Sunday, July 26, 2009

những bí ẩn sau những cuộc thánh chiến tại VN 2

Trược klhi chúng ta cần đọc những tãi liệu như thế này . Chúng ta cần nên biết về Lữ Giang là ai ? Xuất thân từ đâu? Tại sao có những tại liêu vu khống , chia rẽ. Phân hóa. Phê bình chụp mũ mũ sai sứ thật về Phật Giáo?

Lữ Giang.Nguyễn Huy Cần có mốt quá trình đánh phá , chụp Mũ rất nhiều nhân vật có tiếng tăm trong Cộng Đồng HaĨ Ngoại.
Dưới bút hiệu:Tú Gàn trong tờ Sài Gon Nhỏ/Hoàng Dược Thảo là chũ bút (nôi tiếng chữi bới, chụp mũ)



” Năm 1994 tại hải ngoại, Lữ Giang cho ra đời cuốn ”Những Bí ẩn Đằng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại VN” để bênh vực chế độ Ngô Đình Diệm, ca ngợi những chiến sĩ VNCH và lên án Phật giáo là CS. Nhưng cuối năm 1991, đã có một ông Lữ Giang viết bài” Hành Trình Của Một Linh Mục” đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN. Nội dung bài báo này nhằm ca tụng tinh thần kháng chiến của nhiều linh mục, đồng thời lên án Ngô Đình Diệm và HK đã lôi kéo giáo dân di cư vào miền Nam, và chống phá miền Bắc. Không biết trên đời này có hai ông Lữ Giang, một của báo Nhân Dân Hà Nội, một của Thiên Chúa Giáo HK; hay chỉ có một Lữ Giang nhưng một mặt hai lòng, vừa là tay chân của TCG vừa là tay sai của chế độ Hà Nội??? Cách nào đi nữa, ông Lữ Giang tác giả” những bí ẩn đằng sau thánh chiến tại VN” cần minh xác ngay việc cầm nhầm bút hiệu của ông Lữ Giang báo Nhân Dân Hà Nội. Chúng tôi trích đăng bài của ông Lữ Giang ” Nhân Dân Hà Nội” vào tập Tâm Thư này để độc giả suy ngẫm…” ( hết trích đoạn) * Trên đây, tuy ông Đỗ Mậu đã viết nhẹ nhàng về tâm địa phản phúc, một mặt hai lòng của tên Lữ Giang cách chính xác như thế , thiết tưởng chẳng có gì đáng thù hận. Nhưng vì ông Đỗ Mậu đã chạm nọc Lữ Giang, một kẻ tiểu nhân lại gốc CS nằm vùng, nên ông vẫn không tránh khỏi bị nó ghim sâu trong đáy tâm can mối sinh tử thâm thù, để chờ ngày rửa hận, dù cho bây giờ linh hồn ông đã phiêu diêu nơi cảnh non Bồng nước Nhược! thái độ thâm thù đối với những xác chết, và thù đến ba đời của bọn CSVN quả đã nhiễm sâu vào tận đáy tâm can thằng gù xuất thân từ hang Pác Pó cho đến tận ngày nay vẫn chưa phai nhạt. Thật đáng ghê sợ vô cùng!
(Foto: Bút tự của TT Đỗ Mậu)
Tuy tôi với ông Đỗ Mậu vốn là anh em kết nghĩa đệ huynh từ lâu, và trước khi ông về VN đề rồi gửi nắm xương tàn nơi quê cha đất tổ, đúng theo sở nguyện của ông trong thời gian cuối đời như ông vẫn thường tâm sự với tôi, nhưng tôi vẫn
không có chút thành kiến gì với Lữ Giang, Nguyễn Cần. Tôi vẫn chưa coi Lữ Giang là một tên CS nằm vùng. Ông Đỗ Mậu biết thế.Nhưng ông vẫn qu1i mến tôi.Vì ông thừa biết tôi vốn không phải là kẻ quen hành xử theo tiếng nói của con tim.
Nhưng mãi đến gần đây, khi nhận được bức thơ riêng của một người học trò cũ ( cựu đại úy QĐVNCH) còn ở trong nước viết thêm về Lữ Giang tôi mới đem vấn đề Lữ Giang ra xét lại.

Nguyên văn một đoạn trong thơ cùa người học trò tôi nói về Lữ Giang như sau:
-”…Với Tú Gàn, tức Nguyễn Cần, tức Lữ Giang, em có một số ý kiến để thầy có thêm dữ liệu về ông này. Sau khi đi cải tạo về, em thấy Tú Gàn viết báo Pháp Lý (cơ quan thông tin của sở Tư Pháp TPHCN) của VC với bút hiệu Lữ Giang. Trong báo Đại Đoàn Kết, cơ quan ngôn luận của Mặt Trận Tổ Quốc TPHCM có đăng một bài viết của Lữ Giang ca ngợi sự đóng góp công lao trong cuộc ”kháng chiến chống Mỹ cứu nước ” của linh mục VC Võ Thành Trinh, và gọi tên chủ tịch UB Nhân Dân thị xã Hòn Gai là ”đồng chí”. Với CS , chỉ có những người cùng ở trong đảng mới được gọi nhau là đồng chí. Vậy, Nguyễn Cần thuộc thành phần nào?…” ( hết trích đoạn)

Startrak Tôi thật sư thất vpong5 cho bác Startrak
Quyễn sach mà Lữ Gaing ? Nguyễn Cần Viết ” Năm 1994 tại hải ngoại, Lữ Giang cho ra đời cuốn ”Những Bí ẩn Đằng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại VN” Đã bị lật tẫy .Dối trá, vu khống, chia rẽ. Hầu như cộng dồng VN tại Hãi Ngoại ai theo dõi vụ nầy đều biết . Bị Cộng Đồng vach mặc /
Tất cã nhửng lời viết cũa Lữ Giang , Nguyễn Hu Cần Sau nầy được một số báo chí Hãi Ngoai và nhiều người Kiễm Chứng : Những điều bịa chuyên5 vu khống` này lấy từ nguồn tyin cũa CSVN số ,cũa đãng Cân lao Nhân Vị và cũa khối Công Giạo Cực Đoan. Hoàn toàn sai. Nên trong sách không có những source chứng từ, trích dẫn tài liệu ghi chú trung thực




Dười đây là link cũa những website dư luận nói về quyễn sach nầy. và co cả lời phê bình chỉ đích danh âm mưu cua Nguyễn Huy Cần /Lữ Giang


1)
http://www.dangvannham.com/modules/n...hp?storyid=754

Bô mặt thật cũa Lư Giang và Âm Mưu phía sau

2)
http://henvesaigon1.wordpress.com/20...y%E2%80%9D-nh/

KHÉO LÉO CA NGỢI ĐIỆP VIÊN C.S. LÊ HỮU THÚY, LỮ GIANG VẪN ĐỂ LỘ HÌNH TÍCH NẰM VÙNG” MẸ HÁT CON KHEN HAY” NHƯ THƯỜNG !
Lữ Giang là Can BÔ CS viết cho tờ
Click vào Link phía Trên sẻ đọc được nguyên văn bài báo cũa Tú Gàn . Lữ Giang cho ờ Pháp Lý (CSVN)

”…Với Tú Gàn, tức Nguyễn Cần, tức Lữ Giang, em có một số ý kiến để thầy có thêm dữ liệu về ông này. Sau khi đi cải tạo về, em thấy Tú Gàn viết báo Pháp Lý (cơ quan thông tin của sở Tư Pháp TPHCN) của VC với bút hiệu Lữ Giang. Trong báo Đại Đoàn Kết, cơ quan ngôn luận của Mặt Trận Tổ Quốc TPHCM có đăng một bài viết của Lữ Giang ca ngợi sự đóng góp công lao trong cuộc ”kháng chiến chống Mỹ cứu nước ” của linh mục VC Võ Thành Trinh, và gọi tên chủ tịch UB Nhân Dân thị xã Hòn Gai là ”đồng chí”. Với CS , chỉ có những người cùng ở trong đảng mới được gọi nhau là đồng chí. Vậy, Nguyễn Cần thuộc thành phần nào?…” ( hết trích đoạn).

Mặc dù cổ nhân đã nói: ” chúng khẩu đồng từ ông sư cũng chết!” ( * ghi chú: đó là nói về ông sư đàng hoàng, bậc cao nhân đắc đạo, thời nhà Lý, nhà Trần…Chớ bọn giặc thầy chùa từ năm 1945 đến nay 2009, thì chẳng cần ai phải tố giác. Bọn giặc trọc đã tự vạch áo cho mọi người xem lưng hết rồi!).


” Năm 1994 tại hải ngoại, Lữ Giang cho ra đời cuốn ”Những Bí ẩn Đằng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại VN” để bênh vực chế độ Ngô Đình Diệm, ca ngợi những chiến sĩ VNCH và lên án Phật giáo là CS.

Nhưng cuối năm 1991, đã có một ông Lữ Giang viết bài” Hành Trình Của Một Linh Mục” đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN. Nội dung bài báo này nhằm ca tụng tinh thần kháng chiến của nhiều linh mục, đồng thời lên án Ngô Đình Diệm và HK đã lôi kéo giáo dân di cư vào miền Nam, và chống phá miền Bắc.

Không biết trên đời này có hai ông Lữ Giang, một của báo Nhân Dân Hà Nội, một của Thiên Chúa Giáo HK; hay chỉ có một Lữ Giang nhưng một mặt hai lòng, vừa là tay chân của TCG vừa là tay sai của chế độ Hà Nội???

Cách nào đi nữa, ông Lữ Giang tác giả” những bí ẩn đằng sau thánh chiến tại VN” cần minh xác ngay việc cầm nhầm bút hiệu của ông Lữ Giang báo Nhân Dân Hà Nội. Chúng tôi trích đăng bài của ông Lữ Giang ” Nhân Dân Hà Nội” vào tập Tâm Thư này để độc giả suy ngẫm…” ( hết trích đoạn)
LỮ Giang
http://www.sachhiem.net/TCNdt/TCNdt013.php
Tôi Đọc bài

“Vụ Chùa và Tháp Báo Thiên”

Của Lữ Giang

Trần Chung Ngọc


Cũng như Thượng Tọa Thích Minh Châu, Linh mục Huỳnh Công Minh là một người có được huấn luyện nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hòa nhã, khiêm tốn, không bao giờ ông bênh vực công khai chế cộng sản khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ gì quan trọng trong tổ chức Công Giáo quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức này. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của Giáo Hôi Công Giáo đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị, nhà cầm quyền mới châp thuận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.

Linh mục Trương Bá Cần, người Nghệ An, có Tiến Sĩ Sử Học tại Pháp, là lý thuyết gia của tổ chức Công Giáo quốc doanh. Ông điều hành tờ tuần báo Công Giáo và Dân Tộc, dùng tờ báo này để bênh vực xã hội chủ nghĩa và vận động người Công Giáo thi hành các chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo Công Giáo và Dân Tộc Xuân 1982, ông viết : "Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Do đó, chấp nhận chủ nghĩa xã hội, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người Cộng Sản.

"Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội là tốt nhất. Riêng tôi, hàng ngày tôi sống sự hợp tác giữa những người Cộng Sản và người Công Giáo. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa gì? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhau. Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tại. Nhưng tôi lập lại: sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái rnà người ta thừa nhận là có giá trị. Mà tôi thấy rằng những người Cộng Sản kính trọng chúng tôi. Về phía chúng tôi, chúng tôi đâ học được rất nhiều. Chúng tôi đã học biết những giá trị thật của chủ nghĩa xã hội. Đó là một lý tưởng cụ thể, phục vụ người khác."
Năm 1989, sau khi đi cải tạo về, tôi có ghé thăm ông. Tôi chỉ hỏi thăm các công trình nghiên cứu về sử học của ông và cố tránh bàn đến lập trường chính trị, nhưng qua những lời lẽ của ông trong lúc nói chuyện, tôi thấy tư tưởng của ông đã có nhiều thay đổi. Không biết ông dè dặt đối với tôi vì tôi vốn là một "đối thủ" đã từng bút chiến với ông về chủ nghĩa xã hội trước 30.4.1975, hay ông đã có những thay đổi thật sự. Việt Cộng đang nhờ ông viết lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam để biện minh cho chế độ. Tôi biết nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cũng đã yêu cầu Linh mục Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi Linh mục Phan Phát Huồn hỏi tại sao không nhờ Linh mục Trương Bá Cần thì họ trả lời: "Linh mục viết người ta mới tin. Linh mục Trương Bá Cần viết, người ta không tin"!
Nhìn chung, ngoài hai Linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần ra, các linh mục quốc doanh khác không đóng vai trò gì quan trọng. Các linh mục Phan Khắc Từ, Thiện Cẩm, Vương Đình Bích ... chỉ là loại chạy cờ, có việc Nhà Nước cần thì sai làm.
Đa số các linh mục và trí thức Công Giáo có lập trường thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng ...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nhìn các vấn đề chính trị và xã hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng Tâm và Lý để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng Trì để phán đoán và chọn con đường thích hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng đã có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trờ lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ võ. Bằng bài Dấm chua mật đắng trong cuốn Ba mươi năm xáo trộn, nhóm Sống Đạo đã khuyến cáo các tổ chức của người Công Giáo đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do Cộng Sản giựt dây như sau : "... những sự bất công của chúng ta đối với kẻ khác, nhất là đối với người khác đạo, những thái độ hẹp hòi, kiêu căng, những lời nói hằn học xấc xược chính là dấm chua mật đắng mà chúng ta đổ thêm vào miệng Chúa Cứu thế trên cây Thánh giá vậy". Họ còn viện cả lời Thánh Kinh : "Ta bảo các con đừng chống lại những kẻ hà hiếp các con; trái lại, ai đánh các con trên má bên phải, hãy đưa luôn cho họ má bên kia", nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ cộng sản Việt Nam, họ không hề đưa thêm má bên kia cho Cộng Sản, mà trái lại, đã mạt sát Chế độ Cộng sản bằng những lời lẽ chua cay hơn những lời lẽ mà các anh em Công Giáo đã dùng để lên án bọn tay sai Cộng Sản trước đây. Sau đây là một mẩu chuyện ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan. được Nguyễn Ngọc Lan ghi lại trong cuốn Nhật Ký 1990-99:
- Ông có đi thăm linh mục Chân Tín không?
- Làm sao tôi đi được?
- Linh mục Chân Tín có khỏe không?
- Như ông biết qua báo chí đó : Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như dịch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.
- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi?
- 71.
- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậy.
Trước đây, hai linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đã có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ cộng sản một thời gian, họ nhận ra chủ nghĩa xã hội không tốt đẹp như họ tưởng, họ đã quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ như thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xã hội và tôn giáo một đôi khi cũng rất tai hại. Họ đã tiếp tay cho một chế độ sai lầm có cơ hội tung hoành trên đất nước. Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây Phương thường đem ra để chế giễu:
Triết gia hỏi ông lái đò :
- Ông có biết làm toán không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông đã mất một phần tư cuộc đời rồi!
Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai:
- Ông có biết viết không ?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất nửa cuộc đời rồi.
Thuyền đến giữa sông triết gia hỏi câu thứ ba :
- Ông có biết đọc không?
- Tôi không biết.
- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi!
Ông lái đò vừa dứt lời thì sóng to gió lớn nổi lên, ông quay lại hỏi triết gia :
- Ông có biết bơi không ?
- Tôi không biết.
Ông lái đò lắc đầu :
- Thế thì ông mất cả cuộc đời rồi!
Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26.10. 1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã nói: "Người cấp tiến là người hai chân đã được trồng chặt vào khoảng không".
Khi các triết gia nói trên nhận ra được sự thật thì đã muộn, phương cách để cứu vãn không tìm thấy dễ dàng trước mắt. Nhưng dầu sao, họ cũng còn có tự do để quyết định quay trờ lại. Những thành phần đã gia nhập Đảng Cộng Sản như các linh mục Nguyễn Đình Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh hay Hòa Thượng Thích Minh Châu không còn đường trở lại nữa : hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha những thành phần phản Đảng.
Mặt Trận Tổ Quốc luôn tìm cách đề cao vai trò của các linh mục quốc doanh, nhất là vai trò của Linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các hình thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10.7.1989, Đức Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm thành phố Hồ Chí Minh. Báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phô đã tiếp Đức Hồng Y. Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có "Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và Giám Mục Giáo phận Sàigòn Huỳnh Công Minh. " Bản tin trên đã làm mọi giới Công Giáo bất bình. Nhiều người đã gọi điện thoại phản đối báo Saigon Giải Phóng và yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đỉnh chính. Báo Saigon Giải Phóng ngày 13.7.1989 có đăng một cột nhỏ cải chính nói "Linh Mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh toà Sàigòn, chứ không phải Giám Mục giáo phận Sàigòn như đã loan tin." Qua bản tin cố ý đăng sai đó. mọi người đều thấy rõ ý định của nhà cầm quyền Hà Nội muốn đưa linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh lên làm Giám Mục Giáo Phận Saigon.
Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói gì cũng không ai nghe. Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh còn lo sợ các biện pháp kỷ luật của Tòa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N.4708/92/RS ngày 20.5.1992 gởi cho Đức Giám Mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Hồng Y Ouốc Vụ Khanh Angelo Sodano đã yêu cầu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lưu ý các giáo sĩ về "Tuyên Ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà giáo sĩ không được tham gia" công bố ngày 8.3.1982 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức Công Giáo quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rõ : "Ai hành động trái với lệnh cấm hợp pháp của thẩm quyền Giáo Hội có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phái tuân giữ theo luật ". Văn thư này đã được các Giám Mục Việt Nam thông báo cho các linh mục quốc doanh. Trong Đại Hội kỳ III của Ủy Ban đoàn kết Công Giáo Yêu Nước tổ chức tại Saigon ngày 11.1.1993, linh mục Huỳnh Công Minh đã trình trước đại hội như sau:
"Nhưng có một điểm mà đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã nhấn mạnh ngay từ đại hội lần thứ I và hôm nay ngài muốn đặc biệt nhắc lại cho chúng ta, đó là sự tham gia của giáo sĩ trong Ban Đoàn Kết Công Giáo. Đây là một trường hợp ngoại lệ, bởi lẽ theo giáo huấn của Giáo Hội, nhất là từ CôngĐồng Vatican II, việc tham gia tổ chức này cũng như các tổ chức chính trị xã hội khác là phạm vi trách nhiệm chính yếu của người giáo dân, chứ không phải của giáo sĩ. Nhưng vì hoàn cảnh xã hội thực tế của chúng ta chưa cho phép anh chị em giáo dân đảm đương công việc quan trọng này, nên Đức Tổng Giám Mục đã bằng lòng cho phép một số linh mục giáo phận tạm thời gánh vác thay cho giáo dân. Nay hoàn cảnh đã thay đổi, đất nước đang trong quá trình đổi mới toàn diện, tình hình kinh tế xã hội chính trị đã đi vào nề nếp ổn định bình thường. Nên Đức Tổng Giám mục rất mong muốn sinh hoạt của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước cũng phải được bình thường hóa, tức anh chị em giáo dân phải sớm đảm đương công việc này, để các linh mục trở về với phạm vi công tác mà người giáo dân không thể làm thay, đó là thừa tác vụ linh mục, một công tác đang còn thiếu nhiều nhân sự".
Ở Hoa Kỳ, do sự xúi biểu của một số người, Linh mục Nguyễn Đức Việt Châu đã lợi dụng danh nghĩa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và Quỹ Yểm Trợ Giáo Hội Việt Nam, ký kết thỏa ước với một công ty phản gián Việt Cộng là công ty VINEXCO ở New York để tổ chức hành hương và kinh tài. Hành động này không những vi phạm Giáo Luật (điều 285 và 286) mà còn đi ngược lại đường lối chung của đa số cộng đồng người Việt và cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, nên đã bị lên án nặng nề. Linh mục Việt Châu đã phải hủy bỏ chương trình này.
Thật ra, tuy tham gia vào Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước, các linh mục quốc doanh chưa bao giờ dám khởi xướng thành lập một Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tự trị. Đề nghị này, trong cả hai lần họp tại Hà Nội, đều do Ban Tôn Giáo và Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra. Cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan cho biết, ngày 25.8.1989, nhân dịp Đức Hồng Y Etchegaray đến thăm Việt Nam, Linh mục quốc doanh Võ Thành Trinh có xin gặp Đức Hồng Y tại tòa Tổng Giám Mục Saigon và đọc một bài "diễn từ" nhằm biện hộ cho Ủy Ban Công Gáo Đoàn Kết. Cựu Linh mục Nguyễn Ngọc Lan thuật lại như sau: Lập luận lúng ta lúng túng, có khi lẩm cẩm đến như thành tự thú :
"Có thể xảy ra nguy cơ "tự trị" theo kiểu Trung Quốc ở đây không? Thưa rằng không đâu. "Sự khác biệt cơ bản" về mặt hình thức cũng như mặt tinh thần là "tại Trung Quốc rõ ràng có thứ Giáo Hội chính thức tách rời khỏi Roma, một hiệp hội tôn giáo chính trị có hàng chục ngàn hộ viên giáo dân, hàng trăm linh mục và hàng chục Giám Mục được phong chức bấtchấp cả Roma. Trái lại tại Việt Nam, trên toàn quốc, chỉ là một Ủy ban gồm mấy chục thành viên và "nước giếng đâu tác hại gì đến nước sông"!(8)
*Thành lập Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị không được, quay lại thành lập Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước.
Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới, được gọi là "giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân". Trong giai đoạn này, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ. Đây là một hình thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, nhà cầm quyền cũng thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ "quốc doanh" được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là "state-run" tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đã dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.
Không như Hòa Thượng Thích Huyền Quang đã lầm tưởng, nhà cầm quyền Hà Nội đã muốn tiến tới "quốc doanh hóa" Công Giáo trước cả Phật Giáo. Đầu năm 1980, Ban Tôn Giáo Chính Phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đã đưa Linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo Yêu Tổ Ouốc và Hòa Bình, từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị Công Giáo mở rộng vào ngày 5.1.1980. Hội nghị đã đi đến quyết định thành lập Ủy Ban Vận Động Công Giáo nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị tách rời khỏi Tòa Thánh La Mã. Xong Công Giáo rồi, ngày 2.2.1980, nhà cầm quyền mới cho lập Ủy Ban Vận Động Thống Nhất Phật giáo
Tháng 1 năm 1981, nhà cầm quyền đã hình thành được một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Hòa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống và Hoà Thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phía Công Giáo, nhà cầm quyền Cộng Sản đã hoàn toàn thất bại.

Trong một bản phân tích tình hình các tôn giáo tại Miền Nam năm 1981, Tổng Cục An Ninh của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã nhận định rằng hai tôn Giáo Cao Đài và Hoà Hảo chỉ là hai giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía Phật Giáo, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có gì khó khăn, vì Phật Giáo không có tổ chức chặt chẽ, và trong những năm kháng chiến Đảng đã gài được nhiều cán bộ nòng cốt vào bên trong để hoạt động. Những thành phần chống đối đã bị loại bỏ hoặc cô lập. Vậy có thể thống nhất ngay mà không gặp trở ngại nào. Riêng về phía Công Giáo, bản nhận định cho biết Giáo Hội Công Giáo là một Giáo Hội được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lãnh đạo và cán bộ có kiến thức cao, giáo dân đều đã được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng Giáo Phận Sàigòn có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rõ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. Công giáo có Hội Đồng Giám Mục là một cơ quan lãnh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phối. Công Giáo lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước Công Giáo Tây Phương nên nếu hành động không khôn khéo có thể gảy ảnh hướng bất lợi. Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần Giáo Hội Công Giáo như đã áp dụng tại miền Bắc từ 1954 - 1975 : tìm cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lãnh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi tình hình ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những những chức sắc đã qua đời, cô lập và phân tán các dòng tu. v.v.
Mặt Trận Tổ Quốc đã nhiều lần mở cuộc thăm dò để thành lập một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, nhưng đã bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ý kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội Đồng Giám Mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của nhà cầm quyền. Cuối cùng, nhà cầm quyền quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức Công Giáo quốc doanh trong khi nghiên cứu lại việc thành lập một Giáo Hội Giáo Việt Nam tự trị.
Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ Tịch Ủy Ban Công Giáo Yêu Tổ Quốc và Hòa Bình ở miền Bắc đứng ra vận động thành lập một tổ chức Công Giáo quốc doanh thống nhất. Một "Đại Hội toàn quốc những người Công Giáo Việt Nam xây dựng và bảo vệ hoà bình" đã được triệu tập tại Hà Nội từ 7 đến 10.11.1983. Biết rằng linh mục Nguyễn Thế Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tập một đại hội như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đã đứng ra hành động. Mặt Trận tại mỗi địa phương đã chỉ định các thành phần tham dự đại hội. Trong đại hội người ta thấy có 299 đại biểu thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại Hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh Tấn Phát, Chủ Tịch Ủy Ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lãnh đạo đại hội. Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn Giáo Chính Phủ cũng có mặt để theo dõi từng diễn tiến của đại hội. Trong đại hội, đại diện chính quyền cũng như một số đại biểu cò mồi đã nhấn mạnh khá nhiều về "vấn đề Công Giáo Việt Nam" với gợi ý nên tiến tới việc tuyên bố tách rời Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ra khỏi Toà Thánh La Mã vì Giáo Hội Việt Nam đã trưởng thành. Chuyện này được bàn tán nhiều sau Đại Hội nên tờ Công Giáo và Dân Tộc phải lên tiếng xác nhận "không có vấn đề tự trị".
Đại Hội đã quyết định thành lập Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo Yêu Nước và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm chủ tịch. Đại Hội cũng chấp thuận một bản điều lệ và một bản nghị quyết do Ban Tôn Giáo Chính Phủ soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều Lệ ghi rõ:
"Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo Yêu Nước Việt Nam là một thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, hoạt động theo Hiến Pháp và pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Việt Nam và cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam."
Điều 3 của bản Nghị Quyết đã nói về vai trò của phong trào Công Giáo yêu nước như sau :
"Đại Hội cũng nhận định: vượt qa những gian lao thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, phong trào Công Giáo yêu nước đang lớn mạnh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, là đòi hỏi thiêng liêng của tình thương Kiô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Trong thời đạingày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho hoà bình và công lý trên thế giới."
Linh mục Nguyễn Thế Vịnh chỉ làm Chủ Tịch được 6 tháng thì qua đời. Đức Giám Mục Bùi Chu Tạo cho biết trong những tháng cuối cùng của cuộc đời, ông thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng Cộng Sản Việt Nam và những ngày trước khi qua đời ông đã xin chịu các phép bí tích. Linh mục Hồ Thành Biên đã thay thế Linh Mục Nguyễn Thế Vịnh.
Tại Saigon, Ủy Ban đã được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương Quận 3, để làm văn phòng thường trực và sinh hoạt. Ủy Ban chiếm phòng hội của Trung Tâm Công Giáo Việt Nam ở đường Trần Quốc Toản (Nguyễn Đình Chiểu cũ) làm nơi hội họp. Ủy Ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy Ban có một tờ tuần báo là tờ Công Giáo và Dân Tộc do Linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy Ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong một bài phỏng vấn dành cho báo Eglises d Asie, Đức Giám Mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước và tờ Công Giáo và Dân Tộc, chúng tôi xin tạm dịch như sau :
"Ủy Ban thủ một tờ báo công giáo duy nhất tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đã được coi như những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích Giáo Hội. Họ không có ý kiến đứng đắn về Giáo Hội Việt Nam ...."
"Hai trong những người đại diện (của Ủy Ban) đã gởi cho tôi một lá thư, trong đó họ khan phiền họ đã bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền Công Giáo coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đã trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đã mất sự tin tưởng của người Công Giáo."(9)
Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước không hoạt động gì được, vì giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chớ không cần biết Ủy Ban này.
Với chỉ thị của Tòa Thánh La Mã cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai trò của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước cũng sắp cáo chung, vì các giáo dân tham gia Ủy Ban không ai có chút uy tín hay khả năng để điều hành tổ chức này.
* Tiếp tục đánh phá Công Giáo
Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà họ gọi là giai đoạn "tiến lên xã hội chủ nghĩa", nhà cầm quyền Hà Nội quyết định đưa các ngành tư doanh còn lại vào hợp tác xã hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Quận III, nơi còn nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đã được chọn làm thí điểm. Song song với biện pháp kinh tế, nhà cầm quyền cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế Thiên Chúa Giáo.
Khoảng 2000 công an đã được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Hòa, Đồng Nai và Saigon, là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đã được chọn làm thí điểm vì nơi đây còn một số đông các cơ sở dòng tu và các giáo xứ miền Bắc di cư. Trong năm 1986, một số dòng ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công... đã được lệnh phân chia ra nhiều "hộ" nhỏ, mỗi hộ không quá 10 người. Chính phủ sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các "hộ" này tiếp tục đời sống tu trì. Các cơ sở của các dòng còn lại sẽ được đặt dưới quyền quản lý của Nhà nước. Vụ đánh phá dòng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các dòng tu để diệt dần.
Năm 1986, nhà cầm quyền lại cho triệu tập một Đại Hội Toàn Quốc Những Người Công Giáo Việt Nam Xây Dựng và Bảo vệ Hòa Bình lần thứ 2 tại Hà Nội để hình thành một Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam tự trị, tách rời khỏi Toà thánh La Mã như năm 1983, nhưng cũng bất thành, vì các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như lần trước: Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám Mục, họ không có thẩm quyền.
Sự phản ứng của nhà cầm quyền Hà Nội về việc Tòa thánh Vatican quyết định phong thánh cho 117 vị Chân phước tử đạo tại Việt Nam ngày 19.6.1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đã viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đình Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bị đả kích vì đã ký đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đã được triệu, tập nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng nhà cầm quyền Hà Nội đã bó tay.
Nhưng không may cho Đảng Cộng Sản Việt Nam là cuộc đổi tiền vào tháng 9 năm 1985 đã đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, bắt buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam phải đổi mới để sống còn. Sự khống chế Thiên Chúa Giáo cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng Thiên Chúa Giáo là nguồn ngoại tệ đáng kể vì có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức Thiên Chúa Giáo quốc tế. Dĩ nhiên, sự nới rộng của nhà cam quyền chỉ có ảnh hưởng ở một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số ít linh mục, đồng ý cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đã bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số Thánh Kinh... Đặc biệt, người Công Giáo không còn bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữa. Một vài lãnh vực đại học và cơ quan công quyền đã thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng Giám Mục trở lên. Ngày 25.8.1993, nhà cầm quyền Hà Nội đã bác bỏ quyết định của Tòa Thánh Vatican cử Đức Giám Mục Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Tòa Tổng Giám Mục Saigon và cũng không cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức Tổng Giám Mục Saigon khi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình từ nhiệm vì lý do già yếu. Trước đây, khi Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám Mục Giáo Phận Huế qua đời ngày 8.6.1988 và sau đó, Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn, Tổng Giám Mục Hà Nội ra đi, Hà Nội cũng không cho Tòa Thánh Vatican cử người thay thế. Nay Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình từ nhiệm nữa, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam không còn Hồng Y hay Tổng Giám Mục nào. Đây là một âm mưu làm tê liệt guồng máy lãnh đạo của giáo hội Công Giáo. Nhưng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn tiếp tục hoạt động bình thường là nhờ có Hội Đồng Giám Mục, do đó âm mưu của Việt cộng không ảnh hưởng nhiều. Ngày 15.4.1991, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã gởi đến ông Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam một Bản Góp Ý đề cập đến hai vấn đề quan trọng sau đây:
Vấn đề xây dựng đất nước: Phải lấy phương châm "phục vụ con người toàn diện" làm mục tiêu hàng đầu, phải có dân chủ thật sự và đặt tổ quốc lên trên hết. Tránh đồng hóa tổ quốc với xã hội chủ nghĩa, vì xã hội chủ nghĩa cũng chỉ vì tổ quốc và nhân dân.
Vấn đề tôn giáo: Hiến Pháp có công nhận quyền tự do tín ngưỡng, nhưng việc thi hành quyết định này gặp nhiều khó khăn phiền hà. Phải coi quyền tự do tôn giáo là một thứ quyền lợi chứ không phải là một đặc ân. Các quy chế về tôn giáo trước khi ban hành phải đem lấy ý kiến của toàn dân, nhất là tín đồ các tôn giáo chứ không nên áp đặt. Tạo điều kiện cho tôn giáo thực hành ý tưởng nhân ái, chia xẻ hoàn cảnh của những người nghèo túng, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, đừng lo sợ tôn giáo đề cao cá nhân hay tập thể.
Bản góp ý này đã được các giới trong và ngoài nước đánh giá như là một tiếng nói thẳng thắn và xây dựng thiết thực, và làm nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lúng túng.
như đã nói ở Chương II. Nhưng về phía Công Giáo, nhà cầm quyền đã gặp rất nhiều khó khăn vì không kêu gọi được một Giám Mục nào tham gia vào Ủy Ban, còn hầu hết giáo sĩ và giáo dân thì tỏ ra dè dặt. 6.- đường lối của Tòa Thánh Vatican đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam
Trên phương diện quốc tế công pháp, Tòa Thánh Vatican được nhìn nhận như một quốc gia có chủ quyền, có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì thế, tương quan giữa Tòa Thánh Vatican và Hà Nội là tương quan giữa hai quốc gia có chủ quyền. Các sứ thần Tòa Thánh khi đến Việt Nam được đón tiếp theo nghi thức ngoại giao. Tương quan này hoàn toàn khác hẳn với tương quan giữa Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hay Viện Hóa Đạo Phật Giáo Ấn Quang với nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội, các chủ thể hoàn toàn bị ràng buộc bởi hệ thống pháp lý và chính sách của nhà cầm quyền trong nước. Cần phải xác định rõ như thế để tránh ngộ nhận về đường lối của Tòa Thánh Vatican đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam.
Trong 5 năm qua, Tòa Thánh Vatican đã gởi sứ thần đến Hà Nội ba lần để giải quyết những vấn đề liên hệ đến hai bên. Sứ thần của Tòa Thánh là Đức Hồng Y Roger Etchegaray được phái đến Việt Nam vào tháng 7 năm 1989. Chuyến đi này mang tính chất xã giao hơn là thương thuyết. Chuyến thứ hai của Đức Hồng Y R. Etchegaray đến Việt Nam là để chủ tọa tang lễ Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn qua đời ngày 18.5.1990. Trong dịp này, một vài vấn đề liên quan đến Giáo Hội Việt Nam cũng đã được bàn đến. Chuyến đi thứ ba từ 7 đến 13.11.1990 nhắm thương lượng và giải quyết những vấn đề có liên hệ đến việc thiết lập liên lạc ngoại giao giữa hai bên và vấn đề sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam, trong đó có một số vấn đề chính như việc Tòa Thánh Vatican bổ nhiệm các Giám Mục tại Việt Nam, sinh hoạt của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, việc huấn luyện các chủng sinh và phong chức linh mục, vấn đề các dòng tu, vấn đề ấn hành các sách báo Công Giáo, v v Nhưng vấn đề gay cấn hơn cả là vấn đề để cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận về giữ chức Phó Tổng Giám Mục Saigon với năng quyền thay thế Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình.
Các cuộc thương thuyết nói trên cũng đã đem lại một số kết quả cụ thể, tuy còn quá khiêm tốn, chẳng hạn như nhà cầm quyền Hà Nội đã cho 21 Giám Mục Việt Nam được đến Roma tham dự Hội Đồng Giám mục Thế Giới và tiếp kiến Đức Giáo Hoàng từ 15 đến 23.11.1990, một vài Giám Mục Việt Nam đã được bổ nhiệm để thay thế một số Giám Mục đã qua đời, tăng số linh mục được phong chức hàng năm lên chút ít.
Trong hai ngày 9 và 10 tháng 11.1990, khi Đức Hồng Y Etchegaray đang thăm Giáo phận Huế, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã triệu tập các Giám Mục Việt Nam lại và tuyên bố :
"- Đảng và Nhà nước phải phục vụ mọi người, kể cả tín đồ các tôn giáo. Đảng và Nhà nước không thể ngủ ngon bao lâu các tín đồ tôn giáo không có nơi cửhành việc phụng tự tôn giáo và không được tự do hành đạo.
- Các cộng đồng tôn giáo được chọn những người cai quản với điều kiện những người này không có thái độ đối đầu với Nhà nước. Việc chọn lựa các chức sắc phải thảo luận trước với Nhà nước.
- Đảng và Nhà Nước nhìn nhận vai trò của các tôn giáo trong việc duy trì và nâng cao đời sống luân lý của người dân trong xã hội."
Không như các hoàng đế Việt Nam thời phong kiến, nhà cầm quyền Hà Nội biết được ảnh hưởng sâu rộng của Giáo Hội Công Giáo trên thế giới, nhất là ở các nước Tây Phương, nên đã tìm cách ve vãn Tòa Thánh Vatican khi muốn mở rộng ngoại giao, vay mượn tín dụng và giao thương với các nước Tây phương. Tuy nhiên nhà cầm quyền Hà Nội vẫn không từ bỏ chính sách khống chế Giáo Hội Công Giáo Việt Nam một tổ chức mà họ tin rằng có thể gây nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ.
Đến đây, Hòa Thượng Huyền Quang và nhóm Lý Khôi Việt có thể hiểu tại sao nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội có thể biến Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất của Khối Ấn Quang thành một Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh dễ dàng, mà không thể biến giáo hội Công Giáo Việt Nam thành một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị được. Chính trong bài "Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam cuối thế kỷ 20", ở trang 25 Lý Khôi Việt đã phải nhìn nhận về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhưsau:
"Và bị các thế lực chinh trị đánh phá, lũng đoạn từ bên ngoài và khủng hoảng, chia rẽ từ bên trong nội bộ. Thiếu trình độ, thiếu tổ chức, thiếu chuẩn bị, thiếu lãnh đạo, đã khiến Phật Giáo thiếu thích nghi trước tình thế mới, và cộng thêm với nhiều tấm lòng sôi nổi, nhiều cảm xúc nhiệt tình trước tình cảnh đau khổ của dân tộc nên đôi khi đã lao đầu vào những con đường cùn cụt và vô tình thúc đẩy thêm những thay đổi chính trị, thời cuộc, thay vì thành những vận hội mới cho Dân Tộc và Đạo Pháp, thì lại thành những pháp nạn mới".
TƯƠNG QUAN GIỮA CAO ĐÀI GIÁO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM


Đạo Cao Đài được chính thức thành lập vào năm 1926. Người sáng lập là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, tòng sự tại Phú Quốc. Ông là người rất tin giáng khẩu của các thần linh. Ông thường dùng bàn xoay để tiếp xúc với thế giới vô hình. Một hôm ông tiếp xúc được một vị tự xưng là Cao Đài và vị này cho ông được tôn thờ dưới hình một con mắt. Khi được thuyên chuyển về Saigon. ông cùng một số bạn bè thường cầu cơ, và được đức Cao Đài giáng đồng dạy cho những triết lý cao siêu.
Ngày 7.10.1926, ông Ngô Văn Chiêu đã cùng 28 người ra tuyên ngôn chính thức thành lập đạo Cao Đài và xin Thống đốc Nam Kỳ cho phép hoạt động. Đơn đó đã được chấp nhận dễ dàng. Ông Lê Văn Trung được bầu làm Giáo Chủ đầu tiên.
Sau khi được thành lập, đạo Cao Đài đã bị Đảng Cộng Sản Đông Dương lên án rất nặng nề và coi tôn giáo này như là một công cụ của thực dân Pháp. Trong Nghị Quyết Chính Trị của Đại Biểu Đại Hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp từ 27 đến 31.3.1935 có nhận định như sau:
"Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như: đại biểu Hội nghị chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy đạo Phật ở Cao Miên, cải lương đạo Phật, khuếch trương đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, cuộc tuyên truyền của một bộ phận lãnh tụ đạo Cao Đài giả bộ cổ động phản đế và cho rằng đạo Cao Đài là cộng sản chủ nghĩa hoà bình (?), là những mưu mô của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng giai cấp tranh đấu, để kéo quần chúng ra khỏi đường cách mạng tranh đấu."(10)
Nghị quyết của Ban Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến 8.11.1931 (chú thích của người đánh máy: tác giả lầm, năm 1939) lại viết về đạo Cao Đài như sau:
"Quần chúng có ít nhiều tinh thần phản đế theo đạo Cao đài và Phật giáo khá nhiều, nhất là sau những năm khủng bố 1930-1931, đạo Cao đài ở Nam Kỳ kéo được một số đông tín đồ, nhưng nhờ thực tế thức tỉnh và nhờ phong trào dội lướt nên có một số quần chúng theo các đạo ấy đã dần dần nhận rõ con đường đoàn kết tranh đấu để đòi quyền lợi, đã có một số ra khỏi đạo Cao đài. Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đã tìm cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những hội chấn hưng Phật giáo ở khắp Bắc - Nam - Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của sở mật thám chính trị bày vẽ. Còn bọn lãnh tụ Cao đài lúc trước phần nhiều bị bọn tay sai Nhật mua chuộc và lừa gạt quần chúng tín đồ theo ảnh hưởng thân Nhật. Từ khi đế quốc Pháp dự vào chiến tranh, vì tình hình căng thẳng và vì đế quốc Pháp tìm cách mua chuộc phần nhiều lãnh tụ Cao đài lúc này đã trở nên tay sai của đế quốc Pháp, hô hào tín đồ ra đầu quân giúp "mẫu quốc", che đậy sự tráo trở đầu hàng đế quốc Pháp của chúng bằng câu: "Đi lính để quay mũi súng đánh Tây". Tóm lại bọn lãnh tụ Cao đài là bọn bản tính phản động, đòn xóc hai đầu, tuỳ theo cơ hội hoặc làm tay sai cho đế quốc này, hoặc bán mình cho đế quốc khác; còn quần chúng tín đồ Cao đài thì có ít nhiều tinh thần phản đế, nhưng còn nhiều mê tín thần bí nên bị bọn lãnh tụ xỏ lá lừa gạt."(11)
Mặc dầu Đảng Cộng Sản Đông Dương nhận định như vậy thực tế lại khác hẳn. Cao Đài Giáo về sau trở thành một tổ chức chống Pháp và chống Cộng mạnh mẽ nhất. Đạo Cao Đài có cả một tổ chức quân đội vững mạnh. Trong Đại Hội Cựu Chiến Sĩ Cao Đài được tổ chức tại Anaheim, California, từ 1 đến 3.1.1993, cụ Đặng Quang Dương đã trình bày về việc thành lập Quân Đội Cao Đài như sau:
"Tại sao Cao Đài là một Tôn Giáo mà lại có quân đội? Nhìn vào lịch sử đen tối của đất nước thời bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, con người mất hết quyền công dân, ngay cả bản thân cũng phải đóng thuế, thì làm sao tín đồ Cao Đài ngồi yên được, cho nên có sinh hoạt chính trị và tổ chức quân sự. Để bảo vệ cho tính mạng tín đồ Cao Đài và để bảo vệ quốc gia dân tộc, quân đội Cao Đài tổ chức các Trung đội lưu động hành quân gom dân về các châu vi đạo, các Trung đội lưu thủ bảo vệ các châu vi đạo để đồng đạo được tự do tín ngưỡng Đồng thời quân đội Cao Đài cũng lập chiến khu Núi Bà, chiến khu Bù Lu để chống lại bọn thực dân.
"Năm 1954, chiến tranh Đông Dương kết thúc, đất nước bị chia đôi, một đại hội Cán Bộ Việt Nam Phục Quốc Hội, một đoàn thể chính trị của người Cao Đài, được triệu tập tại Trường Thiếu Sinh Quân Cao Đài, sau 3 ngày hội thảo, đại hội khẳng định: "Bắc chống Nga Hoa, Tây hòa Âu Mỹ, Nam liên kết bằng hữu Á Châu", một lập trường rất đứng đắn của tín đồ Cao Đài thời bấy giờ."(12)
Thành tích chống thực dân Pháp của các tín đồ Cao Đài không ai chối bỏ được. Đảng Cộng Sản Đông Dương đã không thuyết phục được các lãnh tụ Cao Đài gia nhập Mặt Trận Việt Minh vì giữa đạo Cao Đài và chủ nghĩa Cộng Sản có một sự khác biệt không dung hợp được: một đàng vô thần, một đàng hữu thần. Bộ mặt tráo trở của các lãnh tụ Đảng Cộng Sản Đông Dương đã bị các lãnh tụ và tín đồ đạo Cao Đài nhận diện nên không những không tham gia vào các hội cứu quốc của Việt Minh mà còn cương quyết chống lại. Vì vậy Việt Cộng đã tìm mọi cách tiêu diệt đạo Cao Đài.
Trong hai năm 1945 và 1946, có trên 10.000 chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài bị thảm sát, điển hình nhất là các mồ chôn tập thể 4000 giáo hữu tại Quảng Ngãi và mồ chôn tập thể tại Trà Cao Tây Ninh.
Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, Việt Cộng cho ngay một Trung đoàn chiếm đóng Tòa Thánh Tây Ninh và phong tỏa các vùng phụ cận, lục soát toàn bộ khu vực này. Sau đó, Việt Cộng đã bắt đi những chức sắc quan trọng của đạo Cao Đài như Phối Sư Trần Quang Vinh, Chánh Phối Sư Thượng Nhã Thanh, cựu Thiếu Tướng Trần Tấn Mạnh và 25 vị chức sắc khác đưa đi cải tạo. Phối Sư Trần Quang Vinh bị chết trong tù. Việt Cộng đã giấu xác Ngài không cho thân nhân và tín đồ nhận về.
Tiếp theo, Việt Cộng cho bỏ vũ khí vào đằng sau Điện Giáo Tông rồi mở cuộc lục xét bắt Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và những người cư ngụ trong nội thành Tòa Thánh Tây Ninh, truy tố về tội tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và tổ chức chống chính quyền, rồi đưa ra xét xử trước Tòa án Nhân Dân được thiết lập tại sân vận động Long Hoa. Hàng ngàn tín đồ đã bao vây sân vận động và khóc òa lên, Việt Cộng không thể xét xử được. Cuối cùng, Việt Cộng phải đưa Ngài về quản thúc tại gia nhưng buộc Hội Đồng Chưởng Quản phải giáng xuống hàng Đạo hữu. Hiền Tài Hồ Thái Bạch, con của Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, bị bắt trong vụ Mặt Trận Phục Quốc tại Saigon năm 1984 và đã bị xử bắn với Trần Văn Bá và Lê Văn Quân vào ngày 8.1.1985.
Mặt Trận Tổ Quốc Huyện Hòa Thành đã đưa Trương Ngọc Anh về tuyên bố giải tán Giáo Hội Cao Đài và thành lập một Hội Đồng Chưởng Quản mới đặt trực thuộc quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Huyện với dụng ý giáng xuống cấp huyện. Tất cả các cơ sở của Giáo Hội được đặt dưới quyền quản trị của một Ban Quản Lý Nội Ô Tòa Thánh.
Những chức sắc và đạo hữu của Giáo Hội trên toàn miền Nam Việt Nam chống lại việc giải tán Giáo Hội đã bị bắt giam và truy tố về tội chống đối chính quyền. Sau đây là các vụ điển hình:
- Tại Đà Nẵng và Quảng Nam: Năm 1975: Phạt Nguyễn Hoàng Diệu 10 năm tù. Tháng 11 năm 1976: Kết án tử hình: Phạm Ngọc Trảng, Nguyễn Thành Điểm và Đặng Ngọc Liêm. Phạt từ khổ sai chung thân đến 7 năm tù: Nguyễn Minh Quan, Cao Tường Xuân, Lý Thành Trọng, Châu Thị Mỹ Kim, Trần Văn Bảo, Lê Ngọc Minh, Phạm Thành Phước, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn Thành Minh, Đỗ Trung Trực, Trần Văn Phi, Nguyễn Tấn Phụng, Phương Văn Được, Ngô Văn Trạng và Tạ Tài Khoán. Năm 1978: Nguyễn Phú và Mai Văn Căn bị phạt 3 năm tù. Năm 1979: Trần Ngọc Thành và Nguyễn Văn Bảy bị án tử hình
Tại Saigon: Trong phiên xử ngày 7 và 8.12.1979 của Tòa án Nhân Dân Saigon, những nhân sĩ và đạo hữu Cao Đài sau đây đã bị tuyên án về tội tham gia Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam: Tử hình: Nguyễn Văn Mạnh và Lê Văn Nho. Chung thân khổ sai: Trần Minh Quang, Đinh Tiến Mậu, Nguyễn Thái Dũng, Đoàn Văn Bạch. Một số người khác bị án từ 10 đến 20 năm.
Tại Tây Ninh: Trong phiên xử ngày 10 và 1.12.1979, các đạo hữu sau đây bị tuyên án vì tham gia Mặt Trận Nhân Dân Phục Hưng Quốc Gia Việt Nam: Tử hình: Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Thanh Khiết, Hồ Hữu Hìa và Lê Tài Thượng. Chung thân khổ sai: Nguyễn Anh Dũng (tức Phan Đăng Chức), Trương Phước Đức, Nguyễn Ngọc Đệ, Võ Văn Thắng. Một số đạo hữu khác bị án từ 3 đến 20 năm tù.
Trên 35 cơ sở tôn giáo và giáo dục của đạo Cao Đài tại miền Nam Việt Nam đã bị tịch thu. Năm 1989 nhà cầm quyền Nội tuyên bố tịch thu luôn Thánh Thất Cao Đài Hà Nội ở đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội.(13)



TƯƠNG QUAN GIỮA PHẬT GIÁO HOÀ HẢO VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM


Phật Giáo Hòa Hảo là đạo Phật được Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cải biên cho phù hợp với tín đồ và môi trường của Việt Nam. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4.7.1939), lúc 6 giờ chiều, Đức Thầy đã thắp nhang và mời các Đấng Thiêng Liêng về chứng cho Ngài "chịu lệnh Tây Phương thọ ký". Đạo được khai tại Xã Hòa Hảo, Quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nên Ngài gọi là Phật Giáo Hòa Hảo. Về giáo lý, Phật Giáo Hòa Hảo lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản. Đây một trong 84 ngàn pháp môn của Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết ra để cho các tín đồ tu tại gia biết con đường giải thoát.
Khi tình hình thế giới biến động, ngày 10.3.1945 ông Hồ Văn Ngà thành lập Đảng Việt Nam Quốc Gia, quy gồm hai đảng Nhân Dân Cách Mạng và Việt Nam Quốc Gia lại. Ngày 14.8.1945, theo lời kêu gọi của ông Hồ Văn Ngà, Đức Huỳnh Giáo Chủ đã cùng các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch v.v. đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Ngày 22.8.1945 Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội thì tại miền Nam, lực lượng của Việt Minh chưa có gì nên Nhật đã giao chính quyền Nam Kỳ lại cho ông Trần Văn Ân, Chủ Tịch Hội Đồng Nam Kỳ.
Ngày 24.8.1945, Tổng Bộ Việt Minh cử Cao Hồng Lãnh và Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) từ Hà Nội vào Nam tăng cường cho Mặt Trận Việt Minh tại Nam Bộ và lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch. Ngày 7.9.1945, nhóm Đệ Tứ và các đảng Quốc Gia đứng lên chống lại Lâm ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu phải mở rộng cơ quan này, cho Phạm Văn Bạch làm Chủ Tịch. Một cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo được tổ chức tại Cần Thơ đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh của Việt Minh và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Cuộc đối kháng giữa các đảng phái quốc gia và Cộng Sản bắt đầu.
Ngày 13.9.1945 công an của Việt Minh do Lý Huê Vinh cầm đầu đi lục soát xóm Thơm lùng bắt các ông Vũ Tam Anh, Trần Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Bùi Quang Chiêu. Trước đó, vào ngày 9.9.1945 Trần Văn Giàu đã cho công an vây trụ sở của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để bắt Chủ Tịch của hội này là Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, nhưng không bắt được.
Ngày 16.9.1945 quân Pháp trở lại chiếm Saigon, tuyên bố không chấp nhận Lâm ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu, đuổi Lâm ủy Hành Chánh ra khỏi Dinh Gia Long. Trần Văn Giàu phải nhờ các ông Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Ký (tức Nguyễn Thị Sương) đứng ra lập ủy ban Ngoại Giao để thương lượng với Đồng Minh, nhưng không kết quả. Ngày 24.9.1945, các đảng phái quốc gia, trong đó có giáo phái Phật Giáo Hòa Hảo, đứng lên cùng Việt Minh hô hào chống Pháp. Trong khi Lâm Ủy Hành Chánh rút về Chợ Đệm thì các đảng phái quốc gia lập Ủy Ban Phong Tỏa Saigon gồm có Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà và Kha Vạn Cân. Ngày 27.9.1945, Dương Văn Giáo thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Chính phủ này bị Việt Minh chống đối mạnh mẽ.
Trước sự chống cự của các đảng phái quốc gia và Việt Minh, Pháp đã thương lượng với các đảng phái quốc gia và đề nghị hưu chiến để tìm một giải pháp tốt đẹp. Cuộc hưu chiến được bắt đầu từ 1.10.1945. Lợi dụng tình trạng đang hưu chiến để thương lượng với Pháp, ngày 8.10.1945, Trần Văn Giàu cho công an và bộ đội bao vây trụ sở và tư gia của các lãnh tụ đảng phái quốc gia, bắt các ông Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi quang Chiêu. Một số người bị hạ sát ngay. Các đảng viên nòng cốt của Đệ Tứ như Phạm Văn Hùng, Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái v.v đều bị bắt và đưa ra chôn sống ở Lòng Song thuộc tỉnh Bình Thuận. Cuộc chiến giữa các đảng phái quốc gia và Việt Minh bắt đầu.
Riêng Phật Giáo Hòa Hảo đã lập các khu kháng chiến tại miền Tây để chống Pháp lẫn Việt Minh. Việt Minh lợi dụng lòng yêu nước của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và của đồng bào, kêu gọi liên minh để kháng chiến. Việt Minh chiêu dụ một số người có uy tín của Phật Giáo Hoà Hảo tham giá Mặt trận Việt Minh như Sư thúc Mười Trí, tức Huỳnh Văn Trí, anh em kết nghĩa với Đức Thầy. Việt Minh cho gài người vào làm nội ứng và gây chia rẽ trong nội bộ của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo và gây tang tóc cho Giáo Hội này.
Ngày 21.9.1946, Đức Huỳnh Giáo Chủ quyết định thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng để kháng Pháp và đấu tranh chính trị. Việt Minh coi đây là một tổ chức phản động nên tìm cách tiêu diệt. Ngày 16.4.1947, Việt Minh giả vờ mở đại hội cao cấp của Ủy Ban Hành - Kháng Nam Bộ tại Đốc Vàng, mời Đức Thầy đến phó hội. Đức Thầy đã cùng với bốn cận vệ đi thuyền đến điểm hẹn. Đức Thầy lên bờ rồi cùng cận vệ đi tiến về phía có đám lửa báo hiệu như đã hẹn, thì đột nhiên nghe súng nổ hàng loạt. Đức Thầy đã bị ám hại, ba cận vệ của Ngài bị đâm chết, chỉ người lái thuyền nhảy được xuống nước bơi qua bên kia sông nên thoát chết.
Sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng bóng thì Mười Trí xuất hiện tại Thánh Địa như muốn thay thế Đức Thầy làm Giáo Chủ. Người ta loan tin "Đức Thầy vân du một thời gian, sẽ trở lại", trong thời gian chờ đợi, có lẽ Mười Trí "Quyền Giáo Chủ lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo". Nhưng âm mưu của Việt Minh không thành vì trong Giáo Hội lúc đó còn nhiều "hào kiệt như Lê Quang Vinh. Mười Trí lại bị mọi người nhìn bằng con mắt xoi mói nên không dám ở lại, phải đi vào mật khu của Việt Minh. Sau hiệp định Genève năm 1954, Mười Trí tập kết ra Bắc và trở lại miền Nam sau 30.4.1975, đã qua đời tại Saigon vào năm 1989.
Ám hại xong Đức Thầy, Việt Minh cho bộ đội và công an đi lùng bắt giết các lãnh tụ và cán bộ trung kiên của Phật Giáo Hòa Hảo. Khoảng 12.000 tín đồ Phật Giáo đã bị sát hại trong giai đoạn này. Riêng tại thôn Phú Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, người ta khám phá thấy ba hầm chôn tập thể trên 300 người. Nhưng lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo đã được tổ chức lại để chống Việt Cộng.
Sau ngày 30.4.1975, Việt Cộng triệt hạ toàn bộ cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo, từ trung ương đến địa phương, cấm Giáo Hội này không được hoạt động. Tất cả tài liệu Kinh Giảng đều bị tịch thu và cấm phổ biến các sách vờ và Kinh Giảng của Giáo Hội, bắt dẹp bỏ hình Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nơi công cộng cũng như ở tư gia. Một số lớn chức sắc và tín đồ của Giáo Hội bị giết, bị tuyên án tử hình, án tù hay quản thúc tại gia. Sau đây là một số vụ điển hình:
- Những chức sắc và tín đồ bị án tử hình: Nguyễn Văn Phụng, Nguyễn Đê, Huỳnh Văn Lầu (cựu Dân Biểu Quốc Hội), Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Văn Oanh, Lê Chân Tình, Nguyễn Văn Coi, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Út, Tô Bá Hộ. Riêng Nguyễn Thành Long, Hội Trưởng Phật Giáo Hòa Hảo Quận Cái Răng ở Cần Thơ đã bị bẻ cổ chết.
- Những chức sắc và tín đồ bị án chung thân : Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Trên, Trần Văn Dũng, và Tô Bá Hộ.
- Những chức sắc bị đưa đi cải tạo và đã chết trong ngục tù: Phạm Bá Cầm (Tổng Bí Thư Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng), Thiếu Tướng Lâm Thành Nguyên (tự là Hai Ngoán), Trịnh Quốc Khánh tự Chính Lễ, v.v. Riêng cụ Trần Hữu Duyên, sau một thời gian cải tạo đã được tha về, năm 1992 bị bắt lại và bị phạt 10 năm khổ sai khi cụ đã 70 tuổi.
Nhìn chung, Công Giáo, Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hoà Hảo đã nhận ra ngay từ đầu sự nguy hại của chủ nghĩa cộng sản vô thần và những sự tráo trở và phản bội của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nên đã không gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Các tôn giáo này đã lập các khu tự trị võ trang để chống Pháp và chống Việt Minh. Ở đâu có tín đồ Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, ở đó Việt Cộng không hoạt động được. Ngày 30.4.1975, trong khi một nhóm tăng sĩ Phật Giáo gốc miền Trung trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã tổ chức "mừng giải phóng" và coi sự thành công của Việt Cộng như sự thành công của chính họ thì các tín đồ Công Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo và đa số tín đồ Phật Giáo đã coi ngày này như một ngày đại tang chung của toàn thể đất nước và là một ngày đại tang riêng của Công Giáo, Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Ngày 30.4.1975 cũng đã được đặt tên là "Ngày Quốc Hận". Sự thiệt hại về nhân mạng và cơ sở vật chất ba tôn giáo này phải gánh chịu rất là nặng nề, những di sản tinh thần mà ba tôn giáo này để lại chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc làm sụp đổ chế độ cộng sản và đưa dân tộc đến ngày giải phóng thật sự.


Ghi chú Chương III:
1. Marx - Engels Tuyển tập tập 1 nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980 tr.14
2. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà Xuất Bản Sách Giáo Khoa Mác Lênin. 1978, tr. 206 - 207.
3. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 125.
4. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 44.
5. Những Lời Kêu Gọi của Hồ Chủ Tịch. nhà xuất bản Sự Thật, 1956 tập 1. trang 111.
6. Đoàn Độc Thư & Xuân Huy, Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1973, tr. 160 -161.
7. Thông Tấn Xã Việt Nam 7.7.1976.
8. Nguyễn Ngọc Lan. Nhật Ký 1989-1990 Tin, Paris 1993, tr. 109
9. Nguyễn Ngọc Lan. Nhật Ký 1990-1991, Tin, Paris 1993, tr. 236 - 237.
10 Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tập 1, Nhà Xuất Bản Sách Giáo Khoa Mác - Lênin, tr. 124.
11. Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tập 1. như đã dẫn trên, tr. 254.
12. Phi Loan, Phóng sự Đại Hội Cựu Chiến Sĩ Cao Đài. Tập san Đại Đạo Phổ Thông, số 1, tháng 4 năm 1993, tr. 40-48
13. Bạch Thư về vi phạm quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, Ủy Ban Vận Động Đòi Tự Do Tôn Giáo Tại Việt Nam, 1993, tr. 11

Chương IV

Cuộc thánh chiến đã và đang được phát động

Quan sát các cuộc thánh chiến của Phật Giáo từ 1963 đến nay, chúng ta thấy các cuộc thánh chiến này đều phát xuất từ Huế rồi lan rộng ra các tỉnh miền Bắc Trung Phần, nhất là thị trấn Quảng Trị và Đà Nẵng, rồi tràn nhẹ qua các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định .. khi đi vào miền Nam chỉ còn là cái ngọn. Thánh chiến của Phật Giáo phát xuất từ Huế và mạnh ở các tỉnh phía Bắc Trung Phần vì nhiều lý do. Sau đây là những lý do chính:

Trước hết, Huế là trung tâm phát triển mạnh nhất của Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc. Các nhà nghiên cứu của Pháp nhận thấy rằng phong trào chống Pháp mạnh nhất xuất phát từ Huế, đó là Phong trào Văn Thân. Phong trào này do các sĩ phu đạo Nho phát động. Sĩ phu của đạo Nho bao giờ cũng lấy "trung quân và “ái quốc” làm đầu. Vậy muốn vô hiệu hóa phong trào này, có hai công việc phải làm: Thứ nhất là tiếp tục duy trì triều đình Huế, nhưng vua phải là người của Pháp dựng nên. Khi vua đứng về phía Pháp thì các nhà Nho có lòng "trung quân" sẽ đi theo. Thứ hai là phát triển Phật Giáo mạnh, đưa sĩ phu vào con đường giải thoát của đạo Phật để vô hiệu hóa tinh thần phục quốc của nhà Nho.

Việc thiết lập các triều đại nhà Nguyễn đứng về phía Pháp, chính quyền thuộc địa đã làm xong ngay từ bước đầu. Việc “Phật Giáo hóa" Đông Dương được giao cho Toàn Quyền Pasquier khi ông trở lại nhận chức vào năm 1928. Các viên chức cao cấp Việt Nam của chính quyền thuộc địa đã được giao phó làm công việc này. Năm 1932, Bác Sĩ Lê Đình Thám lãnh trách nhiệm thành lập Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học ở Huế. Bác Sĩ Lê Đình Thám làm Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học, còn Hoà Thượng Thích Trí Độ được đưa từ Bình Định ra để làm Giám đốc Trường An Nam Phật Học. Các tổ chức Phật Giáo Huế, ngoài việc được Pháp khuyến khích còn có thêm thuận lợi thứ hai là được triều đình Huế bảo trợ. Bà Từ cung, mẹ của Vua Bảo Đại, rất sùng đạo Phật, sẵn sàng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phật Giáo phát triển. Rất nhiều học tăng ở Nam và Bắc được gởi tới học ở Trường An Nam Phật Học. Số học tăng thuộc ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam về đây học nhiều nhất vì các Hội Phật Học ở Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam đều do Bác Sĩ Lê Đình Thám lập ra. Năm 1945, hai nhà lãnh đạo cúa Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều đi theo Mặt Trận Việt Minh và giữ các chức vụ lớn. Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Chủ Tịch Trung Ương Hội Phật giáo Cứu Quốc, còn Bác Sĩ Lê Đình Thám trở thành Chủ Tịch Ủy Ban hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. Hai lãnh tụ này đi theo Việt Minh đã kéo các đệ tử đi theo như Thích Mật Thể, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Thiện Ân, Thích Minh Châu, Thích Mãn Giác, Võ Đình Cường, Tống Hoà Cầm, v.v.

Lý do thứ hai là hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên nằm tiếp giáp với vĩ tuyến 17 nên Việt Cộng nuôi dưỡng được khá nhiều cán bộ nằm vùng và chỉ huy trực tiếp nhóm này. Trong cuốn “Chiến trường Trị - Thiên – Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng” do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 1985, Việt Cộng cho biết sau khi chương trình tập kết ra Bắc vào năm 1954 kết thúc, họ đã để lại nằm vùng ở Quảng Trị 8.490 đảng viên và Huế khoảng 3.000 đảng viên. Chiến dịch tố Cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm đã làm tan rã các chi bộ của Cộng Sản được thiết lập từ thành thị đến nông thôn. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã tổ chức tại vùng này tất cả 53.710 lớp tố Cộng với 230.977 người tham dự. Sau các đợt tố Cộng đó, đã có 3.658 đảng viên bị bắt. Số đảng viên và những thành phần thân Cộng phải đi học chỉnh huấn lên đến 29.907 người qua 314 lớp. Khi chiến dịch tố Cộng được phát động mạnh, các cán bộ Cộng Sản phải rút vào núi hay đi ra Bắc.

Nhưng sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, một số đảng viên bị giam giữ được thả ra và số đảng viên đã tạm rút ra Bắc trước đây nay quay trở lại hoạt động, vì đây là địa bàn quen thuộc của họ và họ có rất nhiều thân nhân đang sống tại vùng này. Tài liệu trên cũng cho biết khu Trị-Thiên-Huế có 398 ngôi chùa, 9 Hoà thượng, 15 Thượng Toạ, 220 tăng ni và 80.000 Phật tử. Trước tháng 3 năm 1955, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Khu ủy Khu IV, nhưng sau đó được sát nhập vào Khu Ủy Khu V. Đến tháng 4 năm 1966, Khu Ủy Trị-Thiên-Huế được thành lập và trở thành khu biệt lập, trực thuộc Trung Ương. Vùng này do Trung Tướng Trần Văn Quang chỉ huy và Lê Tự Đồng, Bí thư Khu Ủy, lãnh đạo. Trong các cuộc đấu tranh, Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hoà Cầm đã nhận chỉ thị và kế hoạch của Khu ủy rồi đẩy Thượng Tọa Thích Trí Quang và phong trào tranh đấu đi.

Lý do thứ ba là lòng căm thù Thiên Chúa Giáo đã được Phong Trào Văn Thân ở Huế khơi lên để làm động lực đấu tranh từ thời Tự Đức, qua các thời Duy Tân, đến thời Hàm Nghi, (đáng lẽ Hàm Nghi phải đặt trước?) vẫn còn âm ỉ trong lòng một số thành phần cực đoan thuộc hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Trong thời kỳ này người Công Giáo bị tàn sát một cách dã man và vô cớ đến mức vua Tự Đức phải lên tiếng cảnh cáo. Lòng căm thù được ấp ủ đó đã bùng phát trở lại khi được các cán bộ Việt Cộng nằm vùng khơi động lên để làm động lực đấu tranh. Chế độ Ngô Đình Diệm đã được bọn cán bộ Cộng Sản nắm vùng và nhóm Phật Giáo Cực Đoan miền Trung đồng hóa với Thiên Chúa Giáo, và khi họ hô hào "diệt dư đảng Cần Lao" có nghĩa là diệt Công Giáo hay ít ra loại người Công Giáo ra khỏi chính quyền.

Trong bối cảnh như vậy, Việt Cộng đã tổ chức và điều động được nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đi vào mục tiêu của họ. Trong Đại Hội kỳ I của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1964, Nguyễn Hữu Thọ đã tuyên bố cuộc đấu tranh của Phật Giáo tại miền Nam không tách rời khỏi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tài liệu do Việt Cộng ấn hành sau 30.4.1975 cho thấy sau mỗi giai đoạn đấu tranh của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đều có bản kiểm điểm tổng kết của Khu Ủy Khu V hay Khu Ủy Trị - Thiên - Huế.

Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt trình bày diễn tiến của cuộc thánh chiến đã và đang được nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung phát động và những hậu quả mà các cuộc thánh chiến này đã đem lại cho Phật Giáo và dân tộc.

CUỘC THÁNH CHIẾN THỨ NHẤT:
LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM

MỘT VÀI HOẠT CẢNH

• Ngọn lửa Zippo


Ngày 11.6.1963, vào khoảng 10 giờ sáng, những người qua đường hiếu kỳ dừng chân lại đông đảo ở ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Sàigòn. Phía góc toà Đại sứ Cao Miên, bên lề đường Lê Văn Duyệt, một nhà sư mặc áo vàng ngồi trong thế kiết già lâm râm tụng niệm. Khi cảnh sát hay tin kéo tới thì 50 nhà sư khác mặc áo vàng vừa gõ mõ vừa tụng kinh bao quanh nhà sư ngồi ở góc đường, làm thành một vòng tròn lớn. Hai bình xăng nhỏ được đưa đến. Một người đứng đợi sẵn chụp lấy, rưới xăng lên người nhà sư đang ngồi trên lề đường, từ vai trở xuống, rồi mở chiếc Zippo bật lửa châm ngòi. Một đám cháy bùng lên cao khoảng 4 thước giữa tiếng kinh mõ vang rền. Các thông tín viên ngoại quốc được thông báo trước, đã có mặt tại chỗ, vửa chụp hình vừa quay phim. Ngày hôm sau, bản tin này cùng với hình ảnh được truyền đi khắp nơi trên thế giới.
Người bị thiêu là Hòa Thượng Thích Quảng Đức, một nhà sư trụ trì ở chùa Quan Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận, Gia Định, có tên thật là Lâm Văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà. Lúc đó ông được 65 tuổi.
Vụ thiêu người này được tổ chức rất hoàn bị. Hoà Thượng Thích Quảng Đức được chở đến địa điểm đã định sẵn bằng chiếc xe Austin, đi trên đường Phan Đình Phùng, từ hướng Duy Tân tới. Khi đến góc Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, xe giả vờ bị chết máy và ngưng lại, tất cả mọi người trên xe bước xuống, tài xế mờ coffre xe trước chống lên và lom khom xem máy, trong khi những người khác đưa Hòa thượng Quảng Đức đi qua bên kia đường và đặt vào vị thế đã định. Các sư tham dự cũng được chuyển bằng xe tới ngay sau đó, xuống xe và quây ngay một vòng tròn xung quanh Thích Quảng Đức. Hai bình xăng nhỏ được đem xuống và thực hiện đúng kế hoạch đã định. Mọi hành động đều được tiến hành một cách mau lẹ, cảnh sát không phản ứng kịp. Mục tiêu của vụ thiêu người này là làm áp lực cho những đòi hỏi của Phật Giáo trong các cuộc họp đang diễn ra giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ. Đây là chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" của Thượng Tọa Thích Trí Quang.
Khi thiêu Hòa Thượng Thích Quảng Đức xong, người ta thấy chiếc xe Austin mở coffre vẫn đang đậu bên kia góc đường, phía chợ Đủi. Các phóng viên nhận ra ngay chiếc xe đó là của Trần Quang Thuận. Những người chứng kiến nội vụ ngay từ đầu cho các ký giả biết người chờ Hòa Thượng Thích Quảng Đức đến địa điểm chỉ định, rưới xăng và bật lửa đốt vị sư đó là Nguyễn Công Hoan.
Nguyễn Công Hoan quê ở Tuy An, Phú Yên. Cha là một cán bộ Cộng Sản tập kết ra Bắc năm 1954. Về sau, Nguyễn Công Hoan trở thành dân biểu đơn vị Phú Yên thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do Phật Giáo đưa ra. Mặc dầu đã có vợ con ở Phú Yên, khi làm dân biểu, Nguyễn Công Hoan đã tằng tịu với cô Đoan Khánh, ký giả báo Trắng Đen. Cô này chuyên săn tin ở Thượng và Hạ Nghị Viện. Hai người lấy nhau và có một đứa con. Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao Nguyễn Công Hoan không đi học tập cải tạo như các dân biểu và nghị sĩ khác của Việt Nam Cộng Hòa. Nguyễn Công Hoan chỉ đi dự một khóa chỉnh huấn ngắn hạn mà thôi. Đến năm 1976, khi Nguyễn Công Hoan được Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra làm đại biểu Quốc Hội đơn vị Phú Khánh, người ta mới biết Nguyễn Công Hoan là cán bộ nội tuyến của Việt Cộng. Bỗng dưng đến năm 1980, Nguyễn Công Hoan vượt biên qua Phi Luật Tân, sau đó đến Hoa Kỳ được Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh giao coi sóc nhà xuất bản Lá Bối ở San José, California. Nguyễn Công Hoan đã đi giao dịch với nhóm Trương Như Tảng, Hoàng Văn Hoan trong khi làm việc ở nhà xuất bản này. Lai lịch của Nguyễn Công Hoan bị báo chí ở San José phanh phui. Bị tố cáo là thành phần phản gián, Nguyễn Công Hoan phải bỏ đi nơi khác. Sau 30.4.1975, Nguyễn Công Hoan và cô Đoan Khánh đã bỏ nhau. Cô Đoan Khánh cũng đã qua được Hoa Kỳ và hiện định cư ở Oregon.
Mọi việc thông tin cho các ký giả ngoại quốc đều do Đại đức Thích Đức Nghiệp và Trần Quang Thuận phụ trách. Đại đức Thích Đức Nghiệp là mối dây liên lạc chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và Phật Giáo trong thời gian hoạch định kế hoạch lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Mọi kế hoạch hành động đều được ông thông báo cho nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ.
• Mổ bụng, cắt cổ tự sát
Một hoạt cảnh thứ hai được ghi lại trong cuốn "Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử" của Hòa Thượng Thích Tuệ Giác. Đọc hoạt cảnh này, chúng ta có cảm tưởng như đang được đọc chuyện Phong Thần hay tiểu thuyết kiếm hiệp của Tàu. Câu chuyện xẩy ra ở Phan Thiết, được Hòa Thượng Thích Tuệ Giác kể lại như sau :
Lúc 5 giờ 15 sáng 17.10.1963, Tỳ Kheo Thích Pháp Quảng đi xích lô đến bia đài ở Phan Thiết, đứng quay về hướng Tây lạy ba lạy và niệm Phật chừng 3 phút. Xong phần nghi lễ, ông nằm ngửa xuống đất, gối đầu vào bậc cấp chót của bia đài, lấy thư tuyệt mạng đặt một bên, rồi rút dao ra rạch bụng. Câu chuyện được mô tả nguyên văn như sau :
"Thầy rạch lần thứ nhất từ trái qua phải cách rún chừng hai phân. Nhìn lại thấy chưa lủng thấu bụng. Thầy rạch lát thứ nhì từ hông trái đến rún, lần thứ ba từ rún ra hông phải, lần thứ 4 rồi lần thứ 5, nhưng da cứ dùn lại và đứt ra ngoài. Lần sau cùng, Thầy đưa cao tay đâm xuống chứ không rạch như lần trước. Nhưng lạ lùng thay da chỉ lún xuống, rạch (rách?) rất ít mà không lủng thấu ruột để Thầy cắt một khúc dâng lên cho vị Tổng Thống độc tài hầu thức tỉnh lòng người" .
Có lẽ thầy đã đem theo con dao quá cùn! Lúc đó thầy mới chỉ có 30 tuổi, da bụng còn mềm và săn, không hiểu tại thầy không rạch được. Mổ bụng để lấy khúc ruột "dâng lên cho Vị Tổng Thống độc tài" không được, Thầy tính chuyện cắt cổ :
"Mổ bụng không thành, Thầy quay ngược lưỡi dao lên cắt cổ, một tay giữ lấy cuống họng, một tay cầm dao cựa mạnh dưới xương quai hàm. Máu vọt nóng cả tay, xịt có vòi ra mang tai, bắn lên đầu, cuống họng đứt lìa. Thầy buông dao nằm chờ chết. "
"Thấy máu không còn vọt ra thành vòi, Thầy đưa tay móc những máu ứ vứt ra ngoài."(1)
Cắt đứt cuống họng, máu vọt có vòi một thời gian khá lâu mà thầy vẫn không chết. Con bò con heo bị cắt như thế thì chết mất rồi. Đúng là số thầy không chết vì Đạo pháp được. Cảnh sát tới đưa thầy vô bệnh viện may lại vết thương. Một tháng rưỡi sau thầy trở về chùa.
Đại Đức Thích Pháp Quảng có tên thật là Lê Tuất, sinh năm 1933 tại Bình Thuận, tu ở chùa Am Bát Nhã, Quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
Trên đây là một trong những hoạt cảnh được thuật trong các sách viết về lịch sử đấu tranh của Phật Giáo. Bằng những lối viết như thế, các "sử gia" đã viết vô số chuyện "tử vì đạo" xẩy ra khắp nơi trong nước.
NGÒI THUỐC SÚNG : HẠN CHẾ VIỆC TREO CỜ CÁC TÔN GiÁO
Ngày 7.5.1963, trước ngày lễ Phật Đản một ngày, dân chúng ở Huế đang sửa soạn mừng lễ thì cảnh sát Huế nhận được lệnh của Phủ Tổng Thống ra lệnh cho các tôn giáo chỉ được treo cờ tôn giáo trong phạm vi cơ sở tôn giáo mà thôi, ở ngoài các cơ sở này chỉ được treo cờ quốc gia. Vì vậy cảnh sát yêu cầu dân chúng bỏ cờ Phật Giáo phía bên ngoài các cơ sở tôn giáo đi. Lệnh này được ban hành sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu như là một biện pháp nhắm "triệt hạ" cờ Phật Giáo. Nhiều tín đồ Phật Giáo kéo tới gặp ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, yêu cầu giải quyết. Ông Nguyễn Văn Đẳng nói rằng cảnh sát đã hiểu lầm lệnh của cấp trên nên ra lệnh cho treo cờ lại.
Mặc dầu lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo đã được tạm thu hồi kịp thời, sáng hôm sau, 8.5.1963, trong cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm lúc 6 giờ 30, người ta thấy các biểu ngữ chống đối chính quyền đã được trương lên. Trong lễ Phật Đản được tổ chức tại chùa Từ Đàm, Thượng Tọa Thích Trí Quang đứng lên thuyết pháp đã phản đối mạnh mẽ quyết định cấm treo cờ Phật Giáo và yêu cầu thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo.
Tuy quyết định cấm treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo được áp dụng chung cho mọi tôn giáo, nhưng được công bố sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu là có mục đích nhắm vào Phật Giáo. Thật ra, quyết định hạn chế việc treo cờ tôn giáo của chính quyền không có lý do chính đáng, vì việc treo cờ tôn giáo khắp nơi không phương hại gì đến "sự tôn trọng quốc kỳ" cả. Một nguồn tin nói rằng quyết định hạn chế việc treo cờ này là ý kiến của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục ở Huế. Đây là một quyết định sai lầm của chính phủ Ngô Đình Diệm.
Những bí ẩn của vụ nổ trước Đài phát thanh Huế :
8 giờ tối 8/5/1963, một số đông đảo Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế yêu cầu phát thanh lại các bài thuyết giảng trong lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm vào buổi sáng, nhưng các nhân viên đài phát thanh từ chối vì trong đó có bài thuyết pháp của Thượng Toạ Thích Trí Quang chống đối chính quyền. Ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đã phải cùng Thượng toạ Thích Trí Quang đến đài phát thanh Huế để giải quyết vấn đề. Trong lúc hai bên đang nói chuyện thì có tiếng nổ lớn trước đài phát thanh Huế làm 7 thường dân chết, 1 thường dân và 5 binh sĩ bị thương.
Hôm sau, các tăng ni ở Huế đã loan báo đi khắp nơi rằng Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu khu Thừa Thiên đã ra lệnh bắn súng, ném lựu đạn và cho xe tăng cán lên các Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế, máu chảy lênh láng. Trong cuốn "Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử", Hoà Thượng Thích Tuệ giác có ghi như sau :
"Sau đó Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh đại bác bắn nhiều phát đạn mã tử. Phật Giáo đồ hoàn toàn náo động, tiếp đến là lựu đạn cay, lựu đạn nổ và súng trường bắn xả vào Phật Giáo đồ. Một số chen lấn chạy tháo lui, một số khác chen lấn chạy vào đài phát thanh núp trốn. Ông Tỉnh trưởng kêu gọi ngưng bắn nhưng Bảo An đã không tuân lệnh và còn cho xe thiết giáp tuôn chạy vào đám đông. Cuối cùng ông Tỉnh trưởng và Thượng Toạ Thích Trí Quang vào đài phát thanh : 15 sau, kiểm điểm lại, chúng tôi thấy đài phát thanh hư hại và (vài?) cánh cửa bên ngoài, và 3 xe Hồng Thập Tự chất đầy một số đông đạo hữu, máu me đầy người, chạy vào bệnh viện Huế.
"4 người bị thương và 8 người bị giết bằng súng, lựu đạn và xe thiết giáp cán. Trong số 8 người chết có 6 Thanh, Thiếu nhi, 2 em bị cán mất nửa đầu, một em bị cán mất đầu, xương sọ bị vụn tan không nhìn được mặt và một em bị mất hẳn đầu".(2)
Trong cuốn III của Bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) cũng ghi lại :
"Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An và Tiểu Khu Trưởng Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp Bảo An, đại bác quân cảnh, hiến binh và cảnh sát thành phố tới vây quanh đám quần chúng mà họ gọi là đám biểu tình...
"Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh bắn đạn mã tử khiến đám đông náo động. Lựu đạn cay, lựu đạn nổ được tung vào. Đồng thời súng trường và xe thiết giáp được xử dụng vào việc đàn áp. Lúc đó là đúng 9 giờ rưỡi tốị Tiếng la hét của quần chúng át cả tiếng súng và tiếng đạn.
"Một số người ra về nửa chừng nghe tiếng la hét và tiếng súng nổ, đã quay trở lại đài phát thanh để tìm hiểu. Họ bị các xe thiết giáp chận lạị Khi thiền sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng từ trong đài phát thanh ra tới thì máu đã đổ : 8 người đã thiệt mạng vì lựu đạn và 4 người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn. Một thiếu nhi khác bị cán mất nửa đầu và một em khác nữa mất hẳn đầu. Xe Hồng thập tự được gởi tới để mang những người bị thương về bệnh viện..."(3)
Cho đến nay, các sử gia PG đều cố tình viết theo chiều hướng đó. Chỉ riêng Hoà thượng Thích Tâm Châu đã trình bày vấn đề một cách dè dặt hơn. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, ông viết :
"Thông lệ, mỗi kỳ Phật Đản tại Huế, cuốn băng ghi lại buổi lễ Phật Đản được cho phát thanh lại trên đài phát thanh Huế vào 8 giờ tối. Năm nay, lễ Phật Đản, có đoạn ghi lại lời tranh đấu chống chính phủ, nên đài phát thanh Huế không dám phát. Quần chúng Phật tử quanh vùng Huế chờ đợi phát thanh về Phật Đản không được, lũ lượt kéo nhau tới đài phát thanh mỗi lúc một đông, chính quyền địa phương lo sợ về sự biểu tình, Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên kiêm Tiểu Khu trưởng ra lệnh giải tán. Đột nhiên có tiếng nổ, làm 8 em Phật tử chết và một số bị thương. Do đó trở thành cuộc đấu tranh lớn".
Sự thật như thế nào?
Các nạn nhân bị chết ngay sát góc cửa vào đài phát thanh. Đài phát thanh được xây trên một vị trí cao hơn đường phố, muốn lên đó phải leo mấy bậc tam cấp, xe tăng không leo lên được. Như vậy nói rằng Thiếu tá Đặng Sĩ cho xe tăng chạy cán qua đầu các nạn nhân là hoàn toàn bịa đặt.
Sau khi tai nạn xảy ra, Bửu Thắng, một công an viên gác đầu cầu Trường Tiền ở phía dưới, gần sát đài phát thanh, có báo cáo rằng anh ta thấy một vệt sáng chạy dài từ sát gốc bên phải đài phát thanh, bay qua trên đầu những người đang tụ tập, xéo xuống trước cửa đài phát thanh, sau đó là một tiếng nổ lớn phát ra. Khi các chuyên viên về võ khí tới xem hiện trường thì không lượm được mảnh chất nổ nào. Ở dưới nền nhà, sát góc cửa, có một lỗ thủng bằng cái chén. Các cửa kính của đài phát thanh đều bị vỡ, nhưng cửa gỗ vẫn còn nguyên vẹn. Các chuyên viên kết luận rằng đây là một chất nổ bằng hơi có sức công phá mạnh.
Người đã giải phẫu và khám tử thi các nạn nhân cũng như những người bị thương trong đêm 8/5/1963 là Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, "đồng chí" của Thượng toạ Thích Trí Quang trong Ủy Ban Bảo Vệ Hoà Bình năm 1954, đã xuống tóc để phản đối việc đàn áp Phật Giáo. Những điều của ông ghi trong biên bản khám nghiệm có thể tóm lược như sau: không có vết đạn, vết đả thương hay xe cán...trên cơ thể nạn nhân. Các nạn nhân đã bị chết hay bị thương do một chất nổ bằng hơi cực mạnh. Ngày 11/7/1963, Ủy Ban Liên Bộ đã thông báo cho Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo kết quả cuộc khám nghiệm và nói rằng các nạn nhân có thể đã bị chết do chất nổ của Việt Cộng. Nhưng phía PG không chấp nhận kết luận do Bác Sĩ Quyến đưa ra.
Trong phần ghi chú ở Chương XXXVIII của Bộ "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận", Tập III, Nguyễn Lang, tức Hoà Thượng Nhất Hạnh, có nói rằng Bác Sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc nên phải ký biên bản như trên.
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Tòa Án Cách Mạng được thành lập để xét xử vụ án Thiếu tá Đặng Sĩ. Trong phiên xử kéo dài từ 2-8/6/1964, các chuyên viên về vũ khí xác nhận chất nổ được xử dụng trong đêm 8/5/1963 trước đài phát thanh Huế là một chất nổ bằng plastic cực mạnh, quân lực Việt Nam Cộng Hoà chưa hề được cung cấp. Thỉnh thoảng Việt Cộng có xử dụng loại chất nổ đó, nhưng chưa thấy loại nào có độ mạnh như vậy. Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng xác nhận những điều ông ghi trong y chứng thư là hoàn toàn đúng sự thật. Thế thì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ, ai ép buộc Bác Sĩ Quyến mà ông đã khai trước Toà Án Cách Mạng như vậy?
Ngày 25/10/1963, do lời yêu cầu của Đại Đức Thích Nhất Hạnh, một ủy ban Liên Hiệp Quốc đã đến Việt Nam điều tra về vụ Phật Giáo. Trong cuốn No More Vietnams, cựu Tổng Thống Nixon cho biết sau khi điều tra tại chỗ, ủy ban xác định rằng các nạn nhân bị chết không phải do lựu đạn mà do một chất nổ plastic, một loại vũ khí Việt Cộng thường dùng. Các chuyên viên về chất nổ còn cho biết ngoài đặc công Việt Cộng thì CIA cũng xử dụng loại chất nổ này, nhưng chỉ trao cho các biệt kích trước khi lên đường ra Bắc để phá hoại các cầu cống và cơ sở quân sự của Bắc Việt mà thôi. Đây là loại vũ khí mà Mỹ chưa giao cho Quân lực Việt Nam Cộng Hoà xử dụng tại miền Nam.

Trong phiên tòa xử vụ Đặng Sĩ, ông Đặng Phong, Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên, đã tiết lộ rằng cuộc điều tra của Cảnh sát sau vụ nổ cho thấy 2 nhân viên của cơ quan tình báo Hoa Kỳ là Scott (người điều hành cơ quan CIA tại Thừa Thiên lúc đó) và Bell (người tổ chức các chương trình đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc ở phía Bắc Trung Phần) có dính líu đến vụ cung cấp chất nổ này. Ông Mullen, Phó Lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế, đã liên lạc thường xuyên với Thượng toạ Thích Trí Quang ở chùa Từ Đàm, còn ông Elble, Lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế, thường đi theo các cuộc biểu tình của Phật Giáo và công khai chống chính phủ Ngô Đình Diệm.
Căn cứ vào sự mô tả của Bửu Thắng thì trái chất nổ bằng plastic đã được châm ngòi rồi ném vòng tròn qua đầu đám biểu tình đang đứng trên bậc thềm, và rơi ngay góc cửa ra vào của đài phát thanh. Nếu trái plastic rơi vào một khoảng trống thì chỉ phát ra tiếng nổ chứ không gây tác hại nào cả. Nhưng khi trái plastic đã rơi vào sát góc tường của cửa ra vào, xung quanh lại có người đứng chen chúc chật ních, tạo thành sức ép nên mới công phá mạnh như thế.
Các nhà phân tích đều tin rằng chính phủ Ngô Đình Diệm, dù có loại chất nổ đó trong tay, cũng không ngu dại gì đem ra xử dụng trong trường hợp này để tự gây họa cho mình. Trên thế giới, người ta chưa bao giờ thấy một cơ quan công lực nào dùng chất nổ plastic để dẹp biểu tình. Vậy chỉ có cơ quan CIA, Việt Cộng hoặc phe đấu tranh đã gây ra vụ vấy máu đó để giáng tai hoạ cho chế độ Ngô Đình Diệm mà thôi.
Luật sư Nguyễn Khắc Tân, người biện hộ cho Thiếu tá Đặng Sĩ, đã nghiên cứu hồ sơ vụ án Đặng Sĩ rất kỹ. Tôi cũng có dịp được xem hồ sơ vụ án này. Thiếu Tá Đặng Sĩ đồng ý với chúng tôi rằng những điều ghi trong bản cáo trạng của Tòa Án Cách Mạng là đúng sự thật. Xe thiết giáp được xử dụng là xe thiết giáp bánh cao su chứ không phải xe thiết giáp bánh bằng xích sắt. Thiếu Tá Đặng Sĩ chỉ ra lệnh dùng vòi xịt nước để giải tán cuộc biểu tình và dùng súng bắn bằng đạn mã tử gây tiếng nổ để áp đảo tinh thần mà thôi. Không hề có chuyện dùng súng có đạn thật, lựu đạn nổ hay cho xe tăng cán nát đầu các nạn nhân như các tăng sĩ chùa Từ Đàm đã công bố.
Giả thiết các nạn nhân bị chết do mảnh lựu đạn hay do đạn "đại bác" như các tăng sĩ chùa Từ Đàm tố cáo đi nữa, theo nguyên tắc của hình luật, chỉ có thể kết tội bị cáo khi nào chứng minh được chính bị cáo đã ném lựu đạn hay bắn "đại bác" gây nên sự chết chóc, hoặc chính bị cáo đã ra lệnh cho thuộc cấp làm điều đó. Không chứng minh được có sự liên hệ trực tiếp giữa nguyên nhân và hậu quả thì cũng không thể kết tội được. Không thể loại trừ nghi vấn có một đệ tam nhân cố tình gây chết chóc để kích động quần chúng.
Một nguyên tắc về xét xử đã có trên 20 thế kỷ mà hiện nay vẫn được áp dụng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới là "In dubio, pro reo", có nghĩa là trong trường hợp có sự nghi vấn, phải tha bổng bị cáo. Ấy thế mà trong phiên tòa ngày 8/6/1964, mặc dầu hiện trạng hồ sơ và cuộc phỏng vấn tại phiên tòa cho thấy không có bằng chứng nào để buộc Đặng Sĩ về tội cố sát, nhưng Tướng Nguyễn Khánh vẫn ra lệnh cho Tòa Án Cách Mạng tuyên án Thiếu tá Đặng Sĩ chung thân khổ sai và bồi thường cho gia đình nạn nhân 1,300,000$. Tuy nhiên, trước khi Tòa Tuyên Án, Chuẩn tướng Albert Nguyễn Cao, đại diện Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, có đến thông báo cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình, Linh mục Trần Tử Nhãn ở Dòng Chúa Cứu Thế và gia đình Đặng Sĩ biết đừng quan tâm đến bản án tòa sẽ tuyên đọc. Tòa chỉ tuyên để thỏa mãn những đòi hỏi của Phật Giáo mà thôi (!!). Trong một thời gian ngắn, khi tình hình lắng dịu, Đặng Sĩ sẽ được trả tự do.
Nhưng Đặng Sĩ đã phải chịu ngồi tù oan đến 3 năm, 8 tháng, 10 ngày mới được phóng thích, vì phải đến năm 1967, phong trào Phật Giáo miền Trung mới được dẹp tan!
Tục ngữ Tây phương có câu "Khi chính trị đi vào pháp đình thì công lý đi ra." Trong trường hợp này cũng có thể nói: "Khi tôn giáo đi vào pháp đình thì công lý cũng bỏ chạy!"
CÁI THẾ GIẰNG CO
• Tuyên ngôn 5 điểm của Phật Giáo :
Sau biến cố đêm 8/5/1963, Phật Giáo phát động chiến dịch kích động quần chúng để đấu tranh. Ngày 10/5/1963, các nhà lãnh đạo Phật Giáo ở Huế họp tại chùa Từ Đàm và ra một tuyên ngôn gồm 5 điểm, nguyên văn như sau :
- Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ Phật Giáo.
- Yêu cầu Phật Giáo phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ Số 10.
- Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật Giáo.
- Yêu cầu cho tăng ni Phật Giáo tự do truyền đạo và hành đạo.
- Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.
Tuyên ngôn này do 5 tông phái sau đây đứng tên : Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, Hội Phật Giáo tại Trung phần, Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên và Tỉnh Hội Phật Giáo Thừa Thiên.
Nhìn 5 nguyện vọng này của Phật Giáo, ai cũng thấy việc giải quyết không có gì khó khăn :
- Quyết định hạn chế treo cờ tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo có thể được thu hồi hay sửa đổi lại dễ dàng. Sau khi xảy ra vụ rối loạn ở Huế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm có mời ông Mai Thọ Truyền và một linh mục đại diện Tòa Tổng Giám Mục Saigon đến họp tại Dinh Gia Long để thảo luận. Tổng Thống Diệm nói rằng trong mọi trường hợp, cần phải dành cho quốc kỳ một vị thế xứng đáng. Vậy phải quy định cách treo cờ như thế nào để quốc kỳ luôn được tôn trọng. Linh mục đại diện Công giáo đề nghị khi treo song song cờ tôn giáo với quốc kỳ thì nên làm cờ tôn giáo nhỏ hơn chút. Tổng Thống Diệm yêu cầu ông Mai Thọ Truyền cho ý kiến, thì ông Mai Thọ Truyền trả lời rằng bên Công giáo làm thế nào thì bên Phật giáo cũng làm như vậy. Vấn đề kể như đã giải quyết xong.
- Dụ Số 10 ngày 6/8/1950 ấn định thể lệ lập hội do Bảo Đại ban hành chứ không do chính phủ Ngô Đình Diệm. Dụ này có dự liệu rằng sẽ có các thể lệ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa Giáo cùng các Hoa Kiều Lý Sự Hội. Dụ này sở dĩ không đề cập đến các tôn giáo khác vì tại Việt Nam, từ trước cho đến ngày ban hành Dụ đó, các tôn giáo khác không lập thành Giáo hội. Đặc biệt, Phật Giáo lại có rất nhiều tông phái, mỗi tông phái có một lối sinh hoạt riêng, rất khó tiến tới một giáo hội duy nhất. Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập ngày 6/5/1951 tại Huế sau khi Dụ Số 10 ban hành, cũng chỉ mới dự liệu sẽ thống nhất Phật Giáo chia làm hai giai đoạn, chứ chưa thống nhất thật sự. Trong tình trạng như thế, Dụ Số 10 của Bảo Đại không đề cập đến Phật Giáo là chuyện không đáng ngạc nhiên. Riêng Thiên Chúa Giáo đã lập thành giáo hội từ lâu. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được chia thành từng giáo phận, mỗi giáo phận lại được chia thành các giáo xứ có địa hạt rõ ràng. Về phương diện tổ chức nội bộ, Giáo hội La Mã có một bộ giáo luật (canon) chung cho tổ chức giáo hội trên toàn thế giới. Mỗi giáo phận lại có luật giáo phận (directory) dành cho địa phương theo mẫu hướng dẫn của tòa thánh. Các đơn vị tổ chức này có cơ cấu hành chánh và tài chánh chặt chẽ, nên cần có một quy chế pháp lý để việc điều hành không bị lạm dụng. Các Hoa Kiều Lý Sự Hội cũng đã có cơ cấu tổ chức từ lâu. Do đó, Dụ Số 10 dự liệu sẽ có một quy chế riêng cho Thiên Chúa Giáo và các Hoa Kiều Lý Sự Hội. Nếu lúc đó Phật Giáo đã có một giáo hội thì Dụ Số 10 cũng đã đề cập tới.
Tuy Dụ Số 10 có dự liệu như thế, nhưng sau 13 năm, quy chế áp dụng cho Thiên Chúa Giáo nói trong Dụ số 10 vẫn chưa được ban hành. Vậy không có lý do gì chính đáng để Phật Giáo suy tỵ với Thiên Chúa Giáo, vì cái "quyền lợi" mà Phật Giáo suy tỵ chưa có trong thực tế. Đáng lẽ ra, Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo chỉ nên đề nghị làm một quy chế chung cho mọi tôn giáo thay vì chỉ làm riêng cho Thiên Chúa Giáo như đã dự liệu trong Dụ Số 10 thì hợp lý hơn, vì Phật Giáo đang hình thành một giáo hội.
Quan niệm quy chế tôn giáo là một thứ "quyền lợi" cũng là một quan niệm sai lầm. Kinh nghiệm cho thấy, sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, một số Giáo phái Phật Giáo đã vội thành lập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, biểu quyết một Hiến Chương vào ngày 4/1/1964, rồi ép buộc Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phải duyệt y Hiến Chương đó bằng một đạo luật, đó là Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tuyên bố đã được mãn nguyện. Nhưng xét về hiệu quả pháp lý, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có được hưởng quyền lợi gì hơn Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bị chi phối bởi Dụ Số 10 không? Chắc chắn là không? Trái lại, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý không giải quyết được do các văn kiện đó gây ra và cuối cùng bị vỡ ra làm hai. Trong khi đó, quy chế dành riêng cho Thiên Chúa Giáo dù chưa được ban hành nhưng Giáo Hội Công Giáo vẫn càng ngày càng vững mạnh và thấy không cần phải đòi hỏi một quy chế nào cả. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, Giáo Hội Công Giáo không có quy chế đặc biệt như Phật Giáo vẫn tiếp tục tồn tại. Trái lại, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang, có quy chế đặc biệt, vẫn bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh.
Hiện nay, ở Việt Nam đang có một quy chế chung cho các tôn giáo, đó là Nghị Định số 69-HDBT ngày 21/3/1991, nhưng các giáo hội không những không hưởng được "quyền lợi" gì do quy chế đó đem lại mà còn bị khốn khổ vì quy chế đó.
Sự tồn vong và phát triển của một tôn giáo không tùy thuộc vào quy chế do thế quyền ban hành mà tuỳ thuộc vào tín lý, tổ chức và lòng tin của tín đồ.
Tóm lại Dụ Số 10 do Bảo Đại ban hành năm 1950 không hề mang màu sắc kỳ thị tôn giáo và không gây ảnh hưởng gì tới sự phát triển và tồn vong của Phật Giáo.
Vấn đề đòi hỏi để các tăng ni tự do hành đạo và truyền đạo là một đòi hỏi không có căn bản thực tế. Trong 100 năm qua, ngoại trừ dưới chế độ Cộng sản, người ta chưa hề thấy bất cứ một chính phủ nào tại Việt Nam, kể cả dưới thời Pháp thuộc, ngăn cản không cho Phật Giáo hành đạo và truyền đạo. Hoà Thượng Thích Tuệ Giác đã chẳng ghi nhận trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử rằng từ 1920 đến 1956 là thời kỳ hưng thịnh của Phật Giáo sao? Từ 1956 đến 1964, sự phát triển của Phật Giáo được ghi nhận trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang (tức Hoà Thượng Nhất Hạnh): chùa chiền được xây nhiều hơn, các khoá đào tạo học tăng được mở liên tục, lễ Phật Đản được tổ chức to hơn, số tăng ni gia tăng một cách nhanh chóng... Tất cả những sự phát triển này chúng tôi đã đề cập ở Chương I.
Việc xác định trách nhiệm trong biến cố đêm 8.5.1963 trước Đài phát thanh Huế, chúng tôi đã trình bày rõ ở trên. Chúng tôi tin rằng các tăng sĩ chùa Từ Đàm thừa biết các vấn đề nêu trên, nhưng họ vẫn cố làm to chuyện để có lý do đòi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là "chế độ Thiên Chúa Giáo". Động lực đấu tranh chính vẫn là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của Phật Giáo thì Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đã chấp nhận một cách nhanh chóng, vì những đòi hỏi đó phù hợp với tình trạng thực tế đang có.
• Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ :
Một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đã được thành lập ngày 15/5/1963 do Thượng toạ Thích Tâm Châu làm Chủ tịch. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban Liên Phái họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của Phật Giáo. Sau đó là những cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đã xử dụng Cảnh sát Dã chiến để ngăn chặn các cuộc biểu tình và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.
Khi cuộc tranh đấu của Phật Giáo ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đòi hỏi của Phật Giáo. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn Phật Giáo gồm có các Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Tâm Châu, Thích Thiện Hoa, Thích Huyền Quang, và Thích Đức Nghiệp. Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm Trưởng đoàn.
Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Võ Đình Cường cho áp dụng chiến thuật "vừa đánh vừa đàm" để đạt thắng lợi tối đa. Các chiến dịch biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơi. Vụ tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức trong khi đôi bên đang họp cũng nằm trong chiến thuật "vừa đánh vừa đàm"này.
Sau khi tin Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết từ Huế vào Saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời Hoà Thượng họp với Ủy Ban Liên Bộ, nhưng Ủy Ban Liên Phái thấy rằng đưa Hoà Thượng đi thương thuyết không có lợi vì Hoà Thượng quá hiền lành và ngay thật, nên Thượng Tọa Thích Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, Hoà Thượng đang mệt, không họp được. Ngày 14/6/63, Ủy Ban Liên Bộ và Ủy Ban Liên Phái họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. Vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên hai Ủy Ban đã họp ngày họp đêm trong suốt ba ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả hai Ủy Ban đã ký kết một thông cáo chung gồm những điểm sau đây :
- Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ Phật Giáo : Cờ Phật Giáo khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.
- Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.
- Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của Phật Giáo.
- Bảo đảm quyền tự do truyền đạo và hành đạo của Phật tử.
- Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
Thông cáo chung vừa được ký xong thì Ủy Ban Liên Phái vội đưa về cho Hoà Thượng Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi ký tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nhìn thấy chữ ký của Hoà Thượng Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầu. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm vẫn cầm viết và phê một cách ngon lành :
"Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu".
Các sử gia Phật Giáo cho đây là một thắng lợi của Phật Giáo. Tất cả nguyện vọng của Phật Giáo đều được chấp thuận.
• Trò ảo thuật mới của Thượng Tọa Thích Trí Quang :
Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày thì nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung cho phổ biến một "mật điện" nói là mới bắt được. "Mật điện" đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63, được nói là do ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống đánh đi. "Mật điện" được công bố có nội dung như sau :
"Để tạm thời làm êm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và Phật Giáo phản động, Tổng Thống và ông Cố Vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi nhận hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gửi đến sau. Ngay từ bây giờ hãy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới. Hãy theo dõi điều tra, thanh trừng những phần tử Phật Giáo bất mãn và trình thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp".
Đọc lối hành văn và các cụm từ được xử dụng trong "mật điện", các công chức chính phủ đều nhận ra ngay đó là một mật điện giả. Không bao giờ công điện của một cơ quan chính phủ được viết như thế. Các cụm từ "khí thế đấu tranh quyết liệt", và "bọn Tăng Ni và Phật Giáo phản động" chưa bao giờ được dùng trong bất cứ loại công văn nào của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Các cụm từ này chỉ có trong các chỉ thị của Việt Cộng. Người thảo "mật điện" chắc chắn không phải là một công chức lành nghề của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Qua các cụm từ và lối hành văn được xử dụng trong "mật điện", chúng ta có thể xác quyết đây là một "mật điện" giả do một đặc công Việt Cộng nằm vùng sáng chế ra, với lối viết quen thuộc của họ, nhưng rất xa lạ đối với các công chức miền Nam Việt Nam. Có người nghi ngờ "mật điện" này do Võ Đình Cường và Tống Hòa Cầm soạn. Hai anh này không biết gì về cách viết văn thư hành chánh nên soạn bừa. Phủ Tổng Thống đã ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn "mật điện" đó.
Tại sao không làm văn thư giả mà làm "mật điện" giả ? Làm giả một văn thư thường rất khó, vì phải có chữ ký của giới chức liên hệ và con dấu. Làm con dấu giả và ký chữ ký giả, khi giảo nghiệm sẽ khám phá ngay. Nếu ráp nối chữ ký và con dấu thật vào dưới công văn giả rồi chụp bản sao thì sự phát hiện còn dễ dàng hơn vì lúc đó kỹ thuật in bản sao chưa tinh vi như bây giờ, và ngay cả khi đã có kỹ thuật in bản sao tinh vi, các cơ quan giảo nghiệm cũng phát hiện được. Giả một công điện dễ hơn, vì trên công điện thời đó không có chữ ký và con dấu. Sau đó, cơ quan đã gởi công điện phải gởi bản chính có chữ ký và con dấu tiếp theo để xác nhận. Vì thế người làm công chứng thư giả nói trên đã không dám làm văn thư mật mà làm "mật điện" giả !
Sau này, khi ông Quách Tòng Đức về làm Đổng Lý Văn Phòng tại Bộ Tư Pháp, tôi có dịp nói chuyện với ông nhiều lần và có hỏi lại ông về bức "mật điện" nói trên, ông cười và hỏi lại tôi : "Nếu giao cho anh soạn một công điện, anh có viết như thế không?"
Sau khi tài liệu giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đình Nhu hiểu rằng nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung không ngừng ở đây. Nhóm này đang cố tạo lý do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đổ chính phủ. Lý do mới đó là "chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung". Bằng chứng là cái "mật điện" giả được tung ra. Sau một thời gian cãi qua cãi lại về "mật điện", Thượng Tọa Thích Trí Quang cho phát động một cuộc đấu tranh mới yêu cầu chính phủ "thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung". Cuộc đấu tranh cũng gồm đủ cả biểu tình, tuyệt thực và tự thiêu như trước!
Rất bực mình trước thủ đoạn này, Ngô Đình Nhu tìm cách lật lại thế cờ. Ngày 20.6.1963, ông yểm trợ cho Hòa Thượng Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi ông giúp cho Hòa Thượng Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu tình trước chùa Xá Lợi vào ngày 23.7.1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính trị. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung Còn, Hội Trưởng Trung ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa Phật Giáo phá rối trật tự công cộng. Các Tỉnh Trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái Phật Giáo khác như Phật Giáo Lục Hoà Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiến nghị ủng hộ đường lối của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trong nước v.v. Đến giai đoạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lãnh tụ Phật Giáo chống đối. Nhưng ông không đề phòng nổi mạng lưới mà cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tung ra đằng sau những biến cố đó.

SỰ CAN THIỆP CỦA HOA KỲ
Hoa Kỳ đã quyết định thay thế Tổng Thống Ngô Đình Diệm kể từ năm 1960, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó Tổng Thống Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam Việt Nam và thiết lập các căn cứ quân sự. Vụ Phật Giáo là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định này.
• Âm mưu của Hà Nội
Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại Hội Đảng lần thứ ba vào tháng 9 năm 1960, Hồ Chí Minh tuyên bố công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc coi như đã hoàn thành trên cơ bản. Giai đoạn tới là giai đoạn giải phóng miền Nam. Sau đó, Đại Hội III ra Nghị Quyết tuyên bố :
"Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết của toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam."
Thi hành nghị quyết này, Hà Nội cho lập tại miền Nam một tổ chức bù nhìn được mệnh đanh là "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" do Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch. Trong lễ ra mắt vào ngày 20.12.1960, Mặt Trận đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết nói trên, có đoạn như sau : "Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ." (4) .
Một chiến dịch được đặt tên là Đồng Khởi đã được phát động khởi sự từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam Việt. Trước tình thế này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã yêu cầu Tổng Thống Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam Việt Nam để chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản.
• Đòi thiết lập các căn cứ quân sự Mỹ.
Ngày 5.5./960, trong một cuộc họp báo, Tổng Thống Kennedy tuyên bố rằng tình hình miền Nam Việt Nam đang nguy ngập và nếu cần, ông "sẽ cứu xét việc đưa quân đội Hoa Kỳ đến Việt Nam để chống lại các cuộc tấn công của Cộng Sản."
Tổng Thống Kennedy đã đưa ra lời tuyên bố đó khi chưa có lời yêu cần nào của chính phủ Ngô Đình Diệm về vấn đề này. Ngày 9/5/1960, một phái đoàn của Tổng Thống Hoa Kỳ do Phó Tổng Thống Johson cầm đầu đã đến miền Nam Việt Nam trong 4 ngày để quan sát tại chỗ và hội đàm với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/1960, có sự hiện của ông Nolting, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Phó Tổng Thống Johnson có đề nghị với Tổng Thống Ngô Đình Diệm để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam Việt Nam, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm tỏ ra do dự. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Genève 1954 để có lý do hòa hoãn. Điều này quy định :"Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; hai bên cam đoan rằng vùng thuộc về họ không gia nhập một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược".
Phó Tổng Thống Johnson tỏ vẻ không bằng lòng về sự từ chối này.
Ngay sau đó, trong ngày 12/5/1960, Đại sứ Nolting đã gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau: "Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và Phó Tổng Thống Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào Việt Nam. Ông Diệm đã nói với Phó Tổng Thống rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ đến Việt Nam, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược". Ông cho Bộ Ngoại Giao biết ông cần sự hướng dẫn của Washington trong vấn đề này.
Phó Tổng Thống Johnson vừa rời Việt Nam vào ngày 13/5/1960 thì ngày 15/5/1960, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gởi ngay cho Tổng Thống Kennedy một văn thư nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa hai bên và nói :"Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quý quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng".(5)
Qua văn thư này, rõ ràng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam. Washington không hài lòng về sự từ chối đó, nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội Việt Nam Cộng Hòa không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của Cộng Sản. Tình hình quân sự ngày càng xấu đi.
Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho tình hình quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Ngô Đình Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự

• Cái bẫy sập được đưa ra :

Biến cố Phật Giáo là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ý định lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên lúc đó có nói với tôi về những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế với Thượng toạ Thích Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Lê Văn Dư. Các lần sau, các viên chức Lãnh sự Mỹ tự liên lạc lấy. Ông có cho công an theo dõi. Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên tình báo Hoa Kỳ, Thượng Tọa Thích Trí Quang càng ngày càng làm mạnh hơn.
Để có lý do hành động, Tổng Thống Kennedy đã gởi hai đặc sứ qua Việt Nam cùng lúc để điều tra vụ Phật Giáo. Hai đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngoại giao Mendenhall. Hai người làm hai bản phúc trình khác biệt nhau khiến Tổng Thống Kennedy lúng túng. Tháng 10 năm 1963,Tướng Edward Landsdale, nguyên cố vấn của chính phủ Ngô Đình Diệm trước đây, lại được Tổng Thống Kennedy cử đi điều tra thêm. Sau khi tìm hiểu tại chỗ, Tướng E. Landsdale làm một báo cáo nói rằng nên thương lượng với chính phủ Ngô Đình Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ Ngô Đình Diệm, tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn, vì không thể tìm được một người có khả năng để thay thế. Báo cáo này làm Tổng Thống Kennedy giận dữ. Ông đang cần một báo cáo nói phải thay Ngô Đình Diệm để dễ giải thích với dư luận về quyết định của Washington. Tướng E. Lansdale không hiểu ý, hoặc không muốn báo cáo trái với sự thật, nên không đáp ứng được yêu cầu của ông. Từ đó, ông không muốn nói chuyện với E. Lansdale nữa!

• Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh :

Để thực hiện cuộc đảo chánh, Washington nghĩ ngay đến một chuyên viên đảo chánh là Henry Cabot Lodge. Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts (đã chết năm 1985), tốt nghiệp Đại học Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó Tổng Thống năm 1960. Ông đang ở Honolulu thì được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/1963, ông trình ủy nhiệm thư lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Khi Henry Cabot Lodge đến Việt Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm đã biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên Ngô Đình Nhu đã cho vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để đánh lừa các tướng định đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh Quân đoàn III. Nhưng Tướng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.
Sau khi trình ủy nhiệm thư xong, Henry Cabot Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (tức CIA) của Mỹ tại Việt Nam thời đó. Lucein Conein sinh ở Pháp, đã từng nhảy dù xuống Việt Nam năm 1944 trong tổ chức tình báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lãnh Việt Nam. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của ông trong 18 năm qua. Tướng Trần Văn Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bệnh ung thư tại Mỹ. Conein đã móc nối không có gì khó khăn với các tướng Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Lê Văn Kim... để thuê làm đảo chánh.
Trong cuốn "Our Endless War Inside Việt Nam", Tướng Đôn kể lại rằng hôm 2/10/1963 khi lên đường đi Nha Trang ông đã gặp Lucien Conein tại phi trường Tân Sơn Nhất. Ông rất ngạc nhiên khi thấy Lucien Conein theo ông ra tận máy bay. 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/1963, Lucien Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn việc này. Tướng Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Hoa Kỳ trong việc tổ chức đảo chánh. Cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa Lucien Conein và Tướng Minh xảy ra vào ngày 10/10/1963. Lucien Conein muốn có chi tiết của kế hoạch đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Tướng Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam liên hệ tới đảo chánh phải qua tướng Minh.
Trong khi Conein và các tướng lãnh hoạch định kế hoạch đảo chánh thì Đại Sứ Cabot Lodge giả làm áp lực đòi Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải loại bỏ bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu và bà vợ. Ông cho biết nếu ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chịu loại bỏ, Hoa Kỳ sẽ ngưng viện trợ. Ông cũng chỉ thị khuyến khích Phật Giáo gia tăng bạo động.
Ngày 10/9/63, bà Ngô Đình Nhu dẫn một phái đoàn dân biểu đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu và Mỹ Châu "giải độc".
Ngày 25.10.1963, Đại Sứ Cabot Lodge đã gửi cho ông McGeorge Bundy, Phụ Tá Đặc Biệt của Tổng Thống Kennedy chuyên trách về an ninh, một bản báo cáo trình rõ rằng CAS "vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôi. Tôi đã đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Tướng Đôn và Conein, người đã thi hành mệnh lệnh của tôi rất xuất sắc trong mọi trường hợp..."(7)

• Một trò chơi nguy hiểm

Trước tình thế này, Ngô Đình Nhu đã tìm cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Ngô Đình Nhu đã mời ông Meiczlaw Manelli, Trưởng Phái Đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại Sứ Pháp là Roger Lalouette, đưa đề nghị mở một cuộc tiếp xúc giữa hai bên. Bắc Việt chấp nhận ngay. Ông Ngô Đình Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao Nguyên rồi nửa đường rẽ xuống rừng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ xác nhận với tôi cuộc gặp gỡ này xẩy ra ở Tánh Linh chứ không phải ở Nha Trang như các tài liệu khác đã nói. Trong cuộc gặp gỡ, hai bên đã đồng ý tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong hòa bình. Sau khi tiếp xúc với đại diện Bắc Việt, ông Ngô Đình Nhu cố ý tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho Washington.
Song song với những tiết lộ của Ngô Đình Nhu, Tổng Thống De Gaulle lên tiếng kêu gọi loại bỏ "ảnh hưởng ngoại quốc" ra khỏi Việt Nam, còn Hồ Chí Minh lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được hai bên thỏa thuận.
Thật ra, trong năm 1963, Đại Sứ Lalouette đã đưa một kế hoạch ba giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhau. Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Toà Đại Sứ Pháp - Hà Nội. Ông Ngô Đình Nhu đã hội kiến với Manelli hai lần, lần thứ nhất vào ngày 25.8.1963 tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa và lần thứ hai vào ngày 2.9.1963 tại phòng đọc sách của ông.(8) Chuyện này cơ quan tình báo Hoa Kỳ đều biết rõ. Nhưng hành động của ông Ngô Đình Nhu lần này đã làm cho Washington tức giận hơn. Tổng Thống Kennedy bật đèn xanh cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.

• Thực hiện cuộc đảo chánh

Ngày 29.10.1963, Đại Sứ Henry Cabot Lodge thông báo cho Washington biết cuộc đảo chánh đã được chuẩn bị xong và nói rằng "Hoa Kỳ không nên cũng như không thể ngăn chận cuộc đảo chánh được nữa, trừ phi đi báo tin cho ông Diệm và ông Nhu biết, đây là một hành động sẽ đem lại ô nhục cho Hoa Kỳ". Sau đó ông tuyên bố sẽ về Washington báo cáo tình hình. Báo chí Saigon công khai bình luận rằng lời tuyên bố này của ông Lodge được các nhà ngoại giao cũng như Ngô Đình Nhu hiểu rằng cuộc đảo chánh đang đến trước mặt. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ liền ra lệnh cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge thông báo mọi việc cho Tướng Hawking đang chỉ huy đoàn cố vấn Mỹ tại Việt Nam biết.
Ngày 30.10.1963, một tiết lộ từ dinh Gia Long được đưa ra ngầm thông báo cho Hoa Kỳ biết chính phủ Việt Nam đã đề phòng cuộc đảo chánh: Việc xây cất hầm trú ẩn trong dinh Gia Long đã hoàn tất và hầm có sức chịu đựng được cả bom 500 tấn.
Sáng ngày 1.11.1963, ngày lễ Các Thánh, Đại Sứ Cabot Lodge và Đô Đốc Harry D. Felt, Tư Lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương, tới Dinh Gia Long yết kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, viện cớ duyệt xét tình hình quân sự và các xáo trộn tại miền Nam, với mục tiêu cầm chân Tổng Thống Diệm cho các tướng âm mưu đảo chánh dễ dàng hành động. Đại Sứ Lodge cũng giả vờ lặp lại yêu sách buộc vợ chồng ông Ngô Đình Nhu phải đi ra ngoại quốc, nhưng bị Tổng Thống Diệm từ chối.
Trong khi Đại Sứ Lodge nói chuyện với Tổng Thống Diệm thì Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Đội, mời các tướng tá họp và dùng cơm tại Bộ Tổng Tham Mưu. Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, bị giữ lại khi mới đến Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tá Lucien Conein, trùm CIA Mỹ tại Việt Nam, ngồi ở chiếc ghế của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu Magnum 44, dưới chân bàn đặt sẵn hai túi bạc, mỗi túi 3 triệu. Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tướng Trần Văn Đôn hành động dưới quyền chỉ huy của Lucien Conein. Đại Tá Lê Quang Tung được gọi ra trình diện, đã lên tiếng mắng chửi các tướng âm mưu đảo chánh. Đại úy Lê Minh Đảo, tuỳ viên của Tướng Lê Văn Kim, được lệnh đưa Đại Tá Tung lên sân thượng bắn chết. Trung Tá Lê Quang Triệu, em của Tá Lê Quang Tung, nghe tin trên, chạy lên xem cũng bị hạ sát luôn. Xác hai người được đem chôn ở đâu, hiện nay vẫn chưa ai tiết lộ.

Khi cuộc đảo chánh đang diễn ra, Tổng Thống Hoa Kỳ cho một bộ phận của Hạm Đội 7 đi sát vào bờ biển Việt Nam, được nói là để bảo vệ các thường dân Mỹ, nhưng thật sự là để đe dọa chính phủ Ngô Đình Diệm và làm yên tâm các tướng đảo chánh.
Lúc 1 giờ 30 chiều ngày 1.11.1963, tiếng súng nổ ran trong Đô Thành. Thủy Quân Lục Chiến tiến chiếm Đài Phát và Nha Truyền Tin trước tiên, sau đó tràn vào Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia và tấn công thành Cộng Hòa.
Lúc 1 giờ 45, Hội Đồng Cách Mạng đọc tuyên cáo trên đài phát thanh Saigon yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chức và cùng ông Ngô Đình Nhu rời khỏi Việt Nam, nhưng cả hai không chấp nhận.
Ba giờ chiều, từ Dinh Gia Long, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã điện thoại cho Đại Sứ Cabot Lodge. Cuộc điện đàm này được ghi âm lại như sau :
Diệm : Một vài đơn vị đã làm loạn. Tôi muốn biết thái độ của nước Mỹ ra sao?
Lodge : Tôi cảm thấy không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể nói với Ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi không được biết hết các sự kiện. Hơn nữa, lúc này là vào 4 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn và chính phủ không thể nào có một quan điểm.
Diệm : Nhưng hẳn là Ngài đã có những ý tưởng khái quát. Dầu sao, tôi cũng là Quốc Trưởng. Tôi đã cố gắng làm nhiệm vụ của tôi. Tôi muốn làm lúc này điều mà trách nhiệm và lương tri đòi hỏi. Tôi tin tưởng vào trách nhiệm trên hết.
Lodge : Chắc Ngài đã làm bổn phận của Ngài. Như tôi đã nói với Ngài mới hồi sáng nay, tôi thán phục sự can đảm của Ngài và những đóng góp to lớn của Ngài cho xứ sở Ngài. Không có ai có thể lấy được của Ngài sự tín nhiệm về tất cả những điều Ngài đã làm. Bây giờ tôi lo sự an toàn về sinh mạng của Ngài. Tôi có tin là những người có trách nhiệm trong hoạt động hiện nay đề nghị Ngài và bào đệ của Ngài xuất ngoại, nếu Ngài từ chức. Ngài có nghe thấy điều đó chưa ?
Diệm : Chưa. (và khi đó, ngưng một lát) Ngài có số điện thoại của tôi đấy chứ ?
Lodge : Vâng. Nếu tôi có thể làm được gì cho sự an toàn sinh mạng của Ngài, xin cứ gọi cho tôi.
Diệm : Tôi đang cố gắng tái lập trật tự.
Sau khi nói chuyện với Đại Sứ Cabot Lodge, Tổng Thống Diệm và ông Nhu quyết định rời khỏi Dinh Gia Long. Khi cuộc đảo chánh thành công, rất nhiều nguồn tin phát xuất từ phía Phật Giáo quả quyết rằng ông Diệm và ông Nhu rời khỏi Dinh Gia Long bằng một đường hầm bí mật. Trong các sử liệu của các sử gia Phật Giáo cũng nhất định ghi lại như thế. Nhưng mấy ngày sau đó, tôi được gặp Thiếu tá Hoàng Văn Tình, Trưởng Phòng An Ninh Phủ Tổng Thống, có mặt trong Dinh Gia Long khi cuộc đảo chính xẩy ra, ông cho tôi biết lúc 7 giờ chiều ngày 1.11.1963, cả ông Diệm và ông Nhu đã lên một chiếc Fourgonnette, hiệu Citroen, ra đường Công Lý, quẹo trái xuống đường Lê Lợi rồi từ đường Lê Lợi đi vòng qua Bùng Binh trước Chợ Bến Thành để qua đường Trần Hưng Đạo và đi thẳng vào nhà Mã Tuyên ở Chợ Lớn. Người lái chiếc xe này là Trung Tá Hưng. Vì ông Nhu đoán chắc thế nào cũng có đảo chánh nên đã chuẩn bị cách rút ra khỏi Dinh Gia Long và nơi trú ẩn, kể cả chiếc xe dùng để di chuyển. Thiếu Tá Hoàng Văn Tình cho biết chính ông đã lo liệu và yểm trợ cho chuyến đi này. Cụ Cao Xuân Vĩ cũng có mặt tại Dinh Gia Long khi cuộc đảo chính xẩy ra. Cụ đã đưa ông Diệm và ông Nhu lên xe xong mới ra về. Cụ Cao Xuân Vĩ cũng đã xác nhận lại với tôi những điều Thiếu Tá Hoàng Văn Tình nói là hoàn toàn đúng sự thật.
Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có 6 Đại đội với khoảng 2.500 quân, do Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi chỉ huy. Các Đại Đội này đóng rải rác ở Sở Thú, thành Cộng Hoà, Dinh Độc Lập (đang xây) và Vườn Tao Đàn. Trong Dinh Gia Long chỉ có một Đại Đội Cận Vệ do Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc chỉ huy (về sau Thiếu Tá Huỳnh Văn Lạc lên đến Tướng và làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9).
Đến tối 1.11.1963, Thủy Quân Lục Chiến chỉ mới chiếm được đài phát thanh Saigon và một phần thành Cộng Hoà, chưa tiến xuống khu Dinh Độc Lập và Dinh Gia Long được, nên ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long một cách dễ dàng, không đi đường hầm như các sử gia Phật Giáo đã viết.
Suốt đêm mồng 1 và rạng ngày mồng 2.11.1963, ông Diệm liên lạc với các tướng đảo chánh bằng hệ thống truyền tin trang bị sẵn trong nhà Mã Tuyên, nhưng các tướng lãnh tưởng ông ở trong Dinh Gia Long. Đại Đội Cận Vệ Phủ Tổng Thống và Đại Đội Thiết Giáp vẫn giữ vững phòng tuyến Dinh Độc Lập và Dinh Gia Long cho đến sáng.
Càng về đêm, lực lượng đảo chánh càng tiến sát vào khu vực xung quanh Dinh Độc Lập và Dinh Gia Long, nhưng không tiến chiếm được vì ở trong đó có công sự chiến đấu rất kiên cố và hỏa lực rất mạnh. Thiếu úy Bùi Lạc cho biết khoảng 2 giờ đêm hôm đó, một toán của anh nằm phục kích trên trần nhà hàng Quốc Tế, thấy Tướng Tôn Thất Đính và bộ tham mưu đứng điều khiển ở phía trước nhà hàng, trên đường Lê Lợi. Toán đó đã gọi máy vào Dinh hỏi xem có nên tung lựu đạn xuống không, nhưng trong Dinh không cho phép vì lúc đó ông Diệm và ông Nhu không còn ở trong Dinh nữa.
Hừng sáng 2.11.1963, sau khi điểm tâm tại nhà Mã Tuyên, ông Diệm và ông Nhu lại lên chiếc Fourgonnette theo đường Đồng Khánh đi vào nhà thờ Cha Tam ở cuối đường Đồng Khánh, Chợ Lớn. Cả ông Diệm và ông Nhu đã xin chịu phép giải tội và rước Mình Thánh Chúa, rồi điện thoại cho Tướng Trần Thiện Khiêm yêu cầu đích thân đến đưa hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu để bàn chuyện bàn giao cho các tướng lãnh.
Được điện thoại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tướng Trần Thiện Khiêm báo cáo cho Tướng Dương Văn Minh. Các tướng họp lại để bàn bạc. Có nhiều sự bất đồng ý kiến về số phận của Ngô Đình Diệm. Cuối cùng Tướng Dương Văn Minh cử Tướng Mai Hữu Xuân làm trưởng đoàn đi đón. Tướng Trần Thiện Khiêm đòi đi, nhưng bị Dương Văn Minh từ chối. Đi theo phụ tá Tướng Xuân có hai Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Dương Ngọc Lắm và Thiếu Tá Đày. Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa được lệnh lấy một đoàn thiết vận xa M.113 đi theo. Tướng Minh còn bảo Đại úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của ông, đi cùng với Thiếu Tá Nghĩa.
Đến nhà thờ cha Tam, Mai Hữu Xuân đứng ngoài, Đại tá Dương Ngọc Lắm vào gặp ông Diệm và ông Nhu, mời hai ông ra xe về Tổng Tham Mưu. Khi thấy các tướng dùng chiếc thiết vận xa M.113 để đón, ông Nhu không chịu lên. Đại uý Nhung đã xô cả hai người lên rồi trói tay lại sau lưng. Khi xe chạy trên đường Hồng Thập Tự, đến khúc cổng đường rầy xe lửa, Đại úy Nhung dùng súng Colt 12 bắn ông Nhu rồi đến ông Diệm. Thiếu Tá Nghĩa bắn bồi thêm mấy phát Thompson. Đại úy Nhung nhảy xuống rút dao đâm ông Nhu thêm nhiều lát.
Lúc 7 giờ 30 sáng, Đài Phát Thanh Saigon loan tin Dinh Gia Long đã bị chiếm, hai anh em ông Diệm và ông Nhu đã tự tử. Khi tin này được xác nhận, các lực lượng thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống mới chịu đầu hàng.

• Lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu


Cho đến nay, người ta vẫn còn tranh luận ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Tướng Nguyễn Chánh Thi, sau khi cùng Tướng Nguyễn Khánh làm "chỉnh lý" ngày 30.1.1964, đã bắt Thiếu Tá (mới lên) Nguyễn Văn Nhung làm tờ khai xác nhận ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Thiếu Tá Nhung khai rằng trách nhiệm vụ này là Thiếu Tướng Thu (tức Mai Hữu Xuân). Khi xe M.113 chở ông Diệm và ông Nhu chạy được chừng 500 thước, Thiếu Tướng Thu chạy xe ngược chiều trở lại và đưa lên một ngón tay trỏ. Đang còn ú ớ chưa biết giết ai, ông Diệm hay ông Nhu, họ định chạy qua để hỏi lại cho rõ thì dân chúng ùa ra xem đông, không chạy qua được. Bỗng Thiếu Tướng Thu đưa hai ngón tay, họ hiểu rằng ông ra lệnh bắn cả hai người. Thiếu Tá Nhung liền rút súng Colt 12 ra bắn mỗi người 5 phát và sau đó bắn ông Nhu thêm ba phát vào ngực nữa.
Trong cuốn Our Endless War Inside Vietnam, Tướng Trần Văn Đôn đã viết khá nhiều về ai đã ra lệnh giết anh em ông Diệm. Tướng Đôn nói rằng trong cuộc họp sáng 2.11.1963, các tướng đã tranh luận khá nhiều về số phận của ông Diệm và ông Nhu trước khi cho xe đi đón. Tướng Đôn đề nghị tạm thời giam giữ rồi trục xuất ra ngoại quốc. Một số chỉ muốn cho ông Diệm đi, còn truy tố ông Nhu. Một số khác lại muốn đưa ra truy tố cả hai người. Tướng Đôn nói rằng đề nghị của ông là cất hết mọi quyền hành và trục xuất cả hai người ra ngoại quốc, đã thuyết phục được hầu hết các tướng lãnh. Sau đó Tướng Đôn ra lệnh chuẩn bị chỗ để lưu giữ hai người. Tuớng Đôn cũng xác nhận việc Tướng Minh cho Đại úy Nhung đi đón là việc ông không hề biết đến. Điều làm Tướng Đôn bực mình là Tướng Minh không bao giờ nhận trách nhiệm trong việc giết ông Diệm và ông Nhu. Mỗi khi vấn đề được nêu lên, Tướng Minh thường cố gắng lôi kéo Tướng Đôn vào. Trong thời gian bị lưu đày ở Bangkok (1965 - 1968), ông Minh đã nói với một linh mục Công Giáo rằng ông ta không có trách nhiệm và khuyên vị này nên hỏi Tướng Đôn. Ông Đôn cũng cho biết, sau cuộc chỉnh lý, Tướng Khánh có lệnh cho nhân viên an ninh điều tra xem ai đã ra lệnh giết ông. Diệm và ông Nhu. Đại úy Nhung trả lời rằng Tướng Minh đã ra lệnh cho ông.(9) Trong cuốn Our Vietnam Nightmare, nữ ký giả Marguerite Higgins viết rằng trong cuộc nói chuyện với một người Mỹ nhiều tháng sau cuộc đảo chánh, Tướng Big Minh, từng đứng đầu Hội Đồng Quân Nhân, nhưng chính ông ta lại phải lưu vong, đã tuyên bố trắng ra rằng "Chúng tôi không có cách nào khác. Họ phải bị giết."
Tướng Dương Văn Minh có kể lại rằng Đại Sứ Cabot Lodge đã có lần nói với ông : "Nếu ông Diệm lưu vong thì bất cứ một Đại Tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về".
Trong một cuốn băng ghi lại cuộc thẩm vấn các tướng đảo chánh do các tướng "chỉnh lý" thực hiện, Tướng Dương Văn Minh kể lại rằng ngồi trong phòng họp chờ đợi mệt mỏi quá, ông vừa bước ra hành lang đứng thở thì Tướng Mai Hữu Xuân chạy đến đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh và nói "Mission accomplie" (Nhiệm vụ hoàn tất). Ông không xác nhận chính ông đã ra lệnh hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Thật ra, các tường lãnh Việt Nam không ai dám ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu nếu không có lệnh của Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Việc Tướng Minh tiết lộ Đại Sứ Lodge nói nếu để ông Diệm lưu vong thì bất cứ một Đại Tá nào cũng có thể làm đảo chánh để đưa ông Diệm về, cho thấy Đại Sứ Lodge đã quyết định hạ sát ông Diệm và ông Nhu.
Khi cuộc đảo chánh bắt đầu, Lucien Conein đã đến ngồi ở ghế của Đại Tướng Lê Văn Tỵ để chỉ huy, nên việc quan trọng này chắc chắn không thể không có quyết định của Lucien Conein. Tướng Trần Văn Đôn thuật lại rằng khi tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã thoát ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã nổi giận và ra lệnh phải tìm lại bằng mọi giá.
Việc hạ sát Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, cũng phải có lệnh của Lucien Conein. Trong công điện ngày 5.10.1963 gởi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại sứ Cabot Lodge đã dành một đoạn để đề cập đến những người được coi là nguy hiểm nhất ở miền Nam. Dương Văn Minh cho rằng có ba người nguy hiểm nhất là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Dương Văn Hiếu. Lucien Conein lưu ý Dương Văn Minh rằng Lê Quang Tung đáng sợ hơn. Điều này chứng tỏ Lucien Conein đã coi Lê Quang Tung là một thành phần tuy hiểm cần phải thanh toán.
Nhiều người đã chỉ trích Tướng Dương Văn Minh là hèn nhát, không dám công khai lãnh nhận trách nhiệm. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng sự thật còn tệ hại hơn sự hèn nhát nữa : lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu một khi được tiết lộ ra thì "chính nghĩa" của cuộc đảo chánh cũng như của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh tại miền Nam Việt Nam không còn nữa!
Trong cuốn "Việt Nam : một trời tâm sự", Tướng Thi nói rằng khi bị tạm giam tại Bộ Tổng Tham Mưu, Thiếu Tá Nhung đã lấy dây giày thắt cổ tự sát. Nhưng năm 1968, khi đang học ở Washington DC, tôi hay đến chơi với Tướng Thi. Có lần ông nói với tôi : "Tôi đã ra lệnh giết thằng Nhung. Cái thằng khốn nạn!"

• Đảo chánh và tiền thưởng hay tiền thuê ?

Trong công điện ngày 30.10.1963 của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi Đại Sứ Cabot Lodge, Ngoại Trưởng Bundy đã lưu ý rằng các tướng lãnh Việt Nam có thể cần một số tiền vào phút chót để mua chuộc phe chống đối, nên đưa cho họ một cách kín đáo. Ông nói rằng nên cho họ nếu cuộc đảo chánh được tổ chức chu đáo và có triển vọng thành công tốt đẹp. Khuyến cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã được Lucien Conein thi hành. Nhưng Lucien Conein đã không đưa một cách kín đáo mà xách tiền đến Bộ Tổng Tham Mưu ngồi gác chân lên bàn sai khiến đủ mọi thứ. Có lẽ Lucien Conein đã nghĩ rằng với các tướng lãnh Việt Nam thời đó, có tiền thì việc gì cũng xong.
Số tiền 6 triệu mà Lucien Conein đem đến Bộ Tổng Tham Mưu ngày 1.11.1963 đã đưa cho Tướng Trần Văn Đôn 3 triệu và Tướng Tôn Thất Đính 3 triệu. Vụ chia tiền do Lucien Conein đưa đã gây nhiều tai tiếng nên năm 1971, Tướng Trần văn Đôn đã ra lệnh cho Thiếu Tá Đặng Văn Hoa biên nhận số tiền mà ông đã chia. Thiếu Tá Hoa có làm một Phiếu trình đề ngày 14.8.1971 cho biết số tiền này đã đưa cho Tướng Trần Thiện Khiêm 500.000$, Tướng Tôn Thất Đính 600.000$, Tướng Lê Nguyên Khang 100.000$, Tướng Nguyễn Văn Thiệu 50.000$, Đại Tá Trần Ngọc Huyến 100.000$, Thiếu Tá Phan Hòa Hiệp 100.000$ và Đại úy Đào Ngọc Diệp 100.000$. Tổng cộng 1.550.000$. Số tiền còn lại là 1.450.000$ được chia riêng cho các Tướng Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Trần Ngọc Tám, Nguyễn Khánh và Đỗ Cao Trí. Dương Văn Minh còn được hưởng số tiền 6.000 Mỹ kim tìm thấy trong cặp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Trong một cuốn băng ghi lại cuộc thẩm vấn các tướng đảo chánh, Tướng Nguyễn Chánh Thi có hỏi Tướng Tôn Thất Đính:
- Lucien Conein đưa cho chú bao nhiêu ?
- Lucien Conein có đưa 3 triệu và nói cần thêm bao nhiêu cũng có.
- Số tiền đó chú mần chi hết rồi ?
- Tui chia cho anh em hết rồi.
Sự thật đã rõ ràng.
Đọc các văn thư trao đổi giữa Tổng Thống Kennedy, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam liên hệ đến vụ đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Ngũ Giác Đài công bố, nhiều người đã thắc mắc không hiểu tại sao nội dung của các văn thư này có nhiều đoạn mâu thuẫn nhau, khi úp khi mở, gần như không có một đường lối rõ ràng nào cả. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, Lucien Conein chửi bới lung tung còn Tổng Thống Kennedy lại tỏ ra ưu sầu buồn bã, tức giận. Nhưng nếu chúng ta hiểu rằng các văn thư đó đã được viết với cung cách của những văn kiện tình báo, các văn kiện này sẽ được lưu lại trong hồ sơ, nên những người chủ mưu đã cố ý trình bày vấn đề nửa úp nửa mở để về sau các đối thủ hay những nhà phân tích không thể căn cứ vào đó để chỉ trích những sơ hở đáng tiếc của họ. Thái độ của Lucien Conein và Tổng Thống Kennedy chỉ là thái độ của một kịch sĩ trên sân khấu. Mọi sự đã được quyết định dứt soát, không có mâu thuẫn hay do dự nào cả

TỪ CHỦ ĐỘNG TỚI CÔNG CỤ

Qua các sự kiện đã được trình bày trên, chúng ta thấy mục tiêu tranh đấu mà nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu biểu kiến. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự của họ là lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, còn vụ Phật Giáo chỉ là một chiêu bài. Một số chi tiết liên quan đến cuộc đảo chánh cho thấy chính phủ Hoa Kỳ đã khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Chính phủ Hoa Kỳ đã muốn thay thế Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ 1960 vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam và thiết lập các căn cứ quân sự. Vụ Phật Giáo đã trở thành một cơ hội tốt được Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập vùng Đông Nam Á. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Hoa Kỳ đã cố tình thổi phồng vụ Phật Giáo như một một cái cớ (pretext) để biện minh cho chủ trương lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm của Hoa Kỳ. Cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm tuy do các tướng lĩnh Việt Nam thực hiện, nhưng Đại Sứ Cabot Lodge đã ra lệnh cho Trung Tá Lucien Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầu đến cuối. Chính Đại Sứ Henry Cabot Lodge là người đã ra lệnh cho Tướng Dương Vãn Minh hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Sau khi làm đảo chánh, các tướng lãnh Việt Nam đều được lãnh tiền thù lao hay tiền công.
Về phía Việt Cộng, Khu ủy Trị - Thiên - Huế nhìn nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm này, vì phong trào bị đẩy lên quá nhanh, họ không đi theo kịp, nên đã bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Hoa Kỳ mà Việt Cộng không đoán trước được. Bản kiểm điểm đã viết như sau :
"Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt ngày 5 tháng 8 năm 1963 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đã tiến hành mít tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn đại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh, đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do "lãnh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp "phong trào" nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu Phật Giáo lái đi lệch hướng.
Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của Mỹ - Diệm.
Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa "phong trào Phật giáo" ở Huế đã mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đã đẩy chế độ Mỹ - Diệm từ trạng thái không ổn định đi đến tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh luỹ cuối cùng."(11)
Về phía Phật Giáo, Thượng Tọa Thích Trí Quang và các lãnh tụ Phật Giáo khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đã đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn Việt Cộng. Sau này, khi Hoa Kỳ hết xử dụng lá bài Phật Giáo, bật đèn xanh cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp bỏ, Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ Phật Giáo như trước, nên đã đánh điện kêu cứu!

Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các lãnh tụ Phật Giáo chùa Từ Đàm tin rằng chính sự nổi dậy của Phật Giáo đã làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn đau thương cho cả Phật Giáo lẫn quê hương. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ đề cập trong phần nói về cuộc thánh chiến thứ hai và thứ ba.

Cuộc thánh chiến thứ 2: Đòi nô máu, diệt công giáo. ngụy hoà vaàcướ[ chính quyền

Thời kỳ ba năm sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị cơ quan tình báo CIA tổ chức lật đổ, từ 1964 - 1966, thường được gọi là "ba năm xáo trộn", ba năm kinh hoàng của miền Nam Việt Nam. Trong thời kỳ này có lúc gần như không còn là chính quyền nữa, nhóm Phật Giáo miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm ở Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đã đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai cứ bắt, muốn phá chỗ nào cứ phá, muốn đốt nơi nào cứ đốt, muốn giết ai cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên các đường phố... Tổ chức này đã bắt cả Tỉnh Trưởng Quảng Nam và Quận Trưởng Hòa Vang đem đi giam vì không chịu theo phe của họ.
Nhóm Phật Giáo miền Trung này tin tưởng rằng một khi họ đã lật đổ được Chế độ Ngô Đình Diệm, một chế độ đang vững mạnh tại miền Nam, thì họ có thể làm bất cứ cái gì họ muốn và không một chính quyền nào dám cưỡng lại họ. Say men chiến thắng, nhóm này đã đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngay. Trước hết là đòi một "quy chế đặc biệt" cho Phật Giáo, rồi đến đòi "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo", đòi đưa các nhân vật Phật Giáo lên nắm chính quyền, đòi cả những điều mà Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vẫn nhai đi nhai lại trên đài phát thanh hàng ngày : Quân đội miền Nam và Hoa kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chính phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v. Khi những đòi hỏi phiêu lưu đó không được thỏa mãn, họ phát động thánh chiến vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Cuộc thánh chiến này dữ dội gấp 10 lần cuộc thánh chiến chống chính phủ Ngô Đình Diệm, đưa tới những hậu quả bi thảm cho cả Phật Giáo lẫn đất nước đến nỗi các "sử gia" Phật Giáo ít ai dám mô tả lại đầy đủ. Tất cả chỉ lẩn quẩn xung quanh cuộc thánh chiến thứ nhất. Sau đây là một số diễn biến của cuộc thánh chiến bi thảm này. Riêng phần thánh chiến để đòi một "quy chế đặc biệt" cho Phật Giáo, chúng tôi sẽ đề cập trong phần nói về cuộc nội chiến.

MỘT BIẾN CỐ BẤT NGỜ

Khi tiếng reo mừng chiến thắng của Phật Giáo về biến cố ngày 1.11.1963 chưa dứt thì bỗng nhiên một biến cố mới đã xẩy ra. Tướng Nguyễn Chánh Thi, lúc đó là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I, đã kể lại rằng, sau một thời gian sắp đặt kỹ lưỡng, ngày 29.1.1964 ông cùng với Tướng Nguyễn Khánh, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Bộ Tham Mưu Quân Đoàn I vào Saigòn hợp với Thiếu Tướng Dương Văn Đức làm cuộc "chỉnh lý" lật đổ nhóm tướng lãnh đã làm cuộc đảo chính ngày 1.11.1963. Cuộc "chỉnh lý" thành công một cách quá dễ dàng, không tốn một viên đạn nào. Tướng Thi nhận định rằng phải có sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Tướng Khánh mới dám hành động như vậy. Ông cho biết chính Lucien Conein đã bay ra Huế gặp Tướng Nguyễn Khánh trước lễ Giáng Sinh năm 1963.
Tướng Nguyễn Khánh đã lên đài phát thanh tuyên bố lý do của cuộc "chỉnh lý" như sau:
"Từ ba tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và Cộng Sản, nên một lần nữa Quân Đội lại phải can thiệp".
Các nhà bình luận nhận xét rằng Hoa Kỳ đã để cho Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc đảo chánh thứ hai này vì các lý do sau đây:
Lý do thứ nhất là các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 chỉ có khả năng loại trừ chế độ Ngô Đình Diệm chứ không có khả năng cầm quyền. Lý do thứ hai, Hoa Kỳ lo sợ nhóm Phật Giáo miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị không rõ ràng, có nhiều tham vọng và bị Cộng Sản lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lãnh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năm cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu do Ngũ Giác Đài công bố cho biết sau khi cuộc "chỉnh lý" hoàn tất, Đại Sứ Cabot Lodge đã gởi về Washington một bản báo cáo nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của hai tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rõ rệt, nhưng một khi họ đã củng cố được một chính phủ vững mạnh, có lẽ họ sẽ tán thành thành giải pháp trung lập của Pháp. Đại Sứ Cabot Lodge cho biết chính Đại Sứ Ý Di Orlandi, một người sáng suốt nhất ở đây, đã lưu ý hai Tướng Đôn và Kim vẫn còn giữ quốc tịch Pháp, từng là phụ tá của Thống Chế De Lattre và hoạt động đắc lực cho Sở Mật Thám (Service Secret) của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam Việt Nam có thể đúng. Ông viết tiếp:
"Sau hết, tại nước này hiện nay, ít khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan trọng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đã làm không làm cho người Việt Nam ngạc nhiên ... Tuy nhiên, một số người Việt Nam đã nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp."

"Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không ? Liệu ông ta có đáp ứng được một số hành động góp phần vào nỗ lực chống cộng hay không ? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không cho một sự chậm trễ nào ...
"Nếu Tướng Khánh có khả năng thì việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ Tư Lệnh chỉ có một người duy nhất thay vì một Hội Đồng Quân Nhân. Chúng ta đã có những điều chúng ta cần ở Việt Nam."
Hành động của cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã làm nhiều chính khách và nhân viên chính phủ Hoa Kỳ ngạc nhiên. Họ tỏ ra nghi ngờ những lời tố giác của Tướng Khánh. Nhưng trong tháng 3 năm 1964, Tổng Thống Johnson đã gởi cho Đại Sứ Cabot Lodge một chỉ thị nói rõ "Phải đánh đổ ý tưởng trung lập hóa ở bất cứ nơi nào nó thò cái đầu dơ dáy của nó ra." Ông yêu cầu Đại Sứ Lodge chuyển mối quan tâm đó đến Tướng Khánh và hỏi ý kiến Tướng Khánh về một kế hoạch chung để chấm dứt ý tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.
Quan điểm nêu trên của ông Cabot Lodge rất quan trọng, nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam Việt Nam. Chính quyền đó không có nơi tay các tướng lãnh làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 nên Hoa Kỳ đã đi tìm nơi một số tướng lãnh khác. Tướng Khánh là người được chọn trước tiên.
Trước biến cố bất ngờ ngày 30.1.1964 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lãnh tụ Phật Giáo đã đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng như thế nào. Nhưng khi thấy thái độ hòa hoãn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.

TIỄN ĐƯA MỘT "ÂN NHÂN"

Khi biến cố chỉnh lý" ngày 30.1.1964 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm Phật Giáo đấu tranh thì họ lại phải tiễn đưa một người "ân nhân" của Phật Giáo ra đi. Không biết đây là điềm lành hay điềm không lành.
Ngày 23.6.1964 Đại Sứ Cabot Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28.6.1964, ông mặc áo gấm màu xanh có hình chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền Việt Nam, rời phi trường Tân Sơn Nhứt. Ra tiễn Đại Sứ, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của Phật Giáo. Trước khi lên máy bay, Đại Sứ Cabot Lodge đã nói với các ký giả: "Khi từ giã Việt Nam, tôi chỉ ân hận có một điều là không cứu sống được ông Diệm". Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đã kể lại rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, Đại Sứ Cabot Lodge đã nói với ông: "Nếu để ông Diệm lưu vong thì bất cứ một Đại Tá nào cũng có thể đảo hành để đưa ông Diệm về". Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời Việt Nam đã làm nhóm Phật Giáo đấu tranh khó chịu. Sau này, nhật báo Chánh Đạo của Phật Giáo đã viện câu đó để chỉ trích chính sách của Hoa Kỳ trong việc để cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ đánh tan cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung.
Tướng Maxwell D. Taylor đã được cử làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa thay ông Cabot Lodge.
ĐÒI NỢ MÁU

Trong bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, tức Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, đã nhận xét về "Số phận không may của Tổng Thống và ông Cố Vấn " như sau :
"Sự hạ sát Tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1.11.1963. Dù có ra lệnh hay không ra lệnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mệnh hai người. Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị thiếu tá Nhung và Nghĩa. Nhưng đã hết đâu. Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt?"(12)
Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu không phải là "một điều đáng tiếc" như Hoà Thượng Nhất Hạnh đã viết. Đây mới chỉ màn đầu của chiến dịch đòi nợ máu. Nhóm Phật Giáo cực đoan và Thượng Tọa Thích Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lãnh biết :
- Những người sau đây phải đền tội : Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái.
- Các "dư đảng Cần Lao" phải rời khỏi các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo Thiên Chúa Giáo và khi nói "diệt dư đảng Cần Lao" thì phải hiểu là diệt Thiên Chúa Giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung.
- Các nhân vật Phật Giáo được mệnh danh là "các tướng cách mạng" (như Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền, v.v...
Những đòi hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí Phật Giáo, trong các cuộc biểu tình và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường. Nhưng Tướng Dương Văn Minh do dự. Ông hiểu rằng những chuyện đó không thể làm được. Sau vụ hành quyết một cách rất dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu do lệnh trực tiếp của Lucien Conein truyền cho ông và Tướng Mai Hữu Xuân thi hành, đã có nhiều sự bất bình trong hàng ngũ của các tướng lãnh vì họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều tướng đã coi việc hạ sát này là một hành động quá đáng và không cần thiết. Trung Tướng Trần Văn Đôn, người lãnh đạo quân đội trong cuộc đảo chánh, đã chỉ trích tướng Dương Văn Minh về việc không thông báo cho ông biết lệnh của Cabot Lodge và Lucien Conein. Do đó, Tướng Dương Văn Minh đã không dám đáp ứng các đòi hỏi của Thượng Tọa Thích Trí Quang.
Không may cho các nạn nhân là ngày 30.1.1964 Tướng Nguyễn Khánh đã làm một cuộc "chỉnh lý" lật đổ các tướng đảo chánh. Tướng Nguyễn Khánh vốn là một người được Tổng Thống Ngô Đình Diệm nâng đỡ đặc biệt và không tham gia vào cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 nên bị Phật Giáo liệt vào loại "Tướng Cần Lao". Sau khi nắm được chính quyền, ông đã tìm mọi cách chứng minh cho Phật Giáo thấy ông không bênh vực "dư đảng Cần Lao". Công việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các "dư đảng Cần Lao" ra xét xử.
Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ Trưởng Tư Pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử hình ông Ngô Đình Cẩn và những người liên hệ. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư Pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt Hình Luật thì không thể tuyên án tử hình những tội vớ vẩn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền v.v. Vậy chỉ còn một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào các tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu các quy định mới này có hiệu lực hồi tố (retroactive effect). Một nguyên tắc căn bản của hình luật là luật hình chỉ áp dụng cho các hành vi xẩy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xẩy ra trước ngày đó. Sự quy định như trên là trái với nguyên tắc căn bản của hình luật. Nhưng "cách mạng" không cần phải tuân theo một nguyên tắc nào cả! Bộ Tư Pháp đã làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc Luật số 4164 ngày 18.2.1964 thiết lập Tòa án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoản dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Nguyễn Khánh đã ra lệnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là "dư đảng Cần lao". Số người bị câu lưu lên đến 267 người. Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà Thượng Tọa Thích Trí Quang đòi nợ máu ra trước Tòa án Cách Mạng.
Vụ Phan Quang Đông
Ngày 26.3.1964, Tòa án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử Phan Quang Đông về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế. Các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26.10.1955 đến 1.11.1963. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.
Năm 1957, Phan Quang Đông, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị, đặc trách miền Trung, thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu thương và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đã đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất nhì Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều tra. Vì các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đã bỏ ra để mua khách sạn Morin, và có một số bằng chứng cho thấy các đương sự liên hệ đến các nhân viên tình báo của Pháp, nên Phan Quang Đông đã bắt để điều tra về tội hoạt động gián điệp Pháp. Khi cuộc điều tra đang tiến hành thì Nguyễn Phương nhảy lầu tự sát.
Đầu năm 1963, gia đình các nạn nhân làm đơn xin tái xét, nhờ Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục chuyển cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tổng Thống đã phê lên đơn ra lệnh cho Đại Tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, điều tra lại nội vụ. Đại Tá Đỗ Mậu rất sợ Ngô Đình Cẩn, không dám đích thân ra Huế mở cuộc điều tra, nên đã bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đại Tá Mậu, Đại úy Thích không biết phải thi hành cách nào, vì cấp bực và chức vụ của anh quá nhỏ, không đủ uy thế để điều tra vụ quan trọng này. Đại úy Thích tìm Đại úy Nguyễn Văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của ông Ngô Đình Cẩn, để nhờ giúp đỡ. Đại úy Minh dẫn Đại úy Thích vào gặp ông Ngô Đình Cẩn. Sau khi xem bút phê của Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Cẩn bảo Đại úy Thích cứ mở cuộc điều tra một cách vô tư vì đây là lệnh của Tổng Thống. Ông cũng bảo Phan Quang Đông phải cung cấp tất cả những tài liệu mà Đại úy Thích cần. Chúng tôi không có cơ hội được xem phúc trình điều tra của Đại úy Thích, nhưng được biết bản phúc trình kết luận rằng việc bắt giam những người liên hệ đến vụ Morin là có căn cứ. Đại Tá Đỗ Mậu đã nhận được bản phúc trình và đệ trình lên Tổng Thống Diệm. Sau đó người ta không thấy phủ Tổng Thống nhắc đến vụ này nữa. Điều mà nhiều người đã phàn nàn là sự trốn tránh trách nhiệm của Đại Tá Đỗ Mậu trong việc điều tra nội vụ. Mặc dầu đã có bút phê của Tổng Thống, Đại Tá Đỗ Mậu đã cố tránh né trách nhiệm vì sợ phương hại đến địa vị của ông. Nếu ông đích thân lãnh trách nhiệm thì nội vụ sẽ sáng tỏ hơn.
Dầu sao, khi Tướng Nguyễn Khánh đã chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc căn bản của hình luật để xử tử hình Phan Quang Đông và qua sự kết án Phan Quang Đông, xử tử hình Ngô Đình Cẩn để thỏa mãn đòi hỏi của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, thì mọi sự tranh luận về pháp lý và bằng chứng của tội phạm đều vô ích. Ngày 28.3.1964 tòa đã tuyên án Phan Quang Đông tử hình, tịch thu tài sản và bồi thường cho các nạn nhân 18 triệu.

Vụ Ngô Đình Cẩn
Sáng thứ bảy, ngày 2.11.1963, sau khi nghe tin ông Diệm và ông Nhu đã bị giết, ông Ngô Đình Cẩn liền bí mật qua Dòng Chúa Cứu Thế để lánh nạn. Ông được sắp xếp cho ở một phòng nhỏ phía trên lầu. Ngoài những người thân cận ra, không ai biết chuyện này. Sáng Chúa Nhật 3.11.1963, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I, bay ra Huế và đi tìm Đại úy Nguyễn Văn Minh, phụ trách về an ninh của ông Ngô Đình Cẩn, yêu cầu Đại úy Minh thông báo cho ông Cẩn biết thế nào cũng sẽ có lục xét nhà, nếu còn tài sản gì cứ giao cho ông giữ giúp. Thiếu Tướng Trí bảo Đại úy Minh thưa với ông Cẩn rằng Cậu đừng lo lắng gì cả. Thiếu Tướng sẽ bảo đảm tính mệnh của Cậu, không đứa nào dám động đến Cậu đâu. Đại úy Minh đem nội vụ trình ông Ngô Đình Cẩn. Ông Ngô Đình Cẩn cho gọi Tướng Đỗ Cao Trí vào. Sau khi hai người nói chuyện chừng 15 phút thì ông Cẩn gọi Đại úy Minh và bảo về nhà lấy tất cả mọi thứ dưới sập giường đem đến ông. Đại úy Minh trở về nhà ông Cẩn và tìm dưới sập giường thì thấy một bao bố nặng chừng 8 ký, không biết là thứ gì, và một cái cặp nhỏ. Đại úy Minh đem tất cả đến cho ông Cẩn thì ông Cẩn giao ngay cho Tướng Đỗ Cao Trí. Chính Tướng Đỗ Cao Trí đã tự tay xách cái bao bố và chiếc cặp ra cất vào trong xe rồi quay lại hỏi Đại úy Minh muốn đi đơn vị nào. Đại úy Minh xin về Trường Võ Bị Đà Lạt như đã có Sự vụ Lệnh trước khi có cuộc đảo chánh. Tướng Trí nói rằng chưa thuận tiện vì tình hình đang lộn xộn. Sau đó Tướng Trí ra máy bay về Đà Nẵng. Ngày hôm sau, Đại úy Minh nhận được công điện phải vào Quân Đoàn I trình diện gấp trong 24 tiếng đồng hồ, nếu không trình diện sẽ bị báo cáo đào ngũ. Đại uý Minh định đi đường bộ vào Đà Nẵng, nhưng ông Mullen, Phó Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, ngăn cản vì sợ Đại úy Minh có thể bị ám sát trên đường vào Đà Nẵng để thủ tiêu nhân chứng. Ông Muller đã cho một chiếc L.19 đến chở Đại úy Minh đi Đà Nẵng.
Khi hay tin ông Cẩn đang ở trong Dòng Chúa Cứu Thế, ông Elble, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, đã đề nghị ông Cẩn vào tỵ nạn trong Tòa Lãnh Sự Mỹ. Ông Elble nói rằng Hoa Kỳ có thể cho ông Cẩn tỵ nạn như đã cho Thích Trí Quang trước đây. Ông Cẩn trả lời rằng ông chỉ đi nếu Tòa Lãnh Sự cho mẹ già của ông cùng đi theo, nhưng ông Elble nói ông không được lệnh cho bà cụ trú ẩn. Ít ngày sau, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho máy bay ra đưa ông Ngô Đình Cẩn vào giam ở khám Chí Hòa, Saigon.
Ngày 14.4.1964, Tòa án Cách Mạng họp tại Saigon để xét xử Ngô Đình Cẩn về các tội như đã truy tố Phan Quang Đông, trừ tội bức sát Nguyễn Phương, vì cho rằng ông Ngô Đình Cẩn đã ra lệnh cho Phan Quang Đông bắt vụ Morin. Ông Ngô Đình Cẩn khai trước tòa như sau : "Tôi quân sự không biết, hành chánh không biết, học tầm thường, làm sao ra lệnh cho ai?".
Trong khi Tòa án Cách Mạng xét xử ông Ngô Đình Cẩn, Tướng Nguyễn Khánh đã ra Huế gặp và xin được gặp Bà Nguyễn Văn Ấm, nhũ danh là Ngô Thị Nho, thân mẫu của Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận và là chị ruột của ông Ngô Đình Cẩn. Theo lời bà Nguyễn Văn Ấm kể lại cho một số linh mục và thân thuộc nghe thì Tướng Nguyễn Khánh đã đòi bà đưa cho ông ta 300 triệu đồng, ông ta sẽ tha ông Ngô Đình Cẩn. Bà Ấm trả lời rằng bà không làm gì có một số tiền to lớn như vậy.
Tướng Khánh là một tay đánh xì phé chuyên nghiệp, mỗi lần đến đánh phé ở nhà ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Trưởng Lao Động, thường mang theo khoảng 200.000$. Nguyễn Khánh biết Tướng Đỗ Cao Trí đã lấy của ông Cẩn khoảng 8 ký vàng và một ít tiền mặt, nhưng nghĩ rằng ông Cẩn trước khi ra đi thế nào cũng có gởi cho bà Ấm một số tài sản quan trọng nên định lùa ván chót. Bà Ấm thừa biết nếu có 300 triệu đưa ra thì Tướng Khánh vẫn ra lệnh giết Ngô Đình Cẩn, để củng cố địa vị chính trị của mình.
Mặc dầu không xuất trình được bằng chứng cho thấy ông Ngô Đình Cẩn đã chỉ thị cho Phan Quang Đông trong vụ Morin, ngày 22.4.1964 tòa vẫn theo lệnh của Tướng Khánh tuyên án tử hình Ngô Đình Cẩn, tịch thu tài sản và liên đới với Phan quang Đông bồi thường cho các nạn nhân.
Ngày 9.5.1964, Phan Quang Đông đã bị xử bắn tại sân vận động Huế giữa những tiếng reo hò của Phật tử. Sau đó đoàn người đi xem xử bắn biến thành đoàn biểu tình yêu cầu Tướng Nguyễn Khánh đưa Ngô Đình Cẩn ra xử bắn tại Huế như Phan Quang Đông. Đoàn biểu tình không hay biết rằng trong khi Phan Quang Đông bị xử bắn ở Huế thì Ngô Đình Cẩn cũng đã bị xử bắn tại khám Chí Hoà, Sai gon, cùng một ngày.
Vụ Đặng Sĩ
Ngày 2.6.1964, Tòa án Cách Mạng họp tại Sai gòn để xử vụ Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An kiêm Tiểu Khu Trưởng Thừa Thiên, người đã được lệnh dẹp cuộc biểu tình của Phật tử tại Huế vào tối 8.5.1963. Thiếu Tá Đặng Sĩ bị tố cáo về tội cố sát. Luật Sư Nguyễn Khắc Tân, người biện hộ cho Đặng Sĩ, cho chúng tôi biết theo Bản Cáo Trạng của Công Tố Viện và hiện trạng hồ sơ, Đặng Sĩ không có tội gì cả (xem phần Thánh Chiến I). Tuy nhiên, đây là một vụ án chính trị, nếu không có một áp lực đối nghịch, Tướng Khánh sẽ ra lệnh cho tòa án tuyên án tử hình Đặng Sĩ và đem xử bắn như Phan Quang Đông. Chúng tôi liền cho phổ biến rộng rãi Bản Cáo Trạng trên báo chí với dụng ý cho mọi người thấy Thiếu Tá Đặng Sĩ không có trách nhiệm trong vụ gây ra những sự chết chóc trong đêm 8.5.1963. Hầu hết các báo đã đăng nguyên văn hay một phần bản cáo trạng, chỉ trừ các báo Phật Giáo là viết theo luận điệu của Thượng Tọa Thích Trí Quang và yêu cầu tòa tuyên một bản án "thích đáng".
Trước sự lộng hành của Thượng Tọa Thích Trí Quang và nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung cũng như sự nhượng bộ một cách phi lý của Tướng Nguyễn Khánh, Khối Công Dân Công Giáo đã được thành lập để đối phó. Ngày 7.6.1964 Khối Công Dân Công Giáo đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn, có khoảng 100.000 người tham dự tại công trường Lam Sơn trước trụ sở Ouốc Hội ở Saigon. Đoàn biểu tình đứng kéo dài đến chợ Bến Thành. Trong cuộc biểu tình người ta thấy có các biểu ngữ : "Lột mặt nạ bọn lợi dụng Cách Mạng để đàn áp Công Giáo", "Mỵ dân là phản bội Dân Chủ", "ủng hộ cuộc đấu tranh của Công Giáo miền Trung"... Thỉnh thoảng có một vài biểu ngữ "Cabot Lodge cút đi" được đưa lên. Chính nhờ cuộc biểu tình này Đặng Sĩ mới được cứu thoát.
Vụ Nguyễn Văn Y
Cũng trong ngày 8.6.1964, sau khi tuyên án Đặng Sĩ, tòa xử vụ Đại Tá Nguyễn Văn Y, Đặc ủy Trung ương Tình Báo kiêm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia và 13 người khác liên quan đến sự mất tích của một số nhân vật đối lập dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Tuy không tìm ra được bằng chứng buộc tội, ngày 18.6.1964, tòa đã tuyên án 4 người khổ sai chung thân và tha bổng 9 người.
Vụ Dương Văn Hiếu
Ngày 23.6.1964, Tòa án Cách Mạng tại Saigòn lại xét xử vụ Dương Văn Hiếu, Tư Lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt và các cộng sự viên là Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái và Phan Khanh.
Ông Ngô Văn Hiếu là người phụ trách công tác phản gián để tìm bắt các cán bộ Cộng Sản nằm vùng tại miền Nam Việt Nam. Năm 1958, nhân một cuộc hành quân tại Quảng Ngãi, Trung Đoàn 4 của Sư Đoàn I đã phát hiện một thùng tài liệu bí mật của Việt Cộng chôn giấu, liền báo tin cho cơ quan mật vụ của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến biết. ông Dương Văn Hiếu được cử ra nghiên cứu thì thấy đây là một tài liệu ghi mật mã của Việt Cộng. ông Dương Văn Hiếu liền cho làm bản sao và sau đó đem chôn lại chỗ cũ rồi cho pháo binh bắn vào để phá các dấu vết đào bới. Nhờ vậy Việt Cộng không nghi ngờ các khóa mật mã của họ đã bị khám phá. Dùng các khoá mật mã bắt được, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của ông Dương Văn Hiếu đã giải mã hàng trăm văn kiện liên lạc giữa Việt Cộng và phát hiện được hàng trăm cán bộ cao cấp nằm vùng của Việt Cộng từ Quảng Trị đến Saigon. Trong các nhân viên cao cấp của Việt Cộng bị bắt, người ta thấy có Cao Đăng Chiếm, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền, v.v. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các cán bộ cộng sản nằm vùng đã đưa nhiều hồ sơ cho Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường, tố cáo Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam người trái phép, trong đó có vụ lớn nhất là vụ Nguyễn Văn Đạt ở Huế. Các lãnh tụ Phật Giáo chùa Từ Đàm vẫn quả quyết Nguyễn Văn Đạt đã bị bắt oan, nhưng hồ sơ tình báo cho thấy Nguyễn Văn Đạt là Bí Thư Tỉnh ủy Thừa Thiên của Việt Cộng. Có nhiều các bộ hoạt động dưới quyền của Nguyễn Văn Đạt khi bị bắt cũng đã xác nhận vậy. Nguyễn Văn Đạt Đạt đã làm tờ tự thú và xin trở về với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Về sau, bệnh sốt rét của Nguyễn Văn Đạt tái phát nặng, cơ quan an ninh đã cho Nguyễn Văn Đạt trở về với gia đình và giúp cho phương tiện cứu chữa.
Mặc dầu có nhiều tài liệu dẫn chứng các hồ sơ do các tăng sĩ chùa Từ Đàm đưa ra tố cáo về việc bắt giam trái phép đều liên hệ đến các đặc công Cộng Sản nằm vùng, ngày 25.6.1964, tòa đã tuyên án Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 năm khổ sai.
Hậu quả của bản án này là các nhân viên an ninh ở miền Trung không dám bắt các cán bộ Việt Cộng nằm vùng hoạt động trong các tổ chức Phật Giáo nữa, nên tình hình miền Trung rối loạn liên tục. Đây là chủ đích mà Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường nhắm đạt tới.
Các nhân viên tình báo cao cấp nói rằng Thượng Tọa Thích Trí Quang cương quyết loại trừ tất cả những nhân chứng biết rõ và nắm trong tay hồ sơ hoạt động cho cộng sản của ông và của nhóm đặc công Việt Cộng nằm vùng ở miền Trung. Những người có tên trong danh sách đòi nợ máu của ông đều là những nhân chứng về sự liên hệ giữa ông với Việt Cộng, trong đó Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông là hai người biết nhiều chi tiết nhất. Tuy nhân chứng bị sát hại, cơ quan tình báo Việt Nam Cộng Hòa và CIA đã lưu trữ đầy đủ hồ sơ hoạt động của nhóm này.
Chủ trương đòi nợ máu và "diệt dư đảng Cần Lao" là chủ trương của Đảng Cộng Sản đưa ra nhắm loại trừ các phần tử chống Cộng, Thượng Toạ Thích Trí Quang chỉ là người thừa hành. Chúng ta hãy nghe Việt Cộng viết về chiến dịch này:
"Hoạt động của ta từ sau hồi Diệm đổ diễn ra mạnh mẽ, đã kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả ba vùng, từ rừng núi đến đồng bằng, thành phố, tới giới tuyến giáp ranh vùng sâu."
"Trên cơ sở phong trào đấu tranh quần chúng, công tác xây dựng thực lực cách mạng cũng phát triển mạnh: ở Thừa Thiên cơ sở chính trị đã tăng 40% so với năm 1962, phong trào thanh niên ra vùng giải phóng tham gia cách mạng ngày một nhiều.
"Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh, nổi lên là những cuộc đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân lao động đòi trừng trị những tên ác ôn đầu sỏ có nợ máu như tên Đỗ Cao Trí, đòi hạ bệ tên Nguyễn Quang Trung, tỉnh trưởng Quảng Trị. Cuộc đấu tranh đòi xử tội tên Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông có tới 5 vạn người tham gia. Nguyễn Khánh ra Huế bị quần chúng la ó, ném guốc, dép phải bỏ về Saigòn".(13)
Đây là những thành quả mà Việt Cộng coi là đã thu hoạch được tại Quảng Trị, Huế và Thừa Thiên.
Sau khi vụ Phật Giáo miền Trung bị dẹp tan vào tháng 6 năm 1966, uy lực của Thượng Tọa Thích Trí Quang không còn nữa, chính phủ đã ký Sắc Lệnh ngày 31.10.1966 giảm án khổ sai của các đương sự xuống còn 5 năm khổ sai rồi qua năm 1967 trả tự do tất cả.
THANH TOÁN CÔNG GIÁO VÀ CÁC ĐẢNG PHÁI CHỐNG CỘNG DƯỚI DANH NGHĨA DIỆT TRỪ "DƯ ĐẢNG CẦN LAO"
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Thượng Tọa Thích Trí Quang cho lập ngay Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, phát xuất từ Huế, để tiếp tục cuộc đấu tranh. Như chúng tôi đã nói ở nước, mục tiêu chiến lược của ông không phải là chống đàn áp Phật Giáo. Chống đàn áp Phật Giáo chỉ là mục tiêu chiến thuật. Do đó, khi mục tiêu chiến thuật này được thỏa mãn, ông tạo mục tiêu mới ngay để xách động Phật tử đấu tranh. Mục tiêu chiến thuật mới đó là "diệt dư đảng Cần Lao". Được coi là "dư đảng Cần Lao" tất cả mọi người theo Thiên Chúa Giáo và các tổ chức chống hay không đồng quan điểm với ông. Về sau, các khẩu hiệu của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã ghi rõ "diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo." Phải diệt xong Công Giáo và các đảng phái quốc gia chống Cộng mới có thể cướp chính quyền, vì đây là hai đối thủ có thể ngăn cản hoặc phá vỡ kế hoạch tiến công của ông. Vì thế, mới ra quân, ông và Võ Đình Cường đã chỉ thị cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc chĩa mũi dùi thẳng vào Công Giáo và các đảng phái quốc gia. Thượng Tọa Thích Trí Quang không lường trước được phản ứng của phía Công Giáo, các đảng phái quốc gia và các Phật tử chân chính, nhất là các tông phái miền Bắc hay miền Nam.
Tạo lý do mới
Để tạo lý do xách động Phật tử đứng lên diệt "dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo", ngày 3.8.1964 Thượng Tọa Thích thiện Minh dẫn một phái đoàn Phật tử đến gặp Tướng Nguyễn Khánh, đưa hồ sơ tố cáo tại các địa phương "dư đảng Cần Lao" đang đàn áp Phật Giáo ở Quảng Nam và Đà Nẵng: Bắt bớ Phật tử ở Duy Xuyên, đốt nhà ở Tuy Phước, sát hại Phật tử ở An Thạch v.v. Sau khi điều tra, ban điều tra thấy rằng những người bị bắt đều là cán bộ cộng sản nằm vùng tổ chức phá rối.
Đánh phá các cơ sở Công Giáo
Áp đảo được các chính quyền địa phương, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại miền Trung quay mũi dùi tấn công thẳng vào Công Giáo. Các nhân viên Công Giáo trong các cơ quan công quyền bị phân biệt đối xử. Nhiều người bị bắt, bị cất chức hay bị đổi đi xa. Các giáo xứ thường bị khiêu khích và đe đoạ. Khi nhận thấy nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung quá lộng hành, các giáo xứ đã liên kết để tìm cách đối phó.
Ngày 26.8.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bất thần cho lệnh tấn công hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, đốt sạch nhà cửa, giết 11 người và gây thương tích cho 42 người. Khi tôi ra Đà Nẵng quan sát tại chỗ thì thấy quang cảnh giống như một bãi tha ma. Nhà thờ và tượng ảnh bị đập nát, những cột nhà đen nám chơ vơ giữa đống tro tàn... Tướng Nguyễn Chánh Thi tuyên bố chỉ cứu trợ chứ không chịu bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân, viện lý do vụ thiệt hại đó không phải lỗi của chính quyền. ông cho điều tra qua loa về nguyên nhân xẩy ra nội vụ, không quy trách hay truy tố ai, rồi cho xếp luôn hồ sơ. Người điều khiển cuộc đốt phá này là Hà Xuân Kỳ và Phan Xuân Huy. Nhờ vụ chỉ huy đốt phá này, về sau Phan Xuân Huy được Phật Giáo đưa ra làm Dân Biểu đơn vị Đà Nẵng. Cũng trong ngày đó, các giáo xứ tại Quy nhơn cũng bị đánh phá nặng nề, nhưng các tự vệ Công Giáo đã kháng cự được.
Được tin cầu cứu từ Đà Nẵng và Quy Nhơn, ngày 27.8.1964, khoảng 2.000 giáo dân các giáo xứ di cư đã đến bao vây Bộ Tổng Tham Mưu ở Saigòn đòi gặp Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, yêu cầu giải quyết vụ Đà Nẵng và Quy Nhơn, đòi phải có biện pháp đối với các tổ chức thân Cộng đang gây rối. Cuộc xô xát với binh sĩ xẩy ra, có 4 người bị bắn chết và 11 người bị thương. Một toán khác đến đài phát thanh Saigòn yêu cầu đọc bản Tuyên Ngôn chống Cộng và chống trung lập. Tại đây lại có một cuộc xô xát với học sinh trường Nguyễn Trường Tộ. Tòa Tổng Giám Mục Saigòn và Viện Hóa Đạo phải ra thông cáo yêu cầu các tín đồ giữ bình tĩnh và giữ hòa khí.
Ngày 28.8.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc vây trường Công Giáo Nguyễn Bá Tòng, vào đập phá nhà in của trường, đốt phá tòa báo Xây Dựng do linh mục Nguyễn Quang Lãm làm chủ nhiệm. Thanh niên các xứ Bùi Phát, Nghĩa Hòa, Tân Sa Châu và Xóm mới hay tin kéo đến giải vây. Cuộc xô xát giữa hai bên rất ác liệt. Lực lượng Nhảy dù được huy động tới để giải vây đã phải nổ súng. Kết quả có 2 người chết và 48 người bị thương phải vào bệnh viện. Hai xác thanh niên bị chết do tấn công vào trường Công Giáo Nguyễn Bá Tòng được đem về quàn tại Viện Hóa Đạo để làm lễ cầu siêu!
Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Hoà Thượng Thích Tâm Châu nói: "Trong khi đang tiến hành các việc, bỗng nhiên, Tướng Nguyễn Khánh cho tín đồ Thiên Chúa Giáo vùng Saigon Biên Hòa biểu tình vào Saigon, suýt xẩy ra cuộc tàn sát đẫm máu." Đây là một nhân định hoàn toàn sai lầm. Khối Công Dân Công Giáo đã ra lệnh biểu tình và phản ứng mạnh là do được điện cầu cứu từ Đà Nẵng cho biết hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi đã bị Hội Đồng Nhân Dân Cứu quốc thiêu rụi và sau đó Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc lại đập phá trường Nguyễn Bá Tòng và đốt tòa báo Xây Dựng của Linh mục Nguyễn Quang Lãm ở Saigon. Trong lúc chính quyền tỏ ra bất lực, không cách gì hơn là cho Hội Đồng Nhân Dân cứu Quốc một bài học để đừng tự tung tự tác nữa.
Ngày 29.8.1964 Viện Hóa Đạo tại Saigòn ra thông cáo tuyên bố từ nay không chịu trách nhiệm về các vụ bạo động. Nguyện vọng của Phật Giáo đã được thỏa mãn, các cuộc vận động chấm dứt. Thông cáo của Thượng Tọa Thích Tâm Châu bị Thượng Tọa Thích Trí Quang và các Phật tử ở Huế phản ứng mạnh mẽ, nên ngày 1.9.1964, Thượng Tọa Thích Tâm châu lại ra một thông cáo khác yêu cầu chính phủ phải dứt hoạt với "các nhóm người phá hoại của chế độ cũ". Yêu cầu chính phủ đừng chụp mũ các Phật tử tranh đấu là du đãng để bắt bớ. Thượng Tọa dọa nếu đến ngày 27.10.1964 không giải quyết, sẽ cho lệnh bãi thị và bãi khóa.
Để đáp lại, ngày 8.9.1964, Linh mục Hoàng Quỳnh, Chủ tịch Khối Công Dân Công Giáo, gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một thư ngỏ yêu cầu chính phủ quan tâm đến các vụ tấn công các cơ sở Công Giáo trong những ngày vừa qua, yêu cầu điều tra và giải quyết một cách vô tư các vụ tấn công các giáo xứ ở Đà Nẵng và Quy Nhơn. Nếu chính phủ không vãn hồi được an ninh thì các giáo xứ Công Giáo bắt buộc phải tổ chức tự vệ và không chịu trách nhiệm về những hậu quả.

Ngày 21.9.1964 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc cho lệnh tấn công đài phát thanh Quy Nhơn và lùng bắt dư đảng Cần Lao. Ngày 27.9.1964, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường ra lệnh mở các cuộc lùng bắt dư đảng Cần Lao tại Huế và các tỉnh Trung Phần.
Ngày 25.9.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Sàigòn hô hoán lên rằng dư đảng Cần Lao đang thuê lò rèn Lâm Hiệp Thành ở Xóm Củi rèn hàng ngàn con dao để chống cách mạng. Nhưng sau đó, Phái Đoàn Viện Trợ Hoa Kỳ ra thông cáo nói rõ số dao đó do Phái Đoàn đặt để cung cấp cho Phủ Bình Định và Phát Triển phát cho nông dân chớ không phải của dư đảng Cần Lao !
Khi các giáo xứ Công Giáo tại miền Trung và chung quanh Saigòn đã tự động võ trang tự vệ và sẵn sàng ứng chiến thì Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc không thể lộng hành như trước được.
Qua các trận đối đầu trên, người Công Giáo thấy rằng với sự lộng hành của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, không thể chờ đợi chính quyền, phải phản ứng mạnh mẽ, không tương nhượng, mới có thể tồn tại được. Tương nhượng trong trường hợp này sẽ bị hiểu lầm là khiếp sợ và khuyến khích thêm sự lộng hành. Nhóm thân Cộng như Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Văn Trung, Trương Bá Cần... đã phản đối chủ trương đó, nhưng nếu nghe họ chắc chắn đã bị thảm bại.
Vụ Linh mục Cao Văn Luận
Đối với Thượng Tọa Thích Trí Quang, có một cái gai ông muốn nhổ ngay từ đầu, đó là Linh mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, nhưng không dám nhổ ngay vì Linh mục Cao Văn Luận có công rất lớn trong việc xây dựng Viện Đại Học Huế, ông lại được hầu hết các giáo sư và sinh viên Đại Học Huế yêu chuộng vì tính tình hòa nhã, có tinh thần phục vụ tích cực và bất vụ lợi... Trong thời gian Phật Giáo chống chế độ Ngô Đình Diệm, ông không đứng về chính phủ. Nhưng sự hiện diện của ông lúc này gây trở ngại cho cuộc đấu tranh cướp chính quyền mà Thượng Tọa Thích trí Quang đang phát động, vì ông không bằng lòng cho đưa chính trị vào đại học. Ngoài ra, Thượng Tọa Thích Trí Quang không muốn có một người Công Giáo nắm địa vị quan trọng trong Viện Đại Học Huế, nhất là khi người đó là một linh mục. Viện Đại Học Huế phải trở thành của Phật Giáo. Vì thế, khi đã làm chủ được tình hình ở Huế và đa số các tỉnh miền Trung, Thượng Tọa Thích Trí Quang liền ra lệnh cho các giáo sư thuộc phe ông trong Viện Đại Học Huế dứt điểm vụ này. Trước hết, nhóm này cho xuất bản tờ tuần báo Lập trường để triển khai chủ trương của nhóm, cổ võ cho đường lối của Thượng Tọa Thích Trí Quang và công khai chống chính phủ.
Ngày 18.9.1964, một số giáo sư và sinh viên họp tại Viện Đại Học Huế, yêu cầu Linh mục Cao Văn Luận từ chức để khỏi trở ngại cho chiến dịch bài trừ Cần Lao của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Giáo sư Lý Chánh Trung đã mô tả và nhận xét về vụ này trong bài "Loạn để trị" đăng trong tạp chí Tìm Hiểu số 2 tháng 10 năm 1964. Giáo sư Lý Chánh Trung là một phần tử thân Cộng đã ủng hộ Phật Giáo trong cuộc tranh đấu chống chính phủ Ngô Đình Diệm, nhưng nay thấy cảnh trái mắt nói trên, ông đã viết như sau :
"Một nhóm Giáo chức Đại Học họp lại, đánh điện tín là ông Viện Trưởng phải từ chức, vì sự hiện diện của ông "không cần thiết nữa." Rồi người ta thấy Bộ Giáo Dục chấp nhận ngay sự từ chức đó, rồi ông Thủ Tướng bổ dụng ngay chính ông Tổng Trưởng Giáo Dục kiêm nhiệm chức Hiệu Trưởng viện Đại Học Huế. Ôi, con rùa hành chánh sao bỗng nhưng lại đi nhanh thế!"
Các sinh viên Đại Học Huế không đồng ý quan điểm của một số giáo sư nói trên, đã làm kiến nghị phản đối. Một giáo sư đại diện cho phe Phật Giáo đấu tranh đã trả lời rằng Cha Luận giống như một "ung thư" phải cắt đi để khỏi làm tê liệt thân thể. Giáo sư Lý Chánh Trung đã nói về cái "ung thư" đó như sau:
"Cái "ung thư" Cao văn Luận đã mọc từ trong bào thai của viện Đại Học Huế. Nó đã khai sinh và làm cho trưởng thành bào thai đó. Cái "ung thư" đó đã lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mới mọc từng người về giúp Viện Đại Học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáo. Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng "được" lắm chứ. Cái trường Y Khoa của Bác Sĩ Quyến, nếu không có niềm tin tưởng, cái gan lì và công vận động của Cha Luận, làm sao thành hình?"
Sau khi nói về những bất mãn của nhiều giới, giáo sư Lý Chánh Trung viết tiếp :
"Thật ra các anh đã "cách chức" Cha Luận vì Cha không đồng ý với các anh về mặt chính trị. Như vậy Viện Đại Học Huế đã biến thành một đảng chính trị rồi đó. Và ai không đồng ý với các anh đều là "ung thư" phải mổ phăng đi cho..."dễ làm việc" có phải vậy không?"
"Các anh đòi hỏi dân chủ. Đòi hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng, huênh hoang; bắt đầu làm chủ nhân chân lý, "xếp sòng cách mạng".(14)
Tại Saigòn, ngày 27.9.1964, "Lực Lượng Sinh Viên Học Sinh bảo vệ Giáo Dục thuần túy" tập họp và biểu tình trước Viện Hóa Đạo yêu cầu "đưa chính trị ra khỏi học đường". Hội Đồng Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh Saigòn họp ra quyết nghị chống việc các tổ chức chính trị xen lấn vào học đường và lôi cuốn sinh viên học sinh vào các cuộc phiêu lưu chính trị. Các tổ chức này đều bị phe tranh đấu tố cáo là tay sai của "dư đảng Cần Lao".
Đánh tất cả những ai không đồng chủ trương.

Sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cất chức Tư lệnh Vùng I vì dung dưỡng các phong trào ngụy hòa và sự lộng hành của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường thấy thế dựa bị mất, đã mở cuộc phản công Hội Đồng Quân Lực và tiến tới cướp chính quyền. Trong cuộc chiến này, Thượng Tọa Thích Trí Quang không dung tha bất cứ tổ chức nào mà ông coi là "phản động", không đứng về phe của ông.
Về phía các đảng phái, người ta thấy chỉ có nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc hệ phái Nguyễn Tường Tam do Nguyễn Tường Hiếu lãnh đạo đã theo phe Phật Giáo cực đoan Miền Trung, còn đa số các đảng phái khác hoặc đứng ngoài cuộc chiến hoặc chống lại. Về phía báo chí, ngoại trừ một vài tờ báo của Phật Giáo, hầu hết các báo không đồng ý với đường lối của Thích Trí Quang. Các tông phái Phật Giáo miền Nam rút ra khỏi phe tranh đấu như Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam... Ngay cả các tăng sĩ miền Bắc trong Viện Hóa Đạo cũng thường xuyên phản kháng các quyết định của ông. Trước tình trạng này, Thượng Tọa Thích Trí Quang không những không xét lại đường lối mà còn ra lệnh mở cuộc tấn công vào bất cứ tổ chức hay cơ quan nào không chấp nhận chủ trương của ông.
Ngày 6.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đến đập phá tòa soạn nhật báo Sống của Chu Tử, đốt mấy chiếc xe đậu phía trước và tố cáo báo này là tay sai của dư đảng Cần Lao. Ngày 8.4.1966 Nghiệp Đoàn Ký Giả ra thông cáo phản đối việc đốt phá tòa báo Sống.
Ngày 9.4.1966, Việt Nam Quốc Dân Đảng Đà Nẵng đã ra thông cáo tố cáo Lực Lượng đã phá trụ sở của họ và bắt đi các đảng viên.
Ngày 10.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng Đà Nẵng có trang bị súng tiểu liên và lựu đạn đã đến vây đánh giáo xứ Tam Tòa, nhưng bị phản công mãnh liệt nên đành rút lui. Ngày 28.4.1966, Lực Lượng ném lựu đạn vào nhà cha sở xứ Tam Tòa.
Ngày 16.4.1966, vào sáng sớm, ông Chu Tử tức Chu Văn Bình, chủ bút nhật báo Sống, vừa ra khỏi nhà thì bị mấy người đi xe gắn máy bắn nhiều phát. Ngày 17.4.1966, nhiều tổ chức và đoàn thể lên án vụ ám sát Chu Tử, trong số này người ta thấy các giáo sư và sinh viên trường Đại Học Luật khoa Saigòn, Tổng Hội Sinh Viên Saigòn và Đà Lạt, các luật sư, các nhà văn và nhà báo, v.v.
Ngày 21.4.1966, Việt Nam Quốc Dân Đảng họp tại Toà Đô Chánh Saigòn tố cáo các vụ đàn áp các đảng viên tại Đà Nẵng, chê trách chính quyền bất lực và quyết định tự vệ bằng võ lực. Cũng trong ngày này Quốc Dân Đảng Quảng Ngãi biểu tình chống khủng bố và bạo động.
Ngày 22.4.1966, Tỉnh Bộ Đại Việt Quảng Trị lên tiếng phản đối Lực Lượng đã khủng bố các đảng viên của họ.
Ngày 24.4.1966, giáo dân Công Giáo tại Saigòn, Thủ Đức và Đà Nẵng biểu tình chống khủng bố và bạo động, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Cabot Lodge.
Ngày 27.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ám sát ông Phan Thuyết, Bí Thư Quốc Dân Đảng Đà Nẵng. Giáo dân Đà Nẵng lại tập trung biểu tình ở Thanh Bình phản đối các vụ khủng bố và bạo động của Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.
Ngày 2.5.1966, trong khi các đảng viên Quốc Dân Đảng và thanh niên làm lễ truy điệu ông Phan Thuyết bị ám sát thì tại Đà Nẵng, đám tang của ông Phan Thuyết bị các thành phần của Lực Lượng đi xe jeep xả súng bắn làm cho 2 người bị thương nặng. Đồng bào Công Giáo ở Quy Nhơn và Hóc Môn biểu tình chống Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.
Ngày 7.5.1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ra lệnh cấm bán ở Huế và Đà Nẵng các nhật báo Chính Luận, Tự Do, Thời Luận và Tiền Tuyến vì cho rằng các báo này là của dư đảng Cần Lao. Ký giả Hà Thế Ruyệt của báo Quật Khởi đến săn tin trước Viện Hóa Đạo đã bị rượt đánh bị thương.
Ngày 14.5.1966 tại Saigòn, Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng đã ám sát ông Nguyễn Chữ, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, người đã lên tiếng tố cáo các vụ bắt bớ đảng viên và phá trụ sở của Đảng tại Đà Nẵng.
Ngày 26.5.1966, Sinh Viên Tô Lai Chánh, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Saigòn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt cóc. Sinh viên Tô Lai Chánh và Tổng Hội Sinh Viên quyết định không tham gia vào cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung nên bị Thượng Tọa Thích Thiện Minh tố cáo đã ăn tiền của chính phủ. Sinh viên Tô Lai Chánh và một số sinh viên đã tuyệt thực phản đối và yêu cầu Thượng Tọa Thích Thiện Minh chứng minh điều ông đã tuyên bố. Sau đó sinh viên Tô Lai Chánh đã bị bắt cóc. Các sinh viên và nhiều đoàn thể lên tiếng phản đối vụ bắt cóc này. Đến ngày 30.5.1966 sinh viên TÔ Lai Chánh mới được thả ra.
Đến giai đoạn này, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã khai chiến với các tông phái Phật Giáo khác không đi theo đường lối và chủ trương của ông. Ngày 29.5.1966, ông Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, phải viết văn thư yêu cầu Tòa Đô Chánh Saigòn cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa Xá Lợi. Ngày 2.4.1966, trong cuộc biểu tình trước đài phát thanh Saigòn, Lực Lượng của Thích Trí Quang hô to "Đả đảo Thích Tâm Châu" và "Hoan hô Hồ Chí Minh". Ngày 3.6.1966, Thượng Tọa Thích Trí Quang công khai lên án Chính sách ôn hòa của Thượng Tọa Thích Tâm Châu khiến Thượng Tọa này và Thượng Tọa Thích Hộ Giác tức giận tuyên bố từ bỏ các chức trong Viện Hóa Đạo. Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã phải ra Vũng Tàu hay vào Trung Tâm Nhu Đạo ở Quang Trung trốn vì sợ bị ám sát.
Về phương thức chống đối, chúng ta thấy nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung đã đi từ chụp mũ "dư đảng Cần lao" đến tố cáo là "tay sai chính quyền", rồi khủng bố, bắt giam, bắt cóc, ám sát, chiếm cơ quan công quyền, v.v. Không một phương tiện nào có thể xử dụng được mà nhóm này không xử dụng. Nhưng rồi cuộc đấu tranh của nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung ngày càng bị dân chúng chán ghét và lên án. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thượng Tọa Thích Trí Quang trở nên rối loạn, không còn kiểm soát được, đã mở đường cho chính quyền thanh toán.
CƯỚP CHÍNH QUYỀN
Sau khi đã thỏa mãn tiếng kêu đòi nợ máu của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ đến việc củng cố địa vị.
Hiến chương Vũng Tàu
Vốn là một quân nhân thuần túy, Tướng Nguyễn Khánh không có kinh nghiệm về chính trị và nhất là không biết gì đến thủ đoạn và chiêu bài của Cộng Sản, nên lầm tưởng rằng đưa những người mà Thích Trí Quang đòi nợ máu ra xử bắn hay phạt tù nặng là có thể lấy được lòng của nhóm Phật giáo miền Trung. Tướng Khánh không hiểu rằng "diệt dư đảng Cần Lao" chỉ là một mục tiêu biểu kiến, một chiêu bài để kích động quần chúng. Mục tiêu tối hậu vẫn là cướp chính quyền tại miền Nam Việt Nam. Vì thế, sau khi đưa Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông ra xử bắn và tuyên phạt khổ sai các thành phần bị đòi nợ máu trong danh sách của Thượng Tọa Thích Trí Quang, ông tưởng rằng ông đã được Phật Giáo ủng hộ nên thừa thắng xông lên và kết quả thật thật là thảm hại.
Ngày 16.8.1966, Tướng Nguyễn Khánh cho triệu tập Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng tại Vũng Tàu để công bố một bản Hiến Chương mới. Theo Hiến Chương này, sẽ có một Quốc Hội Lâm Thời gồm 100 hội viên dân sự và 50 hội viên quân sự do Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng chỉ định. Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng vẫn là cơ quan quyền lực tối cao. Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng cũng đã chỉ định Tướng Nguyễn Khánh làm Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều người vẫn tin rằng tác giả của bản Hiến Chương nói trên là Luật sư Nghiêm Xuân Hồng, Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng của chính phủ Nguyễn Khánh. ông Nghiêm Xuân Hồng là một luật sư có tư cách đàng hoàng, được nhiều người yêu mến, nhưng về phương diện chính trị, ông được xếp vào loại những nhà lập thuyết, hoạch định đường lối và chính sách theo "luận" chứ không theo các sự kiện thực tế nên không thực hiện được. Nhiều người đọc cách hành văn và ý tưởng trong bản tuyên bố do Tướng Nguyễn Khánh đọc tại California năm 1990 đều tin rằng bài đó cũng do Luật sư Nghiêm Xuân Hồng soạn. Đồng bào khó biết được người soạn và người đọc bản tuyên bố đó muốn nói cái gì, vì nó mang màu sắc của một triết thuyết mờ mờ ảo ảo hơn là một đường lối chính trị.
Hiến Chương vừa được công bố thì tất cả mọi giới trong nước đều lên tiếng chống đối. Các đảng Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn), Dân Chủ Xã Hội (Trương Bảo Sơn) và Quốc Dân Đảng (biệt bộ Nguyễn Tường Tam) lên tiếng công kích trước nhất, sau đó là Tổng Hội Sinh Viên Saigòn và khối Công Giáo. Tướng Nguyễn Khánh nhìn lại nhóm Phật Giáo đấu tranh ở miền Trung thì nhóm này cũng chống đối luôn. Sinh viên Saigòn là giới làm áp lực mạnh nhất đòi Tướng Nguyễn Khánh phải thu hồi Hiến Chương và thành lập một chế độ dân chủ.
Ngày 26.8.1964, nghĩa là chỉ 10 ngày sau ngày ban hành Hiến Chương Vũng Tàu, Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng phải tuyên bố thu hồi Hiến Chương và thiết lập các cơ chế dân chủ. Quân đội trở về cương vị quân sự. Tạm thời thành lập Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực gồm Tam Đầu Chế : Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh. Chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ nhưng phải tổ chức Quốc Dân Đại Hội vòng 2 tháng.
Không còn chính phủ
Lợi dụng cơ hội này, Thượng Tọa Thích Trí Quang tuyên bố không chấp nhận cơ chế tạm thời nói trên và hô hào loại bỏ Chế độ độc tài quân phiệt. Các cuộc bạo động trở nên dữ dội hơn. Miền Trung gần như không còn chính phủ nữa. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do Thượng Tọa Thích Trí Quang điều động đã nổi loạn khắp nơi và làm chủ tình thế ở các tỉnh miền Trung, thay chính quyền cai trị. Ngày 3.9.1964, Tướng Dương Văn Minh và Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh phải bay ra Huế trấn an phong trào Phật Giáo. Lúc đó Lý Chánh Trung đã viết bài "Loạn để Trị" đăng trên tờ Tìm Hiểu số 2 tháng 10 năm 1964 mô tả giai đoạn này như sau :
"Vì rằng từ mấy tháng nay, nhất là từ cái ngày Hiến Chương Ô Cấp "thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý" bị đập đổ, người dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của tự do. Tự do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấu. Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều "thiện chí" bằng cái chính quyền này : xun xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi người.
"Nhưng tội thay, không làm vừa lòng ai cả.
"Nhưng còn chính quyền nữa đâu mà nói ! Ai cầm quyền hiện nay tại miền Nam? Người Mỹ trả lời : ông Nguyễn Khánh, rồi "Ban Lãnh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực". Dưới Ban Lãnh Đạo Lâm Thời có một chính phủ "xử lý thường vụ" trong hai tháng (chỉ còn một). Trong chính phủ này, có một ông Phó Thủ Tướng đã bôn đào, 2 ông Tổng trưởng đã chấp nhận từ chức. Dưới nữa ta có các Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v.v... Tất cả guồng máy hành chánh vẫn nằm đó, công chức cuối tháng vẫn lãnh lương đều đều. Nhưng chính quyền, ôi chính quyền, mi ở nơi nao?
"Ở Huế có cái Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (rồi cứu quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đã cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thế rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để "thỉnh ý" Hội Đồng đó. Hội Đồng thương thuyết tay ngang với Chính Phủ. Tại nhiều Tỉnh miền Trung, những Hội Đồng tương tự được thiết lập và người ta đã chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người "dư đảng Cần Lao", đến đầu thú nơi ông Tỉnh thì được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội Đồng thì được trả về ông Tỉnh.
"Thế thì ai cầm quyền trên đất nước này ? Và dựa vào đâu những cái Hội Đồng đó dám tự xưng là "nhân dân"? Dân nào mà cử các ông ấy?"(15)
Chính trong thời gian khủng hoảng nói trên, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do Thượng Tọa Thích Trí Quang điều động đã thiêu rụi hai giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở miền Trung, tấn công các cơ sở ấn loát và báo chí của Công Giáo tại Saigòn. Nếu không có sự đối kháng của Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức Công Giáo tự vệ được thành lập tại mỗi giáo xứ, sự thiệt hại sẽ không lường được.
Lá bài Trần Văn Hương
Ngày 8.9.1964, Tướng Nguyễn Khánh ban hành Quyết Định số 7/BLĐQGQ thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia với nhiệm vụ soạn thảo Hiến Chương, triệu tập Quốc Dân Đại Hội, tổ chức các cơ cấu quốc gia, cố vấn cho chính phủ và Ban Lãnh Đạo Quốc Gia Lâm Thời Quân Lực. Thượng Hội Đồng này gồm đại diện của các tôn giáo và một số nhân sĩ. Về phía Phật Giáo người ta thấy có Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Nguyễn Xuân Chữ, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Đình Luyện và Tôn Thất Hanh.
Sau đó, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ ngay đến Giáo sư Trần Văn Hương, một người mà ông tin rằng có thể giúp ông ổn định tình thế vì các lý do sau đây: Giáo sư Trần Văn Hương là người Nam, rất thanh liêm, đã từng vào tù ra khám vì chống chế độ Ngô Đình Diệm. ông được người miền Nam và các tổ chức Phật Giáo miền Nam ủng hộ. ông là người rất cương quyết, không nhượng bộ những hành động phi pháp và bạo động làm mất trật tự công cộng. Như đa số những người Nam, ông không đồng ý đường lối đấu tranh của Thượng Tọa Thích Trí Quang. Dùng ông, những người miền Nam sẽ chống lại cuộc đấu tranh của nhóm Phật Giáo miền Trung.
Ngày 9.9.1964, Giáo Sư Trần Văn Hương được cử làm Đô Trưởng Saigòn thay thế Thiếu Tướng Dương Ngọc Lắm. Tuy là Đô Trưởng nhưng ông được xếp ngang hàng Tổng Trưởng.
Ngày 13.9.1964, Trung Tướng Dương Văn Đức và Thiếu Tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Saigòn-Gia Định chiếm đóng một số cơ sở quan trọng như đài phát thanh, Phủ Thủ Tướng ... rồi lên tiếng đả kích Tướng Nguyễn Khánh hèn nhát và mị dân. Tường Đức nhân danh "Hội Đồng Quân Dân Cứu Quốc" tuyên bố vãn hồi trật tự đã bị phá hoại và uy quyền quốc gia đã bị miệt thị. Tướng Đức nói không có đảo chánh, chỉ biểu dương lực lượng. Ngày 19.9.1964, Tướng Đức và các sĩ quan theo Tướng Đức bị cất chức. Các Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ở miền Trung lại lộng hành hơn.
Ngày 20.10.1964 Hiến Chương Lâm Thời được ban hành. Theo Hiến Chương này Quốc Dân Đại Hội có quyền lập pháp và cử Quốc Trưởng. Thủ Tướng do Quốc Trưởng chọn và Quốc Dân Đại Hội chấp thuận.
Ngày 24.10.1964, Thượng Hội Đồng Quốc Gia tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa theo Hiến Chương ngày 10.10.1964. Tướng Nguyễn Khánh đệ đơn từ chức Thủ Tướng và từ giã chính quyền trở về quân đội. Ngày 31.10.1964, Giáo Sư Trần Văn Hương được cử giữ chức Thủ Tướng.
Sau khi Thủ Tướng Trần Văn Hương lập chính phủ và công bố chương trình hoạt động, các sinh viên tổ chức hội thảo đòi phải hành động mạnh, không chấp nhận chính phủ "chuyên viên". Do sự đòi hỏi của mọi giới, ngày 13.11.1964, Thủ Tướng Trần Văn Hương tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Quốc Gia rằng chính phủ phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị và tôn giáo, đưa tôn giáo ra khỏi chánh trị. Lệnh dẹp các cuộc biểu tình và nổi loạn được ban hành ngay sau đó. Tướng Nguyễn Khánh được cử làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội.

Để đối phó với thái độ cứng rắn của Thủ Tướng Trần Văn Hương, Thượng Tọa Thích Trí Quang ra lệnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc biểu tình khắp nơi đả đảo chính phủ Trần Văn Hương. Ngày 24.11.1964, Thượng Tọa Thích Tâm Châu gởi văn thư yêu cầu Thượng Hội Đồng Quốc Gia có thái độ đối với Thủ Tướng Trần Văn Hương. ông Hương lại ra lệnh đóng cửa các trường học cho đến khi có lệnh mới và tuyên bố không lùi bước và sẽ dùng mọi cách để tái lập trật tự. Có 228 người biểu tình và gây rối bị bắt.
Ngày 29.11.1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tổ chức đưa đám tang học sinh Lê Văn Ngọc bị chết trong cuộc biểu tình ngày 25.11.1964. Cảnh sát khám thấy chiếc xe NDG.228 trong đoàn hộ tang có chở võ khí liền bắt giam một số người. Các cuộc biểu tình và bãi khoá được tổ chức liên tục, chính phủ ra lệnh đàn áp thẳng tay. Các Thượng Tọa Tâm Châu, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác lại bắt đầu tuyệt thực. Viện Hóa Đạo đóng cửa ngưng hoạt động.
Tuy đã giao quyền cho chính quyền dân sự, ngày 18.12.1964 Nguyễn Khánh lại cho thành lập Hội Đồng Quân Lực và ngày 20.12.1964 Hội Đồng này tuyên bố bất tín nhiệm và giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia vì cho rằng Thượng Hội đồng bị một số tướng lãnh có óc bè phái mua chuộc, gây chia rẽ hàng ngũ quốc gia. Một số thành viên của Thượng Hội Đồng đã bị lưu giữ. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và chính phủ Trần Văn Hương vẫn được tín nhiệm.
Tướng Trần Văn Đôn kể lại rằng khi đến Đà Lạt, Tướng Nguyễn Khánh đã than phiền về Thượng Hội Đồng Gia. ông nói Thượng Hội Đồng gồm các tay chân thân tín của Dương Văn Minh, những người này chống lại tất cả những quyết định của ông. ông sẽ về Sai gòn làm đảo chánh để bắt tất cả "những tên phản động" đó. Quả thật, Thượng Hội Đồng gồm nhiều đại diện của phe Thích Trí Quang như Lê Khắc Quyến, Ngô Gia Hy, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đình Luyện, Hồ Đắc Thắng..., phe này luôn tìm cách quấy phá chính phủ Trần Văn Hương nên chính phủ này không làm gì được.
Bị xát xà phòng
Nhìn thấy cảnh Thượng Hội Đồng Quốc Gia bị thanh toán như trở bàn tay, ngày 20.12.1964 đại sứ Hoa Kỳ lúc đó là Tướng Maxwell Taylor đã mời Tướng Nguyễn Khánh và một số tướng trẻ đến ăn cơm tối tại nhà Tướng Westmoreland để "xát xà phòng". Trong bữa tiệc này, về phía Việt Nam người ta thấy có các tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang. Về phía Mỹ có Đại Sứ Maxwell D. Taylor và phụ tá của ông là U. Alexis Johnson. Tướng Taylor đã nói với các tường Việt Nam: "Đêm nay, tại nhà của Tướng Westmoreland, tôi nói rõ do các anh rằng Hoa Kỳ không còn muốn dung thứ cho những âm mưu gây ra tình trạng bất ổn nữa." Tướng Taylor tỏ ra khó chịu về việc bắt giữ các thành viên của Thượng Hội Đồng mà không hề hỏi ý kiến của ông ta. ông nói nếu tình trạng này kéo dài, Hoa Kỳ phải nghĩ đến việc cắt viện trợ.
Bắt chước Ngô Đình Nhu ?
Tướng Nguyễn Khánh đã tỏ ra tức giận về những lời nói bộc trực của Tướng Taylor. Ngày hôm sau ông tuyên bố với báo chí: "Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn tủi nhục trong nô lệ ngoại bang." Sau đó Tướng Khánh ra lệnh phóng thích vợ của Huỳnh Tấn Phát, một lãnh tụ cao cấp của Mặt Trận Giải Phóng Mìên Nam, rồi gởi cho Huỳnh Tấn Phát một bức thư đề nghị liên hiệp. Ngày 28.1.1965, Huỳnh Tấn Phát phúc đáp thư của Nguyễn Khánh, ca tụng Nguyễn Khánh có tinh thần bất khuất, không chịu áp lực của đế quốc và thực dân và đề nghị Nguyễn Khánh cùng các bạn của ông tham gia Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nguyễn Khánh ngây thơ về chính trị đến mức không hiểu được Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Huỳnh Tấn Phát chỉ là một tên hữu danh vô thực trong Mặt Trận, làm sao quyết định được việc ông đề nghị? Cho đến nay, Tướng Khánh vẫn cho rằng nếu lúc đó ông không bị lật đổ, "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã về với mình và đã có hòa bình lâu rồi"! Nguyễn Khánh muốn làm một Ngô Đình Nhu, nhưng tư thế và tầm vóc của ông quá nhỏ bé nên Bắc Việt không muốn nói chuyện.
Luồn gió bẻ măng
Lợi dụng sự căng thẳng giữa Tướng Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ, Hà Nội đã chỉ thị các đặc công Cộng Sản nằm vùng tấn công thẳng vào Hoa Kỳ và thành lập các tổ chức ngụy h lệnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc hành động. Ngày 22.1.1965, đoàn biểu tình kéo tới Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hàm Nghi, đưa cao các biểu ngữ "Hãy để cho dân tộc Việt Nam tự quyết" và đả đảo Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Sau đó, đoàn biểu tình kéo tới đập phá thư viện Lincoln ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, trước Tòa Đô Chánh Saigòn. Khoảng 100 người bị bắt. Thủ Tướng Trần Văn Hương phải xin lỗi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và đọc một bài hiệu triệu quốc dân ý thức trách nhiệm trước tình thế, tránh bạo động và lên án "lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng ni..." và "những trò khỉ của chúng".
Ngày 23.1.1965, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc kéo tới Phòng Thông Tin Hoa Kỳ ở Huế ném đá rồi đốt thư viện với khoảng 5.000 cuốn sách. ông Phó Lãnh Sự Hoa Kỳ tới định chữa cháy thì bị ném đá phải bỏ chạy. Sinh viên đặt rào cản trước các phân khoa đại học không cho sinh viên vào học. Tình hình ngày càng rối loạn hơn.
Quân Đội quay trở lại
Ngày 27.1.1965, Hội Đồng Quân Lực ra tuyên cáo nói rằng Quân Đội đã trao quyền cho lại cho một chánh quyền dân sự, nhưng tình thế ngày càng rối ren hơn nên Quân Đội buộc lòng phải đứng ra lãnh trách nhiệm lịch sử. Hội Đồng uỷ nhiệm cho Tướng Nguyễn Khánh giải quyết các cuộc khủng hoảng và tổ chức Quốc Dân Đại Hội.
Được tin Quốc Dân Đại Hội được thành lập, khối Phật Giáo tỏ vẻ phấn khởi. Nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang tin rằng nếu tổ chức Quốc Dân Đại Hội, phe của ông sẽ nắm đa số và quyết định mọi đường lối của quốc gia. Viện Hoá Đạo đưa ra ngay một thông cáo tuyên bố ngưng các cuộc tranh đấu và ra lệnh trở lại sinh hoạt bình thường. Các lãnh tụ Phật Giáo tự động chấm dứt tuyệt thực.
Hôm 28.1.1965, Hội Đồng Quân Lực ban hành quyết định lưu nhiệm Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và cử Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh quyền Thủ Tướng.
Thượng Tọa Thích Trí Quang họp báo phân trần: Phật Giáo không muốn chính quyền dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi Phật Giáo là Cộng Sản. Phật Giáo không chống Mỹ nhưng Việt Nam không muốn bị hiểu lầm.
ông muốn tỏ thái độ hòa dịu để dành nỗ lực đạt thắng lợi tại Quốc Dân Đại Hội.
Bất thần không quân Mỹ ném bom miền Bắc ngày 7.2.1965 và những ngày kế tiếp. Hành động đột biến này của Mỹ là yếu tố thứ hai khiến Thích Trí Quang phải ngưng tranh đấu để xét xem những diễn biến mới của tình thế và đợi chỉ thị.
Ngày 15.2.1965, Tướng Nguyễn Khánh, nhân danh Hội Đồng Quân Lực, ban hành quyết định tuyển ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng và Bác Sĩ Phan Huy Quát làm Thủ tướng. Chiều hôm đó Thủ Tướng trình diện thành phần chính phủ, trong đó Trần Quang Thuận làm Bộ Trưởng Xã Hội, Bùi Diễm làm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng... Chính phủ này được coi là chính phủ Phật Giáo, nên Thượng Tọa Thích Trí Quang không chống chính phủ nữa.
Ngày 19.2.1965, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát và Nguyễn Bảo Kiếm tổ chức đảo chánh dưới danh nghĩa Lực Lượng Bảo Vệ Dân Tộc, đòi Nguyễn Khánh từ chức trao chính quyền lại cho dân sự. Cuộc đảo chánh bất thành. Thượng Tọa Thích Tâm Châu lên đài phát thanh kêu gọi Phật tử ủng hộ Hội Đồng Quân Lực. Tướng Nguyễn Chánh Thi cho rằng cuộc đảo chánh này do Đại Sứ Maxwell D. Taylor xúi biểu.
Kể từ khi Tướng Nguyễn Khánh chống lại Đại Sứ Taylor, các tướng lãnh nhận thấy phải thay Tướng Khánh mới được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng chưa có cơ hội. Nhân dịp có đảo chánh, Tướng Khánh đang lẩn tránh ở Ba Xuyên, Hội Đồng Quân Lực họp và quyết định cử Trung Tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội thay Tướng Nguyễn Khánh và bổ nhiệm Tướng Nguyễn Khánh làm Đại Sứ Lưu Động.
Mở mặt trận mới : ngụy hòa
Khi đã có một chính phủ Phật Giáo, Thượng Tọa Thích Trí Quang không chống chính phủ nữa mà mở mặt trận mới: đòi Mỹ ngưng chiến tranh. Chiến dịch này nhắm chống lại Hoa Kỳ ném bom Bắc Việt và mở rộng hành quân ở miền Nam.
Ngày 27.2.1965, Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục, tuyên bố thành lập Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, yêu cầu chấm dứt chiến tranh Việt Nam và rút quân đội Hoa Kỳ khỏi miền Nam Việt Nam.
Nhận diện đây là một tổ chức ngụy hòa do các cán bộ cộng sản nằm vùng giựt dây, các đảng phái quốc gia và các đoàn thể tôn giáo đã phản ứng mạnh mẽ, yêu cầu chính phủ Phan Huy Quát có thái độ dứt khoát đối với các tổ chức ngụy hòa. Ngày 1.3.1965, chính phủ Phan Huy Quát vội vàng tuyên bố : Chỉ nói chuyện hòa bình khi cộng sản chấm dứt xâm lăng. Việt Nam Cộng Hòa cương quyết chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản để bảo vệ tự do. Ngày hôm sau, Ngũ Giác Đài tuyên bố tiếp tục ném bom Bắc Việt để ngăn chặn sự xâm lăng của Bắc Việt. Tại Việt Nam, chính phủ Việt Nam và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ra một thông cáo chung giải thích rằng phải oanh tạc các cơ sở quân sự ở Bắc Việt vì các cơ sở này yểm trợ cho cuộc xâm lăng miền Nam.
Mặc cho những lời giải thích trên, chiến dịch của Phật Giáo đòi hòa bình vẫn được đẩy mạnh, các truyền đơn ngụy hòa được rải khắp nơi. Khi chiến dịch này lên cao độ, đã có những cuộc tự thiêu để đòi hòa bình: Thích Giác Thành tự thiêu sau Viện Hóa Đạo vì thấy cảnh tang tóc của chiến tranh, Ni cô Thích Huệ Thiên đổ xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân, Gia Định, nhưng được cứu thoát. Ni cô cho biết muốn tự thiêu vì thấy những đau khổ do chiến tranh gây ra v.v.
Phong trào Bảo Vệ Hòa Bình đã gây khó khăn cho chính phủ Phan Huy Quát. ông phải ra lệnh cho Tổng Nha Cảnh Sát có biện pháp mạnh. Ngày 5.3.1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra thông cáo cho đồng bào biết phong trào ngụy hòa do Việt Cộng giựt giây, tuy có nhiều tên khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu : làm suy yếu tinh thần chống Cộng của quân dân miền Nam và gây mâu thuẫn trong hàng ngũ quốc gia. Sau đây là những tên khác nhau của tổ chức này : Ủy Ban Vận Động Hòa Bình, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Lực Lượng Tranh thủ Cách Mạng, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh, Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Hạnh Phúc Dân Tộc v.v. Điều chắc chắn là Thượng Tọa Thích Trí Quang đã thành lập Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, còn Thượng Tọa Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình Hạnh Phúc Dân Tộc.
Vì phản ứng của dư luận rất mạnh mẽ, ngày 11.3.1965, Viện Hóa Đạo phải ra thông cáo tuyên bố : Ủy Ban Vận Động Hòa Bình do Thượng Tọa Thích Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan gì đến Viện Hóa Đạo.
Dựa vào thông cáo này, Bộ Nội Vụ công bố danh sách 358 người đã ký tên vào kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình: 3 luật sư, 5 bác sĩ và dược sĩ, 5 kỹ sư, 11 ký giả, 20 giáo viên, 22 công chức, 64 buôn bán, 78 lao động, 24 sinh viên, 77 học sinh v.v. Ngày 17.3.1965, Thượng Tọa Thích Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ Tịch Phong Trào. Cảnh sát liền được lệnh bắt một số nhân vật quan trọng trong các tổ chức nguỵ hòa.
Ngày 19.3.1965, ba người thuộc Phong Trào Bảo Vệ Hoà Bình bị trục xuất ra miền Bắc qua cầu Hiền Lương: Bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và ký giả Cao Minh Chiếm.
Dù đã có hành động biểu diễn như vậy, người ta thấy các tổ chức ngụy hòa vẫn tiếp tục hoạt động. Một Khối Quốc Gia Chống Cộng đã được thành lập. Khối này gồm đại diện Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Công Giáo và Tổng Giáo Hội Phật Giáo hợp thành. Ngày 2.6.1965, do Trung Tướng Nguyễn Thành Phương hướng dẫn, Khối đã đến gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu phải thành lập một chính phủ quốc gia chống Cộng và chống trung lập thật sự, giải tán chính phủ Phan Huy Quát vì có nhiều thành phần thân cộng trong chính phủ đã bảo trợ cho các tổ chức ngụy hòa. Một Ủy Ban Liên Tôn mới thành lập lại ra thông cáo tố cáo chính phủ Phan Huy Quát âm mưu ban hành một quy chế hạn chế quyền tự do tôn giáo.
Phong trào chống chính phủ Phan Huy Quát nổi lên khắp nơi. Trước tình thế này, Tổng Nha Cảnh Sát phải ra một thông cáo yêu cầu tất cả những người đã ký tên trong kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Hòa Bình phải ra trình diện. Không chịu nổi áp lực, ngày 11.6.1965, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát đều từ chức, trao quyền lại cho Quân Đội. Các tướng lãnh thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, ban hành Hiến ước mới và cử Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ.
Ngày 24.8.1965, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đưa các thành phần của Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết ra trước Tòa án Quân sự Mặt Trận xét xử. Những bằng chứng cho thấy nhóm này đã hoạt động cho Cộng Sản được đưa ra trước tòa. Kết quả tòa tuyên phạt 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị án tù treo và tha bổng 6 người. Nhưng Thượng Tọa Thích Quảng Liên không bị truy tố!
Khi tình hình chính trị tại miền Nam tiến tới giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, Phật Giáo miền Trung đang đẩy mạnh chiến dịch ngụy hòa và bài Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã cử ông Cabot Lodge trở lại làm Đại Sứ tại Việt Nam Cộng Hòa thay thế Tướng Maxwell D. Taylor. ông đến trình ủy nhiệm thư và nhận chức ngày 25.8.1965. Các nhà bình luận chính trị hiểu rằng sứ mạng của ông lần này không phải là để "cứu Phật Giáo" như lần trước, mà là để thanh toán con bài tôn giáo mà Hoa Kỳ đã lỡ dựng lên để làm chiêu bài lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Số phận của con bài Phật Giáo miền Trung đã được định đoạt từ hôm nay.
Ngày 20.10.1965, ông Edgar Hoover, Giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ tuyên bố Cộng Sản đang xúi giục biểu tình chống chánh sách Mỹ tại Việt Nam và gia tăng các hoạt động phản chiến.
Bằng chứng về hoạt động của Cộng Sản dưới danh nghĩa các phong trào đòi hòa bình ngụy tạo quá rõ ràng khiến Thượng Tọa Thích Trí Quang không chối cãi được. ông đành chịu im tiếng để cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ hành động. Nhưng ông chuẩn bị và chờ cơ hội để mở một cuộc tấn công mới nhằm cướp chính quyền.
Ngòi thuốc súng
Khi bị đánh tại miền Nam, nhóm Phật Giáo cực đoan quay về hoạt động tại Vùng Một vì nơi đây có Tướng Nguyễn Chánh Thi che chở cho họ.
Qua việc chính phủ Phan Huy Quát bị lật đổ và các phong trào ngụy hòa bị dẹp tan, nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang nhận ra rằng các tôn giáo và các đảng phái quốc gia là những lực lượng có thể phá vỡ các kế hoạch của ông, nên khi phát động thánh chiến trở lại, trước tiên ông phải cho tấn công ngay vào các tổ chức này dưới danh nghĩa "diệt dư đảng Cần Lao". Các tông phái Phật Giáo miền Bắc và miền Nam tách dần ra khỏi Giáo Hội là một thiệt hại lớn, làm cho lực lượng đấu tranh yếu hẳn đi. Để bù đắp lại, nhóm này đã cố gắng củng cố lại lực lượng ở các tỉnh miền Trung, nhất là trong hàng ngũ sinh viên và quân nhân. Võ Đình Cường biến các Khuôn Bộ Phật Giáo thành những Chi Bộ Phật Giáo giống hệt như tổ chức của Đảng Cộng Sản.
Đại Tá Nguyễn Chánh Thi lưu vong mới trở về được hai tháng thì được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn dưới quyền của Tướng Nguyễn Khánh. Ông nhận chức ngày 14.12.1964. Chính trong hoàn cảnh này ông đã hợp tác với Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "chỉnh lý" ngày 30.1.1964.
Ngày 14.11.1964 Tướng Nguyễn Chánh Thi đã được Tướng Nguyễn Khánh cử làm Tư Lệnh Vùng I thay Tướng Tôn Thất Xứng. Tướng Dương Văn Minh cũng như Tướng Nguyễn Khánh đều hiểu rõ tính ngang bướng của Tướng Nguyễn Chánh Thi nên muốn đẩy ông đi một vùng xa xôi cho êm chuyện. Vả lại, miền Trung là vùng của Thượng Tọa Thích Trí Quang, một người hay sinh sự. Phải có một tướng ngang bướng như Tướng Thi mới ứng phó được. Nhưng khi nắm được Tư Lệnh Vùng I kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Miền Trung, Tướng Thi đã dựa vào lực lượng Phật Giáo tại đây để củng cố tư thế và địa vị, còn Thích Trí Quang dựa vào Tướng Thi để tổ chức các cơ cấu địa phương, triển khai phong trào ngụy hòa và bài Mỹ dưới mọi hình thức. Sự liên kết này đã làm các tướng lãnh Việt Nam và Hoa Kỳ bực mình.
.Tướng Thi kể lâu rằng Rib Robinson, trùm CIA thời đó, đã đến gặp ông tại văn phòng và báo cho ông biết đã có sự hiểu sai về vai trò của Mỹ ở Việt Nam nên nhiều chuyện đáng tiếc đã xẩy ra. Rib Robinson đã nói thẳng với ông những "ghi nhận" của Hoa Kỳ như sau:
- Tinh thần "chống Mỹ" mỗi ngày mỗi rõ rệt, cụ thể là phản đối Hội Nghị Honolulu.
- Khuyến khích dân chúng miền Trung không hợp tác với chính phủ trung ương Saigòn.
- Nhiều lần không tuân hành lệnh Saigòn một cách bướng bỉnh.
Tướng Thi nói rằng ông không chấp nhận bất cứ ai bỏ tiền ra giúp rồi cư xử như quan thầy.(16)
Không thể kéo dài tình trạng trên, ngày 11.3./966 Hội Đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia đã họp 5 tiếng đồng hồ liên tục tại Bộ Tổng Tham Mưu và công bố cho tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ phép đi chữa bệnh mũi tại Hoa Kỳ. Đại Tướng Westmoreland viết cho Tướng Thi một văn thư nói sẵn sàng dành cho ông những phương tiện để đến Hoa Kỳ kiểm tra sức khỏe. Ngày 13.3.1966, Hội Đồng Tướng Lãnh lại tái họp bỏ phiếu với 32 thăm thuận và 4 thăm trắng cho Tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư Lệnh Sư Đoàn I, được cử làm Tư lệnh Vùng I thay thế Tướng Thi.
Khi thấy một con gà quan trọng của Phật Giáo bị loại ra khỏi chính trường, Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp khẩn cấp và công bố lập trường 4 điểm :
- Các tướng lãnh có công với cuộc cách mạng phải được trở lại quân đội.
- Các tướng lãnh trở về cương vị quân sự.
- Lập chính phủ đoàn kết.
- Bầu cử quốc hội.
Mục tiêu thật sự của bản tuyên bố này là đòi hỏi phải đưa các tướng Phật Giáo trở lại chính quyền. Các cuộc biểu tình lại được phát động để yêu cầu thỏa mãn nguyện vọng của Phật Giáo.
Nhưng nhân lễ nhận chức Thị Trưởng Đà Lạt của bà Nguyễn Thị Hậu vào ngày 19.3.1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố các cuộc xuống đường hay đình công bãi thị chẳng ảnh hưởng gì chính phủ cả. Để đáp lại sự thách đố này, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường ra lệnh đình công và bãi thị khắp các tỉnh miền Trung, nhất là ở Huế và Đà nẵng. Sinh viên và học sinh ở Huế biểu tình chống Mỹ. Tòa Lãnh Sự và các cơ quan của Mỹ tại Huế phải đóng cửa để đề phòng các vụ phá phách.
Ngày 14.3.1966, Đại Tá Sam Wilson và ông Ted Britton đến hỏi Tướng Thi rằng nếu đưa ông trở về lại Đà Nẵng, có thể ổn định tình hình được không. Tướng Thi trả lời ông không dám hứa. Ngày 15.3.1966, hai Đại Tá Phạm Văn Liễu và Nguyễn Ngọc Loan đưa Tướng Thi ra Đà Nẵng. Ông kêu gọi đồng bào bình tĩnh nhưng Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường không để ý chuyện đó. Vụ cất chức Tướng Nguyễn Chánh Thi chỉ là một cái cớ để phát động đấu tranh trở lại mà thôi, mục tiêu chính vẫn là tiến tới nắm chính quyền bằng áp lực hay bằng quân sự.
Ngày 25.3.1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố các vụ lộn xộn miền Trung gây trở ngại cho việc tiếp tế cho dân chúng và vận tải quân nhu. Sau đó ông lại tuyên bố sẽ dùng biện pháp mạnh để đối phó nếu các vụ lộn xộn tràn lan. Tướng Kỳ cho biết 8 quân nhân tham gia biểu tình đã bị thuyên chuyển.
Ngày 27.3.1966, trong khi 20.000 người biểu tình tại Huế, Linh mục Hoàng Quỳnh, đại diện Khối Công Dân Công Giáo đã đòi hỏi phải lập chính phủ dân sự nhưng không muốn có bạo động. Ông cho rằng tổng tuyển cử ngay lúc này chưa thuận lợi. Phật Giáo Hòa Hảo, một số đảng phái chính trị và tổ chức sinh viên tại Saigòn ra tuyên bố muốn tiến tới một chế độ dân chủ nhưng chống lại các vụ gây xáo trộn.
Mặc cho những lời tuyên bố và phản kháng nói trên, phong trào chống Mỹ được đẩy mạnh cùng một lúc ở Huế và Saigòn. Tại Huế cũng như tại Saigòn, người ta thấy các đoàn biểu tình đưa cao những biểu ngữ: "Down with US Obstruction", "We want Independence", "Nước Việt Nam của Người Việt Nam", "Người Mỹ gây rối cho Nhân Dân Việt Nam", v.v. Thượng Tọa Thích Trí Quang cho rằng hai Tướng Thiệu và Kỳ dám chống lại Phật Giáo là do có Mỹ đứng đằng sau nên phải chống Mỹ.
Ngày 5.4.1966, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tuyên bố mong muốn các vụ lộn xộn tại Việt Nam phải sớm giải quyết. Các lãnh tụ tôn giáo và chính trị nên hội ý với nhau để sớm có Hiến Pháp dân chủ. Hoa Kỳ không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Việt Nam. Mọi giải pháp đều do người Việt tự quyết định.
Phối hợp chiến tranh chính trị với chiến tranh quân sự.
Tại Huế và Đà Nẵng, Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường đã phối hợp với một số cán bộ Việt Cộng nằm vùng, các chính khách hoạt đầu và một số Phật tử cực đoan làm nồng cốt chỉ huy và thúc đẩy cuộc nổi loạn cướp chính quyền, trong số này người ta thấy có Võ Đình Cường (cán bộ CS), Nguyễn Trực (cán bộ CS), Hoàng Phủ Ngọc Phan (cán bộ CS), Hoàng Phủ Ngọc Tường (cán bộ CS), Tống Hồ Cầm (cán bộ CS), Bùi Hữu Giao, Nguyễn Tường Hiếu (Việt Nam Quốc Dân Đảng hệ phái Nguyễn Tường Tam), Thái Đình Quang, Thái Doãn Trinh, Hoàng Phúc, Hoàng Thị Như Mai, Lê Văn Hảo (hiện ở Pháp), Hoàng Ngọc Giàu (cán bộ CS), Lê Tuyên (hiện ở Virginia), Ngô Văn Bằng (hiện ở Mỹ), Ngô Kha (cán bộ CS), Hà Xuân Kỳ (cán bộ CS), Tống Nhạn, Phan Xuân Huy, Nguyễn Đức Nghị, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Văn Hàm (cán bộ CS), Tư Đồ Minh, Nguyễn Vãn Mẫn, Bửu Tôn v.v. Mọi kế hoạch hành động đều do Võ Đình Cường và Nguyễn Trực soạn thảo theo chỉ thị và hướng dẫn của Lê Tự Đồng, Bí Thư Khu ủy và Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên Huế của Việt Cộng.

Ngày 1.4.1966, Trung Tướng Phan Xuân Chiểu đã ra Huế để dàn xếp các vụ lộn xộn thì bị Thượng Tọa Thích Trí Quang ra lệnh bắt giữ làm con tin, không cho trở về Saigòn. Tướng Thi kể lại rằng chính ông đã can thiệp để Tướng Chiểu được thả ra. Sau đó, các lực lượng quân đội theo phe Thích Trí Quang đứng lên cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, hô hào dân chúng võ trang chống Thiệu Kỳ. Tại Quảng Trị và Quảng Ngãi, quân đội còn giữ được.
Ngày 2.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho vây Đài Phát Thanh Saigòn, hô khẩu hiệu "Đả đảo Thích Tâm Châu" và "Hoan hô Hồ Chí Minh".
Ngày 3.4.1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo tuyên bố coi như Huế và Đà Nẵng đã mất vào tay Cộng Sản. Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, Thị Trưởng Đà Nẵng, đã ra lệnh đình công bãi thị để chống chính quyền trung ương và dùng công quỹ tổ chức biểu tình. Chiến dịch bài Mỹ được phát động để ly gián giữa Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh nhằm cô lập Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Kỳ cho biết sẽ đưa quân đội đến giải phóng Đà Nẵng.
Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà đứng hẳn về phía Thích Trí Quang. Ông huấn luyện quân sự, cấp vũ khí cho các thanh niên Phật tử và tổ chức họ thành những đơn vị chiến đấu. Một số binh sĩ theo ông đã bỏ ngũ gia nhập lực lượng này. Nhưng Đại Tá Đàm Quang Yêu là một sĩ quan có trình độ kiến thức quá thấp, tính tình lại nông nổi, nóng nảy và cộc cằn nên không đủ khả năng làm được việc lớn và không đoán trước trước được những hậu quả của việc ông đang làm.
Hoa Kỳ ra lệnh tản cư các cơ quan của Hoa Kỳ ra khỏi thị xã Đà Nẵng. Đại Tá Đàm Quang Yêu cho thiết lập các công sự chiến đấu ở các chùa tại Đà Nẵng và hô hào dân chúng dùng mọi phương tiện để chống lại quân đội Thiệu-Kỳ. Trong lúc đó, Tướng Kỳ ban hành quyết định cất chức Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn và cử Trung Tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh Trưởng Bình Long, làm Thị Trưởng Đà Nẵng.
Ngày 5.4.1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đích thân dẫn hai tiểu đoàn ra Đà Nẵng hội đàm với Thiếu Tướng Chuân và lên tiếng kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ. Khi Tướng Kỳ lui về Saigòn thì các tiểu đoàn dù được chuyển tạm vào căn cứ Chu Lai của Hoa Kỳ ở Quảng Tín, gần sát Đà Nẵng. Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn và khoảng 400 binh sĩ đã kéo đến lập một căn cứ phòng thủ tại chùa Phổ Đà. Khi máy bay lượn trên thành phố rải truyền đơn kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ để diệt trừ các cuộc nổi loạn do Cộng Sản giựt dây thì chuông các chùa Phổ Đà, Tỉnh Hội, Vĩnh Hội, Phật Học, Phổ Thiên, Giảng Đường, Vu Lan.. được khua lên inh ỏi. Sau đó là tiếng trống, thùng thiếc, phèng la, mõ.. kêu vang cả thành phố.
Trong lúc tình hình Đà Nẵng căng thẳng thì Thượng toạ Thích Tâm Châu tuyên bố trước 10.000 Phật tử rằng ông vẫn chủ trương tiếp tục đấu tranh ôn hòa và đòi trong 3 tháng phải có chính phủ dân cử và Quốc Hội. Ông sẵn sàng lãnh những viên đạn của những Phật tử quá khích. Một cuộc thương lượng giữa chính phủ và Viện Hóa Đạo được xúc tiến nhanh chóng và có kết quả. Ngày 7.4.1966, Thượng Tọa Thích Tâm Châu kêu gọi Phật tử ngưng các cuộc đấu tranh bằng võ lực ở miền Trung. Để đổi lại, chính phủ hứa sẽ không bắt bớ những người đã đấu tranh võ trang và rút quân ra khỏi Đà Nẵng. Đại Hội Phật Giáo Thế Giới đang họp tại Tích Lan đã lên tiếng ủng hộ lập trường của Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Ngày 9.5.1966, Hòa Thượng Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Tích Lan đã gởi cho Thượng Tọa Thích Tâm Châu một văn thư khen ngợi và tỏ ý hoan hỷ khi biết Thượng Tọa đã tránh được cho Phật Giáo một cuộc chiến tranh với chính phủ. Nhưng việc này đã làm cho Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường nổi giận. Thượng Tọa Thích Trí Quang công khai chỉ trích Viện Hóa Đạo và tuyên bố không chấp nhận kết quả do Viện Hóa Đạo công bố, đòi bộ ba Thiệu-Kỳ-Có phải ra đi.
Ngày 8.4.1966, Thượng Tọa Thích Thiện Minh tuyên bố lập "Ủy Ban Tranh Đấu chống Chính Phủ" vì các tướng lãnh, nhất là tướng Nguyễn Văn Thiệu, đã không giữ lời cam kết. Phật Giáo sẽ chống đến cùng, dù phải đổ máu. Khi Thích Thiện Minh công khai tuyên chiến với chính quyền thì Thượng Tọa Thích Trí Quang tuyên bố ngược lại. Ông kêu gọi Phật tử tạm ngưng các cuộc đấu tranh ở Huế và Đà Nẵng để đợi chính quyền giữ lời hứa. Lời kêu gọi này đã làm Thượng Tọa Thích Thiện Minh bực tức vô cùng.
Giữa Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh không bao giờ có sự đồng ý với nhau, khi trống đánh xuôi thì kèn thổi ngược. Thượng Tọa Thích Trí Quang lo sợ Thượng Tọa Thích Thiện Minh sẽ cướp công đầu sau khi cuộc tranh đấu đem lại thắng lợi nên tìm cách gạt tất cả các tổ chức của Thích Thiện Minh ra một bên. Mặc cho những chỉ thị ngược lại của Thượng Tọa Thích Trí Quang, ngày 19 và 20.4.1966, Thượng Tọa Thích Thiện Minh mở các cuộc thuyết pháp liên tục và tuyên bố Phật Giáo đang bị khiêu khích, có thể có đảo chánh trong tuần tới, trừ khi chính phủ chấm dứt mọi hành động chống đối Phật Giáo.
Ngày 9.4.1966, Tướng Tôn Thất Đính được cử làm Tư Lệnh Vùng I thay thế Tướng Nguyễn Văn Chuân. Hai tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã năn nỉ Tướng Tôn Thất Đính giải quyết giúp vụ miền Trung vì tin rằng Tôn Thất Đính cũng là một con gà của Phật Giáo, có thể làm công việc đó được Nhưng khi đến Huế, Tướng Đính lại theo phe Thích Trí Quang và chửi hai tướng Thiệu-Kỳ giữa ba quân.
Ngày 17.4.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chi, Tỉnh Trưởng Quảng Nam và ông Quận Trưởng Hòa Vang cùng một số người được coi là thân chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Tại Đà Lạt, Lực Lượng bắt giữ Đại úy Quân Vụ Thị Trấn, đốt quân xa và đuổi đánh quân cảnh. Quân đội phải nổ súng.
Khi thấy nhóm Phật Giáo cực đoan quá lộng hành, Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức đảng phái đã lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ. Thượng Tọa Thích Liễu Minh thuyết pháp tại Viện Hóa Đạo, khen ngợi thiện chí của chính quyền và yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc bạo động, ngưng đòi hòa bình vì chưa đúng lúc. Khối Công Dân Công Giáo biểu tình ở Đà Nẵng, Thủ Đức và Saigòn chống các cuộc bạo loạn ở miền Trung, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Đại Sứ Cabot Lodge. Tổng Hội Sinh Viên Saigòn lập Ủy Ban Bảo Vệ Tổ Quốc và Dân Quyền, chống lại các vụ lộng quyền tại các tỉnh miền Trung.
Ngày 21.5.1966, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho tung ra tại Huế, Đà Nẵng và Saigòn một loạt truyền đơn thăm dò. Truyền đơn kêu gọi đưa Thượng Tọa Thích Trí Quang ra làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng. Truyền đơn này cho thấy rõ mục tiêu và tham vọng của nhóm bạo động. Các cuộc náo loạn tại Huế, Đà Nẵng và Đà Lạt vẫn tiếp tục.
Báo chí Mỹ mở chiến dịch ca tụng Thượng Tọa Thích Trí Quang như là một lãnh tụ chính trị lỗi lạc của Việt Nam, có thể trở thành Quốc Trưởng. Mục tiêu của chiến dịch này nhằm thúc đẩy các lực lượng đấu tranh võ trang tiến xa hơn một chút nữa, gây náo loạn và bất mãn trong quần chúng để Tướng Kỳ có lý do xử dụng quân đội đánh dẹp. Cả Thượng Tọa Thích Trí Quang lẫn Võ Đình Cường đều không ý thức được chiến dịch thâm hiểm đó, đã thừa thắng xông lên. Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà, một đệ tử của Thượng Tọa Thích Trí Quang, đã phối hợp các lực lượng Phật tử do ông huấn luyện và các binh sĩ đào ngũ thành những đơn vị chiến đấu, chiếm thành phố Đà Nẵng, biến hai chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà thành hai căn cứ võ trang chống chính phủ. Ở Huế, lực lượng quân sự do Bửu Tôn thành lập đã thu nạp được một số binh sĩ và thanh niên Phật tử lên đến hai tiểu đoàn. Bửu Tôn là Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử ở Huế, không biết gì về quân sự nhưng được Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường tin cậy nên giao cho chỉ huy lực lượng võ trang. Lực lượng này làm chủ tình hình ở Huế, ban hành mọi mệnh lệnh và muốn bắt giam ai cũng được. Bửu Tôn đã nhiều lần đem quân tấn công các giáo xứ Công Giáo tại quận Phú Vang vì cho rằng các giáo xứ đó thân chính quyền. Các giáo xứ này phải tổ chức tự vệ vì Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn I và Trung tá Trần Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng Huế, không dám động đến lực lượng của Bửu Tôn. Tướng Nhuận chỉ cho một tiểu đoàn của Sư Đoàn I vào Huế để bảo vệ các cơ sở của Hoa Kỳ.
Cũng như ở Huế, các giáo xứ Công Giáo tại Đà Nẵng tự động võ trang để tự vệ vì chính quyền đã nằm trong tay Lượng Tranh Thủ Cách Mạng. Lực Lượng này đã nhiều mở cuộc tấn công giáo xứ Tam Tòa trong thành phố Đà Nẵng nhưng bị đẩy lui. Thỉnh thoảng lại xẩy ra các cuộc giao tranh trên đường phố giữa lực lượng của Thượng Tọa Thích Trí Quang và các toán tự vệ Công Giáo. Các toán tự vệ này mở rộng phòng tuyến ra các đường Thống Nhất, Quang Trung, Nguyễn Hoàng, Trần Cao Vân, Khải Định, Gia Long, Đống Đa.. để bảo vệ các giáo xứ Thạch Gián, Tam Toà, Thanh Bình, Thanh Bồ và Đức Lợi. Đường dọc theo biển đều do các tự vệ Công Giáo tuần tra nên rất an toàn. Thỉnh thoảng các toán tự vệ Công Giáo phải mở thế công để áp đảo tinh thần làm cho lực lượng của Thượng Tọa Thích Trí Quang không dám bung ra xa, nhờ vậy giáo dân sống an toàn. Kinh nghiệm cho thấy, để đối phó với các nhóm cực đoan này, chỉ có thế công mới ngăn chặn được. Phải làm cho họ thấy rằng đường phố không phải là của họ, muốn làm gì thì làm.
Ngày 30.4.1966, Đại Sứ Cabot Lodge tuyên bố trở về Mỹ thảo luận về tình hình Việt Nam. Các nhà bình luận tại Saigòn viết rằng khi một Đại Sứ Hoa Kỳ tuyên bố như vậy thì phải coi như số phận của phong trào Phật Giáo miền Trung đã được quyết định. Sau khi ra lệnh cho các tướng lãnh Việt Nam đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, Đại Sứ Cabot Lodge cũng tuyên bố giống hệt như vậy.
Ngày 15.5.1966, trong khi Cảnh Sát mở cuộc lục soát các trung tâm xuất phát những vụ náo loạn ở Saigòn như trụ sở Thanh Niên Phật Tử, Tổng Liên Đoàn Lao Động... Tổng Thống Thiệu thông báo các cuộc hành quân tái lập an ninh và trật tự ở Đà Nẵng đang được tiến hành. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay thế Thiếu Tướng Tôn Thất Đính làm Tư Lệnh Quân Đoàn I.
Nghe tin Tướng Huỳnh Văn Cao được cử làm Tư Lệnh Vùng I, phe Phật Giáo miền Trung phản ứng mạnh mẽ vì tướng Huỳnh Văn Cao vừa là người Công Giáo vừa là tay chân thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đây là một thành phần đang bị Thượng Tọa Thích Trí Quang tìm diệt. Vì thế, khi đến nhận chức tại Đà Nẵng, người ta thấy không có chỗ nào an toàn cho Tướng Huỳnh Văn Cao cư ngụ cả. Ngày 17.5.1966, khi Tướng Huỳnh Văn Cao lên máy bay Hoa Kỳ đi thị sát Quân Đoàn I thì Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức nằm trong lực lượng đấu tranh của Phật Giáo đã xả súng bắn nhưng không trúng. Xạ thủ trực thăng Hoa Kỳ đã dùng đại liên bắn lại khiến Nguyễn Trọng Thức chết tại chỗ và 6 binh sĩ khác trong lực lượng đấu tranh bị thương.
Khi Tướng Huỳnh Văn Cao trở lại Saigòn, tôi đến ngay để phỏng vấn ông về tình hình miền Trung. Ông cho biết nếu không có các Cố Vấn Mỹ trong Quân Đoàn đi sát hai bên ông, ông đã bị các binh sĩ thuộc phe tranh đấu ám sát Những ngày ở Đà Nẵng ông phải tá túc trong căn cứ của Hoa Kỳ và đi quan sát bằng trực thăng của Hoa Kỳ. Ông tiết lộ thêm rằng Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, đang chỉ huy các đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến đánh chiếm các vị trí trong thành phố Đà Nẵng, cũng có lần định ám sát ông. Sau một cuộc trao đổi, Tướng Loan đã chắp tay vái ông hai vái như một lời xin lỗi trước khi hành động nhưng nhờ các cố vấn Hoa Kỳ che chở nên sự việc đã không xẩy ra. Lúc đó Tướng Cao không cho chúng tôi biết lý tại sao có vụ mưu sát của Tướng Loan, nhưng sau này tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết rằng sở dĩ có vụ mưu sát này là Tướng Cao không chấp hành thượng lệnh. Hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đưa Tướng Cao ra Đà Nẵng là để chống lại lực lượng Phật Giáo chớ không phải thương lượng, trong khi đó Tướng Cao lại chủ trương thương lượng để ngưng chiến. Tướng Kỳ muốn chấm ngay vai trò của Tướng Cao để đưa một tướng khác đến.
Trong vụ này, chúng tôi thấy Tướng Huỳnh Văn Cao có hai lầm lẫn lớn khi nhận đi làm Tư Lệnh Vùng I. Lầm lẫn thứ nhất là không nhận ra dụng ý của hai tướng Thiệu-Kỳ. Hoa Kỳ đang cố tình gài cho phong trào Phật Giáo miền Trung đi quá trớn rồi diệt chứ không muốn thương lượng dây dưa. Thương lượng với nhóm này chỉ mang hậu họa, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể đưa ra mục tiêu mới để nói ngược và làm ngược lại một cách dễ dàng. Cách tốt nhất là thanh toán dứt điểm. Ông không muốn đánh mà chỉ muốn đàm, tức đã đi ngược lại chủ trương của cả hai tướng Thiệu-Kỳ và Hoa Kỳ. Lầm lẫn thứ hai là ông tin tưởng ông có thể thương lượng được với nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung. Ông không ý thức được rằng Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường đều là những thành phần Phật Giáo cực đoan, không bao giờ chấp nhận nói chuyện với ông vì ông vừa là người Công Giáo, vừa là tay chân thân tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông thuộc vào loại dư đảng Cần Lao gộc đang bị Thượng Tọa Thích Trí Quang tìm diệt, làm sao có thể nói chuyện với nhau được? Nếu cần một người đi thương lượng, chắc chắn hai tướng Thiệu và Kỳ đã không dùng ông. Ông được trở về Saigòn an toàn là cả một sự may mắn.
Xác chết của Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức đã được đưa về Huế và được rước đi trên đường phố để kích động Phật tử và binh sĩ chống chính phủ và nhất là chống Tướng Công Giáo Huỳnh Văn Cao.
Năm tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến được chở bằng phi cơ ra Đà Nẵng đã mở cuộc hành quân chớp nhoáng tái chiếm thành phố Đà Nẵng, đài phát thanh và làm chủ tình thế. Lực Lượng Phật Giáo rút về đóng trong hai chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà. Một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến kẻo tới vây Chùa Phổ Đà, đòi thả 17 binh sĩ bị bắt. 14 binh sĩ được trả về với đầy đủ võ khí.
Thích Trí Quang kêu cứu Hoa Kỳ!
Khi tình hình bắt đầu nguy ngập, ngày 15.5.1966, từ Huế, Thượng Tọa Thích Trí Quang đã gởi một điện văn nhờ Tổng Thống Johnson can thiệp. Ông vẫn tin rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Phật Giáo như đã ủng hộ trong thời kỳ chống chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong điện văn này ông kêu gọi "Chính phủ Hoa Kỳ cần tìm cách ngăn chặn cuộc đàn áp Phật Giáo Việt Nam". Ngày 17.5.1966, Tổng Thống Johnson đã tuyên bố với báo chí rằng ông và chính phủ Hoa Kỳ sẽ ủng hộ quân đội Việt Nam Cộng Hòa để quân đội này có vai trò trọng yếu trong chính phủ tương lai. Ông kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chấm dứt nhanh chóng các vụ các vụ xâu xé nội bộ để chống cộng và thực hiện dân chủ. Sau đó Ngoại Trưởng Dean Rush đã thông báo cho Thượng Tọa Thích Trí Quang biết Hoa Kỳ không thể can dự vào các vấn đề thuộc chủ quyền của Việt Nam và cũng không nhúng tay vào các vụ đàn áp đối lập của Tướng Kỳ. Ông khuyên nên tập trung mọi nỗ lực vào việc chống Cộng.
Ngày 20.5.1966 Thượng Tọa Thích Trí Quang lại lên tiếng kêu gọi Tổng Thống Johnson can thiệp gấp. Ông yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có hành động, nếu không sẽ cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng phá phi trường Đà Nẵng. Không nghe Hoa Kỳ trả lời gì, ngày 22.5.1966 ông ra lệnh cho Lực Lượng bắn phá phi trường Đà Nẵng. Một phi cơ Hoa Kỳ bị hư hại và một số binh sĩ Hoa Kỳ bị thương. Nhiều phi cơ Mỹ phải bay đến các căn cứ khác. Các căn cứ quân sự Mỹ được lệnh nổ súng nếu bị tấn công.
Dùng áp lực quân sự không có kết quả, ngày 25.5.1966, Thượng Tọa Thích Trí Quang lại lên tiếng yêu cầu Tổng Thống Johnson và Quốc Hội Hoa Kỳ ngưng yểm trợ cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ!
Đà Nẵng được giải thoát
Tướng Dư Quốc Đống đã được phái đến Đà Nẵng để chỉ huy chiếm lại thành phố. Ngày 18.5.1966, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã yêu cầu Viện Hóa Đạo kêu gọi các tăng sĩ ở Đà Nẵng đừng chứa chấp các lực lượng đấu tranh trong chùa hoặc rời khỏi hai chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà gấp.
Ngày 20.5.1966, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh cho các tướng Nguyễn Chánh Thi và Tôn Thất Đính phải ra trình diện đồng thời đòi hỏi Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh Sư Đoàn I, phải dứt khoát tư tưởng, không thể đứng giữa được.
Ngày 22.5.1966 cuộc tấn công vào hai chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà bắt đầu. Chỉ trong một thời gian ngắn, khoảng 600 binh sĩ và thanh niên Phật tử tử thủ ở chùa Phổ Đà và các vùng lân cận đã ra đầu hàng, 30 nhà báo bị bắt giữ làm con tin đã được giải phóng. Tại chùa Tỉnh Hội, các binh sĩ và thanh niên Phật tử cũng chịu buông súng, 4 phóng viên của hai hãng thông tấn UPI và AP đã được giải thoát. Hơn 1.000 khẩu súng các loại được tìm thấy trong chùa Tỉnh Hội và 30 xác chết đã sình thối. Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn bị bắt đưa vào Saigòn. Báo cáo sơ khởi cho biết đã có 76 người chết. Thiếu Tướng Tôn Thất Đính theo một số tàn quân chạy ra Huế.
Huế kháng cự vô vọng
Thanh toán xong Đà Nẵng, lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tiến ra Đà Nẵng bằng đường bộ qua đèo Hải Vân. Lực lượng của Bửu Tôn phục kích hai bên quốc lộ 1. Bửu Tôn cho thành lập một Tiểu Đoàn Quyết Tử lấy tên là Tiểu Đoàn Nguyễn Trọng Thức để cố thủ ở Huế. Trung Tá Trần Văn Khoa đem chừng 1.000 quân trung thành với chính phủ về đóng ở Quận Hương Thủy. Nhưng khi các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Huế thì Tiểu Đoàn Quyết Tử bỏ súng chạy. Quân Đội chiếm thành phố Huế một cách dễ dàng.
Ngày 31.5.1966, Tướng Hoàng Xuân Lãm được cử làm Tư Lệnh Vùng I thay thế Tướng Huỳnh Văn Cao. Trung tá Trần Văn Khoa đem quân về lại Huế, công bố lệnh giới nghiêm và yêu cầu Lực Lượng Tranh Thủ của Thượng Tọa Thích Trí Quang đem vũ khí đến nạp. Bửu Tôn đầu hàng và đem 520 võ khí các loại ra giao nạp. An ninh tại Huế đã được tái lập. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I rút khỏi Huế.

Lá bài chót : cho bàn thờ xuống đường
Khi mặt trận quân sự hoàn toàn thất bại, ngày 6.6.1966 Thượng Tọa Thích Trí Quang ra lệnh cho Phật tử đem bàn thờ xuống đường và phát động chiến dịch tự thiêu. Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu ở chùa Diệu Đế (Huế), cô Hồ Thị Châu tự thiêu ở Viện Hóa Đạo, nữ sinh Nguyễn Thị Vân tự thiêu ở chùa Thành Nội (Huế), Ni cô Thích Nữ Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hóa Đạo, một em học sinh 15 tuổi tự thiêu ở Qụảng Trị v.v. Thượng Tọa Thích Trí Quang tin rằng Quân Đội không dám đụng đến bàn thờ và chiến dịch tự thiêu sẽ làm thế giới rúng động như năm 1963, nhưng ông lầm. Tướng Kỳ đã ra lệnh cho Cảnh Sát Dã Chiến và Thuỷ Quân Lục Chiến xúc tất cả bàn thờ ở Huế cũng như Saigòn. Ngày 3.6.1966, phát ngôn viên của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Saigòn lên tiếng xác định : Đang có chiến dịch bạo động và tự thiêu nhằm áp lực chính phủ Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, nhưng chính phủ Hoa Kỳ vẫn tiếp tục giữ thái độ bất can thiệp như cũ.
Xử dụng tất cả mọi phương thức vẫn không đem lại kết quả, Thượng Tọa Thích Trí Quang đành ngồi tuyệt thực. Trong khi đó, Thượng Tọa Thích Tâm Châu dẫn một Ủy Ban Phật Giáo mới thành lập gồm 6 người đến Dinh Gia Long gặp Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia để thương thuyết. Ông yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc đấu tranh để cùng chính quyền tổ chức các cơ cấu dân chủ, nhưng hai Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Thích Trí Quang đều phản đối. Ngày 17.6.1966, An Ninh Quân Đội đã bắt vợ của Giáo Sư Lê Tuyên cùng một sinh viên tranh đấu ở Huế và đưa Thượng Tọa Thích Trí Quang lên máy bay về Saigòn cho ở Bệnh Viện Duy Tân của Bác Sĩ Nguyễn Duy Tài để chữa bệnh và bảo vệ. Ngày 22.6.1966, Giáo Sư Lê Tuyên ra trình diện và bị bắt đưa vào Saigòn.
Kết quả cuộc tái chiếm Huế : 7 binh sĩ bị thương, tạm giữ 190 quân nhân ly khai, 109 công chức và 35 cảnh sát tham gia Lượng Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.
Tướng Nguyễn Chánh Thi cho biết trong cuộc đánh chiếm Đà Nẵng và Huế nói trên đã có tất cả 242 người vừa chết bị thương.
Ngày 26.6.1966 Thượng Tọa Thích Trí Quang "tuân lệnh của Đức Tăng Thống" đã ngưng tuyệt thực.
Ngày 27.6.1966 Tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo tại Huế nói : "Công nhận được làm vua thua làm giặc nhưng không công nhận được làm vua, thua thì hòa".
Giáo sư Lê Tuyên bị bắt tại Huế ngày 21.6.1966, đã tuyên bố trong cuộc họp báo ngày 24.6.1966 tại Saigòn rằng Thượng Tọa Thích Trí Quang mới là người chủ động, ông chỉ là người thừa hành mà thôi.
Một vụ truy tố và xét xử kỳ lạ
Mãi đến 19.12.1967, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị bể ra làm hai, nội bộ tranh chấp nhau, không còn khả năng quấy phá nữa, vụ nổi loạn tại miền Trung mới được đưa ra xét xử trước Tòa án Quân Sự Mặt Trận Biệt Khu Thủ Đô và Vùng III Chiến Thuật. Có tất cả 26 bị cáo được đưa ra tòa, trong đó có Đại Tá Đàm Quang Yêu, Đại Tá Nguyễn Văn Mô và Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn và Giáo Sư Lê Tuyên. Các bị cáo bị truy tố về tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phản nghịch chiếu theo các điều luật sau đây :
- Điều 4 đoạn 1 Dụ số 47 ngày 21.8.1956.
- Điều 1 đoạn và điều 11 Luật số 10/59 ngày 6.5.1959.
- Điều 59-60 Bộ Hình Luật Canh Cải.
Hồ sơ nội vụ và bản cáo trạng cho thấy tội phạm của các bị cáo đã quá hiển nhiên, không có gì phải tranh luận. Các luật sư chỉ cãi chày cãi cối giúp vui cho phiên tòa mà thôi.
Chúng ta hãy nghe Luật Sư Võ Văn Quan kể lại chuyện ông biện hộ cho Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn:
"Tôi vô khám Chí Hòa tiếp xúc với bác sĩ Mẫn sau khi đã xem hồ sơ tại Phòng Lục Sự của Tòa Quân sự ở bến Bạch Đằng. Tôi không được quen với bác sĩ Mẫn và trong vụ này tôi liên lạc với Thượng Tọa Trí Quang nhiều hơn là với ông, nên tôi không còn nhớ hình dáng của bác sĩ Mẫn. Một chuyện đặc biệt này tôi còn nhớ rõ. Lần đó, bác sĩ Mẫn rất dè dặt trong khi bàn luận với tôi. Tôi nói với ông rằng phương pháp làm việc của tôi là nhờ thân chủ làm một tờ mémoire kể đầy đủ chi tiết về những sự kiện đã xảy ra và những lý lẽ mà thân chủ muốn tôi căn cứ vào để biện hộ. Như vậy tôi có tài liệu cần thiết để nghiên cứu và thảo luận với thân chủ về chiến thuật sẽ cùng nhau xử dụng trước Tòa. Bác sĩ Mẫn dè dặt bảo tôi ông cần suy nghĩ có nên làm một tờ trình bày trường hợp của ông để giao cho tôi hay không. Tôi thông cảm rằng đối với ông dầu sao tôi cũng chỉ là một người lạ, một luật sư không phải do ông hay người nhà của ông chọn, tức nhiên ông ngần ngại không dám tiết lộ những bí mật của ông. Ông đồng ý để rồi bàn việc này lại với "Thầy".
Tôi điện thoại đến nhà Giao (tôi không biết số điện thoại của Thượng Tọa, dầu biết, tôi cũng không gọi tới vì chắc chắn điện thoại bị công an nghe lén). Tôi nhờ Giao thuật chuyện này lại với Thượng Tọa. Mấy hôm sau, Giao đem đưa cho tôi lá thư gởi cho bác sĩ Mẫn, vắn tắt có mấy chữ:
"Anh Mẫn,
Làm mémoire đi.
Ông già."
Nét chữ cũng rắn rỏi như cái mệnh lệnh. Chừng đó tôi mới biết rằng trong giới thuộc hạ của ông tiếng lóng để ám chỉ ông là "Ông Già".
Tôi trở vô khám Chí Hòa đưa lá thư-cái mệnh lệnh- đó là (cho?) bác sĩ Mẫn. Ông liền hẹn tôi hôm sau sẽ có tờ mémoire ngay. Ông già oai thật!
"Phiên Tòa xử các bị can trong vụ gọi là biến động miền Trung này cũng rất náo nhiệt, phóng viên quốc nội và quốc tế đều theo dõi khá đông. Một diễn tiến tôi còn nhớ là Thượng Tọa Trí Quang nhờ tôi đưa một văn thơ của ông cho ông Chánh Thẩm. Để chắc chắn rằng nội dung văn thơ ấy được phổ biến, nên trước khi trao, tôi lớn tiếng đọc trước Tòa. Trong thơ, Thượng Tọa tuyên bố sẵn sàng ra Tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung và đảm nhận tất cả trách nhiệm vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy.
Dĩ nhiên Tòa không mời Thượng Tọa Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên Tòa làm diễn đàn chánh trị. Còn truy tố ông, nếu "họ" dám thì đã làm từ lâu.
Dầu sao, tôi cũng xử dụng lời lẽ trong văn thơ đó trong sự biện hộ của tôi.
Được Tòa trao lời, tôi trình bày đại khái như sau.
Điều hiển nhiên là các bị can tranh đấu đòi phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội này thảo Hiến Pháp làm nền tảng pháp lý cho các cơ quan lãnh đạo quốc gia thành hình sau một cuộc bầu cử. Không ai có thể bảo rằng đòi hỏi ấy là yêu sách không chánh đáng, bất hợp pháp. Chính những người tìm cách lẩn tránh, không chịu đáp ứng sự đòi hỏi ấy, mới là người hành động bất chánh...
Nếu đó là một cái tội thì tại sao Thượng Tọa Thích Trí Quang, người lãnh đạo sự tranh đấu ấy, người đã gởi văn thư xác nhận phân minh trước Quí Tòa rằng ông lãnh đạo sự tranh đấu, lại không bị truy tố?
Người lãnh đạo, kẻ chủ mưu không bị truy tố thì tại sao những người chỉ có đi theo sự lãnh đạo ấy lại bị truy tố?
Tôi xin Quí Tòa tha bổng các bị can."(17)
Những điều Luật Sư Võ Văn Quan nêu ra để biện hộ như mục tiêu tranh đấu là chánh đáng hay tại sao không truy tố người chủ mưu... đều không phải là những yếu tố luật định có thể gỡ tội hay giảm khinh cho các bị cáo. Tướng Lê Quang Vinh bị Tòa án Quân Sự tuyên phạt tử hình ngày 4.7.1956 cũng đã bị truy tố và xét xử về các tội tương tự. Nhưng ai cũng biết rằng Tòa án Quân Sự Mặt Trận là một toà án chính trị, không xử theo luật mà xử theo lệnh nên Luật sư Võ Quan mới đưa chính trị vào pháp đình để giỡn chơi với toà. Kết quả, ngày 22.12.1967, sau khi nghị án, Tòa tuyên phạt hai Đại Tá 10 năm khổ sai, một sĩ quan và Bác Sĩ Mẫn 10 năm tù ở, 21 bị cáo được tha bổng. Chỉ ít lâu sau Bác Sĩ Mẫn và sĩ quan nói trên được ân xá, nhưng không thể trở lại binh nghiệp nữa.

VIỆT CỘNG KIỂM ĐIỂM THÀNH QUẢ

Khi cuộc nổi loạn của Phật Giáo miền Trung do Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường trực tiếp lãnh đạo từ 1964-1966 đã bị đánh bại, Khu ủy và Quân Khu Trị-Thiên-Huế đã làm một bản kiểm điểm về những thành quả thu được và những khuyết điểm đưa đến thất bại. Tài liệu này được in trong cuốn "Chiến trường Trị-Thiên-Huế Trong Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước Toàn Thắng" do Ban Tổng Kết Chiến Tranh Chiến Trường Trị-Thiên-Huế biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản năm 1985.
Những thắng lợi thu được
Bản kiểm điểm đã mở đầu bằng phần nhận định tổng quát như sau:
"Thắng lợi của cuộc đồng khởi cuối năm 1964 và đầu năm 1965 đã giáng một đòn nặng nề vào quốc sách "ấp chiến lược" của địch đánh dấu một sự thất bại trong chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở Trị-Thiên-Huế".
Về phần thắng lợi trong chiến dịch chống Mỹ, Thiệu-Kỳ và đòi hòa bình của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Võ Đình Cường, bản tường thuật viết như sau:
"Ở thành phố Huế, dấy lên một phong trào đấu tranh chống Mỹ của quần chúng khá sôi nổi và quyết liệt, cùng với phong trào ly khai của Sư Đoàn 1 ngụy. Phong trào đã kéo dài trong 3 tháng 4, 5, 6-1966. Quần chúng xuống đường đòi hòa bình, chống chiến tranh với khẩu hiệu đòi lật đổ Thiệu Kỳ. Cả Huế vùng lên, học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi chợ, công chức bãi việc, quần chúng tổ chức tuần lễ tẩy chay quân Mỹ. Cuộc đấu tranh đã hình thành một mặt trận rộng rãi, thành phong trào liên minh hành động có tính chất bạo lực chống Mỹ và tay sai giữa nhân dân lao động và Sư Đoàn 1 ngụy, đòi ly khai khỏi ngụy quyền Saigòn. Sinh viên Huế lập đội sinh viên quyết tử, học sinh lập đội xung kích, giáo chức tổ chức lực lượng chống đàn áp. Hàng trăm sinh viên được điều động đi học quân sự, các chị tiểu thương chợ Đông Ba, nữ sinh Đồng Khánh đi làm cứu thương tiếp tế cho quyết tử quân v. v...
Nguyên nhân thất bại
Sau khi nêu lên những thắng lợi thu được, bản kiểm điểm nói về nguyên nhân cuộc đấu tranh của Phật Giáo miền Trung đi đến thất bại như sau :
"Trong tháng 5-1966 cả thành phố Huế hầu như hỗn loạn, ngụy quân ngụy quyền bị tê liệt. Nhưng do tương quan lực lượng không cân xứng và sự lãnh đạo trực tiếp của ta chưa đủ mạnh, địch đưa quân đến đàn áp khốc liệt và dìm phong trào vào bể máu. Các đơn vị ly khai đầu hàng, lực lượng Phật Giáo tan rã, cơ sở của ta trong phong trào một số bị bắt, một số rút vào bí mật Phong trào kéo dài được 96 ngày".
"Trong cán bộ lãnh đạo một thời gian dài có tư tưởng hữu khuynh rất nặng. Do tư tưởng hữu khuynh nên trong lãnh đạo thiếu tinh thần tấn công mạnh mẽ và liên tục, chưa mạnh dạn phát động chiến tranh nhân dân, giành thắng lợi từng bước, và một khi đã dành được thắng lợi thì lập tức củng cố thắng lợi và tiếp tục tiến công địch, đập tan mọi phương sách đối phó của chúng, kiên quyết đưa phong trào tiến lên".(18)
Xét về nguyên nhân thất bại, phần thứ nhất bản kiểm điểm nói đúng, nhưng phần thứ hai có tính cách cường điệu. Với lực lượng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó, không một tổ chức chiến tranh nhân dân nào do các Khu ủy phát động có thể tồn tại được, nhất là khi cuộc chiến tranh đó bị đa số lên án. Lúc đầu Võ Đình Cường và Thích Trí Quang lấy "dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo" làm chiêu bài kích động Phật tử, nhưng về sau chính chiêu bài đó lại trở thành một đối lực không vượt qua được. Chiến tranh nhân dân bao giờ cũng chỉ là phương tiện phá rối hay tạo điều kiện cho một biến cố xẩy ra. Coi chiến tranh đó như một yếu tố quyết định thắng lợi là sai lầm.
Đến đây, nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung không chối cãi được rằng phong trào tranh đấu của Phật Giáo từ 1963 đến 1966 không phải do Cộng Sản chỉ đạo. Chính Khu ủy Trị-Thiên-Huế của Việt Cộng đã công khai xác nhận điều đó. Mục tiêu tranh đấu là mục tiêu của Việt Cộng. Phương thức tranh đấu là phương thức của Việt Cộng. Một số đông đảo các cán bộ Việt Cộng đã nằm trong phong trào để chỉ huy. Như vậy không có chuyện chụp mũ nhóm Phật Giáo miền Trung cực đoan là tay sai của cộng sản.
"Moi tuổi con mèo, sinh đêm 29 tết, số sung sướng nhàn hạ, thường được người khác làm sẵn cỗ cho mình hưởng!"

Tướng Dương Văn Minh thường nói với bạn bè như vậy. Nhưng cái cỗ sau cùng thiên hạ mới soạn xong, ông chưa kịp ngồi vào bàn thì đã bị đá hất tung lên.
Cuốn "30 tháng 4" của Việt Cộng xuất bản năm 1985 cho biết toàn bộ tham mưu của Dương Văn Minh do khối Phật Giáo Ấn Quang đưa vào đều là cán bộ Cộng sản nằm vùng gồm Trương Lộc, Hoàng Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc Thạch, Hoàng Phương Minh, Kỳ Nhân, Cung Văn... Tất cả nhóm này họp thành "Bộ biên tập bí mật" của tờ Điện Tín, do Hà Bá Cang, tức Đinh Bá Thi (Đại sứ Hà Nội tại LHQ sau này) chỉ huy, đặt trực thuộc Ban An Ninh T4. Nhóm này đã liên lạc với phái đoàn Việt Cộng trong trại Davit và thúc Dương Văn Minh đầu hàng.

No comments:

Post a Comment