nghiêm), Nguyễn Đình Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh và Nguyễn Thành Cung. Trong số này có hai thành phần hoạt động tích cực hơn cả là Nguyễn Đình Đầu và Lý Chánh Trung.

Nguyễn Đình Đầu : Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con một nhân viên lao công quét trường. Nguyễn Đình Đầu có hai người em là Nguyễn Đình Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc nhỏ, Nguyễn Đình Đầu được học Tiểu Chủng Viện Hoàn Nguyên, Kẻ Sở, Hà Nam, thuộc Giáo Phận Hà Hội. Nguyễn Đình Đầu mới học tới Đệ Lục (Cinquième) thì xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú Tài. Thời đó, Phong Trào Thanh Niên Lao Động Công Giáo (JOC) đang phát triển mạnh ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Hà làm Trưởng Phong Trào toàn quốc, còn Nguyễn Đình Đầu làm Hội Trưởng Phong Trào ở Hà Nội.

Ngày 22.8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 23.8.1945 Hồ Chí Minh công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nội. Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ Trưởng Kinh Tế. Nguyễn Đình Đầu được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Lao Động toàn quốc, dưới quyền của Bộ Trưởng Lao Động Lê Văn Hiến.

Ngày 2.3.1946 Hồ Chí Minh lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quốc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữa. Lê Văn Hiến qua làm Bộ Trưởng Tài Chánh, Nguyễn Văn Tạo, một đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ Trưởng Lao Động. Nguyễn Đình Đầu tiếp tục làm Tổng Giám Đốc Tổng Nha Lao Động. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, Việt Minh rút vào chiến khu, Nguyễn Đình Đầu ở lại Hà Nội. Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, Nguyễn Đình Đầu được Nguyễn Mạnh Hà bảo trợ cho ở lại Pháp học xã hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú Tài. Nguyễn Đình Đầu không đậu bằng cấp gì.

Lúc ở Pháp, Nguyễn Đình Đầu ở một căn phòng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những người theo Cộng Sản hay không theo Cộng Sản như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích (Thạc Sĩ Y Khoa), Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc v.v. Nhóm học Đại Học Luovaine ở Thụy Sĩ như Linh mục Nguyễn Quang Lãm, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung ... cũng đến họp ở đây. Các nhóm trên hoạt động riêng rẽ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là Nhóm Thống Nhất. Riêng Đảng Cộng Sản Đông Dương có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.

Ngày 25.6.1954, do sự vận động của ông Ngô Đình Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đã thuyết phục được Quốc Trưởng Bảo Đại ký Sắc Lệnh số 38/QT ngày 25.6.1954, ủy quyền cho ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sự. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đình Đầu, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Linh mục Nguyễn Quang Lãm ... định về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đình Nhu gạt ra vì nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng Nguyễn Đình Đầu, vốn không lấy được bằng cấp gì, đã thúc giục Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và Linh mục Nguyễn Quang Lãm phải trở về và chờ cơ hội. Những người này đã trở về Việt Nam năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là nhóm Sống Đạo hay nhóm Cấp Tiến. Tờ Sống Đạo có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối xã hội chủ nghĩa. Hai linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạo. Lý Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng Nguyễn Đình Đầu nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báo.

Nguyễn Đình Đầu về nước được một thời gian thì ông Đào Văn Tập qua đời. Nguyễn Đình Đầu cặp bồ với bà Đào Văn Tập để chiếm dụng nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau Nguyễn Đình Đầu cưới em của của Thủ Tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.

Nguyễn Đình Đầu vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của Việt Cộng đang hoạt động ở Pháp hay đã nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo hoạt động. Tờ Sống Đạo cũng như tờ Công Giáo và Dân Tộc sau này, đã cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vực cho chủ nghĩa cộng sản.

Nguyễn Đình Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ Công Giáo và tuyên truyền ngụy hòa. Khi Công Giáo biểu tình lên án những bạo loạn tại miền Trung do Cộng Sản giựt dây, Nguyễn Đình Đầu soạn sẵn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số linh mục và giáo dân ký tên vào. Trong cuốn 30 tháng 4 do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản. Nguyễn Đình Đầu có chân trong nhóm Trí Việt, gồm một số đặc công Cộng Sản nằm vùng hoạt động dưới danh nghĩa "đòi thi hành hiệp định Paris”. Ngày 29.4.1975, Nguyễn Đình Đầu đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ Trưởng Kinh Tế) và Hà Bá Cang (còn có tên là Đinh Bá Thi và Hoàng Quốc Việt) vào trại Davit ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt gặp phái đoàn Việt Cộng cư ngụ ở để báo cáo tình hình và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Hà Bá Cang dùng mật hiệu để được phái đoàn Việt Cộng trong Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn bên mở cửa cho vào. Sau này, Hà Bá Cang, tức Đinh Bá Thi, được Việt Cộng cử làm Đại Sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đầu tiên, nhưng một thời gian sau đã bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về thăm Việt Nam.

Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giựt giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công... đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu. Chính Nguyễn Đình Đầu đã soạn thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục Saigon lên án vụ Dòng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình ký tên vào, nhưng Đức Tổng Giám Mục không chịu ký tên, Nguyễn Đình Đầu đã lấy con dấu của Tòa Tổng Giám Mục đóng vào rồi gởi cho các báo Việt Cộng yêu cầu công bố.

Lý Chánh Trung : Sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo Công Giáo vào khoảng năm 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại Học Louvain, một đại học Công Giáo, ở cách xa thủ đô Bruxells khoảng 30 cây số. Lý Chánh Trung học rất thông minh, nhưng khi mới lấy xong Cử Nhân Tâm Lý Học và Cử Nhân Chính Trị Học, chưa đậu Tiến Sĩ, đã vội theo Nguyễn Đình Đầu về nước năm 1956 với ý định tham chánh, nhưng không được Ngô Đình Nhu dùng nên rất bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm và quay lại tán dương đường lối của Cộng Sản. Khi ở Bỉ và Pháp, Lý Chính Trung cũng nằm trong nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đình Đầu.

Lý Chánh Trung tuy chưa có bằng Tiến Sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lý thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạo. Lý Chánh Trung có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ngòi bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài Lý Chánh Trung ca tụng Hồ Chí Minh ngày 30.4.1975, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó tìm được tại miền Nam một người viết "bài ca con cá" điêu luyện như vậy.

Lý Chánh Trung có người em là Lý Chánh Đức, làm Giám Đốc Nha Học Liệu tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục, đã xin cho Lý Chánh Trung làm Công Cán Ủy Viên của Bộ này. Về sau, Lý Chánh Trung được bổ làm Giám Đốc Nha Trung Học Công Lập. Ngoài ra, Lý Chánh Trung cũng được mời dạy triết học tại các Viện Đại Học Huế và Đà Lạt.

Tuy có trình độ kiến thức cao và vững vàng, tính tình hòa nhã, nhưng bước đường sự nghiệp của Lý Chánh Trung rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu Lý Chánh Trung đừng nghe Nguyễn Đình Đầu, lấy xong bằng Tiến Sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. Linh mục Cao Văn Luận là người đã nâng đỡ Lý Chánh Trung rất nhiều, nhưng dưới hai chế độ Cộng Hòa Miền Nam, Lý Chánh Trung chưa tìm được chỗ đứng thoải mái, luôn phải bận tâm đến sinh kế nên thường tỏ ra hận đời. Sự bất mãn của Lý Chánh Trung xuất hiện rất rõ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính cách châm chọc và cay chua của ông. Vốn là một giáo sư triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, Lý Chánh Trung đã nhìn vấn đề chính trị Việt Nam dưới lăng kính của một triết gia. Trong bài "Trên đường cùng đi" đăng trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4.6.1972, ông có viết :
"Đối với tôi vấn đề rất giản dị : dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có hai phe cùng người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận tình về mọi mặt. "
"Tôi là người đứng "bên này" và từ lâu tôi đã nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho "bên này" một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín đê gặp gỡ và làm hòa thật sự với bên kia."

Nghĩ sao làm vậy. Việt Cộng chiếm được Saigon là ông đi theo Việt Cộng, viết bài tán dương Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản. Ông được chọn làm đại biểu Quốc Hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theo. Khi vụ Vinh Sơn xẩy ra, ông có viết một bài phê bình đăng trên báo Công Giáo và Dân Tộc Số 55 ngày 18.7.1976, lên án những người tham gia như sau :
"Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con ngưới, xin đừng gọi là người Việt Nam mà tội cho dân tộc Việt Nam. Cũng xin đừng gọi là Công Giáo mà tội cho Giáo Hội Công Giáo.”

Gặp lại Lý Chánh Trung vào cuối thập niên 80, người ta có thể thấy nơi ông hình ảnh của một người đã thấm đòn và chán nản. Hai vợ chồng ông làm lụng vất vả vẫn không đủ ăn, mặc dầu trên trên ngực có gắn cái nhãn hiệu "đại biểu Quốc Hội"! Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng những người không đáng là người, không đáng là người Việt Nam ... chính là các nhà lãnh đạo Cộng Sản và những người đi theo họ chứ không phải những người đã tham gia vào vụ Vinh Sơn. Những con người mà ông mơ ước "làm hòa" đó đã cùng ông biến Việt Nam thành một nước nghèo nhất thế giới, không dân chủ và nhân quyền, và đã vùi lấp quãng đời còn lại của ông.

Về phía giáo sĩ, chỉ có hai linh mục miền Nam được nhà cầm quyền tín nhiệm, đó là Linh mục Huỳnh Công Minh và linh mục Trương Bá Cần. Hai linh mục này đã được Linh mục Nguyễn Đình Thi, một cán bộ Việt Cộng nằm vùng ở Pháp, móc nối khi còn học ở Pháp.

Linh mục Huỳnh Công Minh là một đảng viên nòng cốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong công tác Công Giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc Hội khóa VI năm ] 976, ông được chọn làm đại biểu. Trong phiên họp ngày 7.7.1977, sau khi Lê Duẫn đọc Báo Cáo Chính Trị. ông đã lên đọc một bài tham luận rất đúng sách vở của Đảng :
"Báo cáo chính trị làm cho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xã hội mới mà Quốc Hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có gì mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, lại còn rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsu.
"Báo cáo chinh trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi ngưới đều mơ uớc, mà người tin vào Chúa Kitô Giêsu mãi mơ ước, con người mới, xã hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo và tổ chức.
"Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng Công Giáo, mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đình Việt Nam, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay sai."(7)

1 comment: