Sunday, July 26, 2009

Những bí ẩn sau những cuộc thánh chiến tại VN 4

- Cuộc thánh chiến thứ tư được phát động từ tháng 6 năm 1992, khi Hòa Thượng Thích Huyền Quang công bố "Đơn xin cứu xét nhiều việc" đề ngày 25.6.1992 gởi nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội. Cuộc thánh chiến này bên ngoài nhắm hai mục tiêu cùng một lúc : vừa chống lại việc nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội đã "quốc doanh hóa" Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (tức Giáo Hội Ấn Quang) và bắt bớ các tăng ni, vừa công khai tấn công Thiên Chúa Giáo. Thực chất của cuộc thánh chiến cũng như chiến lược và các chiến thuật xử dụng có nhiều nghi vấn và tranh luận.

Quan sát các cuộc thánh chiến nói trên, người ta thấy các cuộc thánh chiến này đều do một số chính khách hoạt đầu và và một số thành phần Phật Giáo cực đoan người miền Trung gốc Bình-trị-thiên hay Nam-ngãi phát động dưới sự chỉ đạo của các cán bộ cộng sản nằm vùng

Đại lược, lập luận của các nhóm Phật Giáo cực đoan này được đúc kết trong hai tờ Bông Sen số 17 và 18, gồm những điểm chính sau đây:

1.- Thiên Chúa Giáo là một thứ đạo có bản chất độc đoán, bất khoan dung, vong bản và ngoại lai.
2.- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là công cụ của thực dân.
3.- Giáo Hội Thiên Chúa Giáo được hai chế độ Cộng Hòa độc tài và thối nát của miền Nam Việt Nam yểm trợ nên có ưu thế tuyệt đối về chính trị, kinh tế và văn hóa để truyền đạo và lũng đoạn quốc gia.
4.- Vì các chế độ Cộng Hòa trước đã cấu kết với Thiên Chúa Giáo làm tay sai trung thành cho thực dân và ngoại bang nên đã thất bại, còn Việt Cộng nhân danh dân tộc và truyền thống Việt Nam nên đã đối đầu và đánh thắng cả ba cường quốc lớn : Pháp, Mỹ và Tàu.
5.- Đã có sự cấu kết giữa Công Giáo và Cộng Sản. Bằng chứng được đưa ra là Việt Cộng đã không giải tán Giáo Hội Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam mà chỉ giải tán các Giáo Hội Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo và Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang). Rõ ràng đây là một sự thỏa hiệp giữa Tòa Thánh Vatican và nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam trên căn bản "hai bên cùng có lợi".
6.- Chính trị Việt Nam suốt 100 năm này, đã dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con Việt Nam ưu tú, gương mẫu nhất (tức Phật Giáo) và dành một chỗ ngồi ưu đãi nhất cho những đứa con phản bội xấu xa (tức Thiên Chúa Giáo) (nguyên văn)
7.- Trong 5, 7 năm nữa, chính quyền hiện tại (Việt Cộng) vẫn nắm ưu thế về chính trị do những thành công lạ lùng, không ai ngờ trong lãnh vực kinh tế những năm qua (nguyên văn).
8.- Do Thái với Do Thái Giáo và Palestin theo Hồi Giáo mà còn có thể đối thoại, hòa giải và sống chung với nhau thì không lý do gì trong lòng dân tộc và đất nước VN vẫn tiếp tục một cuộc nội chiến, nồi da xáo thịt? (nguyên văn).
9.- Phật Giáo mới là đạo dân tộc. Dân tộc là Phật Giáo. Dưới các thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần vì Phật Giáo là quốc giáo nên Phật Giáo đã giúp chính quyền tạo nên một thời đại vinh quang, huy hoàng nhất cho Việt Nam. Do đó cần phải quay trờ lại thời đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, đưa Phật Giáo lên quốc giáo và dẹp bỏ Thiên Chúa Giáo mới xây dựng lại được văn hóa dân tộc.
10.- Việt Nam hiện nay mà phục hưng được chánh pháp, chính quyền biết lãnh đạo quốc gia trong tinh thần từ bi, bao dung, khai phóng của đạo Phật thì chắc chắn Việt Nam sẽ phát triển thần kỳ như những con rồng khác tại Á Châu ... (nguyên văn)
11.- Đến một mức tiến hóa nào đó thì những chủ nghĩa như Phát-xít, Cộng Sản phải bị đào thải, cũng vậy, đến một mức tiến hóa nào đó, các tôn giáo cực đoan như Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo cũng sẽ bị đào thải (nguyên văn). Chỉ có Phật Giáo là bất diệt và Phật Giáo là đạo dân tộc.

Đọc các bài "hịch" trên tờ Bông Sen số 17, chúng ta có cảm tưởng như đang nghe lại các bài "hịch" của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ở miền Trung từ 1964 đến 1966.

Cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 là một đề tài còn gây nhiều xúc động và tranh cãi. Tuy nhiên, cho tới hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu sử đích thực nào về đề tài này. Một trong những lý do quan trọng là thiếu sử liệu. Tài liệu văn khố chưa được hoàn toàn giải mật. Đa số các tác giả đều đứng về phe này hay phe kia, xếp đặt và diễn giải các dữ kiện vốn bị giới hạn và thiếu sót theo sự yêu ghét hay khuynh hướng chính trị, tôn giáo của họ. Tác nhân lịch sử bị đặt lên những chiếc giường của tên tướng cướp, thừa chặt bớt, ngắn kéo dài ra cho vừa khuôn thước thành kiến tiên thiên của mình. Không ít người còn bịa đặt ra những chi tiết không thực để bẻ cong lịch sử.

Trong cuốn Tôn Giáo & Chính Trị: Phật giáo, 1963 -1967, do nhà Văn Hóa xuất bản năm 1994, tôi đã dành một chương khá dài cho cuộc tranh đấu năm 1963 của Phật giáo miền Nam. Gần 10 năm qua, nhiều tài liệu văn khố Mỹ, Pháp và Liên Hiệp Quốc đã được giải mật thêm, nên tác giả đã hiệu đính chương này sau mỗi lần nghiên cứu ở các văn khố. Tuy nhiên, trên đại thể, những nét chính vẫn không thay đổi bao lăm.

Xin đọc thêm “Cái chết của một hàng tướng: DƯƠNG VĂN MINH, 1916-2001” trong Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston: Văn Hóa, 2002).

I. TỪ CỜ ĐẾN MÁU LỬA:

Ngày 6/5, Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng Thống, Quách Tòng Đức, gửi đi khắp nơi lệnh cấm treo cờ tôn giáo, theo "khẩu lệnh" của Tổng thống NGÔ ĐÌNH DIỆM (1955-1963). (1)

Lệnh này được ban hành không đầy 48 tiếng đồng hồ trước Lễ Phật Đản 2507 (15/4 Quí Mão, tức 8/5/1963), và tới các địa phương ngày hôm sau, 7/5, khi các tư gia, chùa chiền đã treo cờ ngũ sắc Phật giáo, cùng biểu ngữ và cổng chào. Theo lời khai của các viên chức chính phủ với phái đoàn Liên Hiệp Quốc [LHQ] vào tháng 10/1963, Diệm biết rõ rằng lệnh cấm treo cờ trên sẽ ảnh hưởng đến ngày Phật Đản sắp tới—ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo—nhưng bất chấp hậu quả. (2)

Lập luận của chính phủ để biện minh cho lệnh cấm treo cờ ngày Phật Đản là Diệm thấy rằng quốc kỳ (cờ vàng ba sọc đỏ) phải được tôn trọng hơn cờ tôn giáo. Hàm ý là dân chúng chỉ được phép treo quốc kỳ, còn cờ tôn giáo chỉ được phép treo trong các ngày lễ, tại các nơi thờ tự hay tư gia, với sự chấp thuận của chính quyền địa phương. Đó là tinh thần Nghị định 189/BNV/NA/P5, hiệu lực từ ngày 12/5/1958 của Bộ Ngội Vụ. (3)

Cờ Phật giáo ngũ sắc được chính thức công nhận tại Đại Hội Phật giáo Thế Giới [World Fellowship of Buddhists, hay Hội Bằng Hữu Phật giáo Thế Giới] tại Colombo (Sri Lanka, hay Tích Lan), từ ngày 26/5 tới 7/6/1950. Thượng tọa Tố Liên đại diện cho Việt Nam tại Đại Hội này. Chùa Quán Sứ Hà Nội là nơi lá cờ ngũ sắc của Phật giáo được trương lên trước tiên trên toàn thể đất nước Việt Nam. Trong thập niên 1950, lá cờ Phật giáo ngày càng trở thành quen thuộc vì sự phát triển khá mạnh của các hệ phái Phật giáo tại phía Nam vĩ tuyến 17.

Sự phát triển đặc biệt này, tưởng cần nhấn mạnh, không do sự khuyến khích của tam đầu chế Ngô Đình Thục - Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu. Sự giúp đỡ bất cứ tôn giáo không Ki-tô nào chỉ có tính cách tượng trưng, do các cấp viên chức địa phương (như không khắt khe áp dụng luật số 10 về các hiệp hội, hay cho mở sổ số để gây quĩ, v.v...). Nhận hiểu rõ ràng rằng Phật tử chiếm đa số dân chúng trong nước, trong những năm đầu chế độ Thục-Diệm-Nhu quay mặt làm ngơ trước sự phát triển mạnh mẽ của các khuôn hội, đoàn Phật tử, v.v... Những người góp công lớn trong việc phát triển này của Phật giáo là số tăng ni di cư miền Bắc và một số khá đông Phật tử chống Cộng. Xây dựng chùa chiền, tổ chức các ban đại diện, phát động phong trào Phật tử, phát huy và hoằng dương đạo pháp là một phương thức chống Cộng hòa bình và hữu hiệu nhất: Lấy tôn giáo chống lại Cộng Sản vô thần (những người từng ví von tôn giáo như thuốc phiện).

Ngoài ra, việc phát triển các chùa chiền, khuôn hội còn phản ảnh một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh lạnh giữa Phật giáo và Ki-tô giáo, đã kéo dài hơn bốn thế kỷ, và lên cao độ dưới thời Pháp thuộc (1858-1945, 1945-1955). Trong giai đoạn Pháp xâm chiếm Việt Nam, Ki-tô giáo ngày một vượt thắng vì là tôn giáo của giai tầng chiếm đóng (Bảo hộ Pháp) và đa số giai tầng trung gian bản xứ trung kiên. Rất nhiều danh tự của Đại Nam đã biến thành nhà thờ ở Hà Nội, Sài Gòn, Nam Định hay Quảng Trị. Mặc dù từ thập niên 1910 các viên chức Pháp quyết định đoạn tuyệt với chính sách đồng hóa và Ki-tô hóa của Hội truyền giáo, chuyển sang chính sách hợp tác hay Pháp-Việt đề huề, mãi tới thập niên 1920 Phật giáo và các tổ chức tôn giáo bản xứ khác mới bắt đầu được "duy tân" và khuyến khích đoàn ngũ hóa. Nhưng thời gian này, các cộng đồng Ki-tô bản xứ đã trở thành những quốc gia trong một quốc gia, và cung cấp cho giai tầng trung gian bản xứ cũng như thị dân một nhân số quan trọng. Chính vì thế Ngô Đình Diệm (1897-1963)—với thành tích hết hợp tác với Pháp tới Nhật, và bị đánh giá là "a Catholic mystic"—vẫn được chọn làm lãnh tụ miền Nam chống Cộng. Ngắn và gọn, số chùa chiền, tu viện, hay khuôn hội Phật giáo gia tăng từ 1954 tới 1963 không chỉ do ảnh hưởng của quốc sách chống Cộng, mà còn bộc lộ sự chống đối vừa tiêu cực vừa tích cực của các lãnh tụ Phật giáo với chế độ giáo phiệt Ki-tô Diệm-Thục-Nhu. (4)

Tổng Giám Mục Thục (1897-1984), người cai quản địa phận Huế từ năm 1961, dĩ nhiên chẳng muốn thấy sự hiện hữu của bất cứ lá cờ Phật giáo nào tại Huế hay miền Trung, nói chi sự phát triển vững mạnh của Tổng Giáo Hội Phật giáo. Thục, theo Tướng Lê Văn Nghiêm, từng tuyên bố với những người tín cẩn rằng "cần phải hạ Phật giáo bằng mọi phương tiện, nếu không Phật giáo sẽ mạnh hơn Ki-tô," và "ngay cả đời sống giáo dân sẽ bị đe dọa." (5)

Mùa Xuân 1963 Thục còn có thêm lý do khác để "ra tay" với Phật giáo. Ngày lễ kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục sắp đến. Thục—theo lời một nhân chứng ngoại quốc, viết bằng Mỹ ngữ ngày 12/6/1963, và Linh mục Cao Văn Luận, Viện truởng Đại học Huế - đã xin với Vatican lên chức Hồng Y vì "80% dân chúng trong giáo phận Huế là giáo dân Ki-tô." (6)

Vatican bèn gửi một phái đoàn điều tra tới miền Trung vào đầu tháng 5/1963. Mặc dù cờ Ki-tô giáo giăng mắc khắp nơi trong thời gian phái đoàn ở Việt Nam, đại biểu Vatican cũng ghi nhận là Phật tử đang chuẩn bị cờ ngũ sắc Phật giáo, biểu ngữ và cổng chào mừng đón Phật đản 2507. Bởi thế phái đoàn Vatican kết luận sơ khởi rằng chỉ có 20% dân miền Trung theo đạo Ki-tô mà không phải 80% như Thục báo cáo. Để che dấu sự thực, Thục ngầm cho lệnh các viên chức địa phương cấm treo cờ hay tuần hành rước lễ Phật Đản. Dù Thục có áp lực Diệm ban hành lệnh cầm treo cờ Phật giáo trong ngày Phật Đản 2507 hay chăng, văn thư nhắc nhở lệnh cấm ngày 6/5/1963 là một sỉ nhục lớn lao với Phật tử. Vì, cho tới ngày 5/5, cờ Ki-tô giáo nửa vàng, nửa trắng còn phất phới khắp miền Nam, trong khi tổng số giáo dân Ki-tô không quá 10% dân số.

Sáng ngày 7/5 (tức 14 tháng 4 Quí Mão), Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế là Nguyễn Văn Đẳng báo cáo với Cố vấn chỉ đạo miền Trung Ngô Đình Cẩn (1911-1964) về lệnh cấm treo cờ. Theo một nguồn tin, Cẩn bảo Đẳng đừng can thiệp vì có giao tình với Tổng Hội Phật giáo Việt Nam và bài vị cha mẹ Ngô Đình Khả còn đặt tại chùa Diệu Đế. (7)

Cẩn cũng sai Hồ Đắc Khương, Đại biểu Chính phủ tại Trung Phần, đánh điện tín xin Sài Gòn hoãn thi hành lệnh trên. Tuy nhiên, một số nhân viên Cảnh Sát, Công An đã sốt sắng tháo gỡ cờ Phật giáo bất kể sự phản đối của dân chúng. Mật Vụ của Hồ Đắc Vang cũng đến các tư gia yêu cầu họ hạ cờ Phật giáo. (8)

Cẩn còn mời Thượng tọa Trí Quang tới tư dinh, dự một cuộc họp với Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lượng và Thị trưởng Đẳng. Theo lời khai của Lượng với Phái đoàn Liên Hiệp Quốc ngày 30/10/1963, đích thân Lượng cho lệnh tạm hoãn thi hành lệnh cấm treo cờ, và các lãnh đạo Phật giáo rất mãn nguyện. (9)

Tại Đà Nẵng, cách Huế khoảng 100 cây số về phía Đông Nam, Cảnh sát cũng tới các cơ sở thương mại, ra lệnh cấm treo cờ mừng Phật đản; bằng không sẽ bị rút giấy phép. Chẳng hiểu việc làm này liên hệ gì đến Thị trưởng Hà Thúc Luyện hay chăng.

Cách nào đi nữa, ngày 8/5, Tư lệnh Quân Đoàn I là Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm vẫn cho phép quân nhân Phật tử tổ chức lễ Phật Đản. (10)

Tại Đà Nẵng, quân nhân Phật tử dựng một khán đài tại góc đuờng Thống Nhất và bờ sông Bạch Đằng (sông Hàn), và tổ chức diễn hành xe hoa.

Tại Huế, Phật tử cũng dựng khán đài và kết cờ Phật giáo. Nhưng không khí tranh đấu đã được hâm nóng bằng bài diễn văn nẩy lửa của Thượng tọa Trí Quang trong buổi lễ sáng 8/5 tại chùa Từ Đàm, với sự tham dự của nhiều viên chức cao cấp địa phương.

Tối đó, một biến cố đẫm máu đột ngột xảy ra. Giữa lúc hàng ngàn Phật tử tụ họp trước Đài phát thanh Huế vào khoảng 8 giờ tối để nghe chương trình phát thanh đặc biệt Phật Đản, một nhóm thanh niên Ki-tô giật cờ Phật giáo tại một cổng chào, rồi xông tới đập phá lễ đài. Bạo động bùng nổ. Giám đốc đài phát thanh Huế cũng từ chối phát lại cuốn băng buổi lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm, khóa trái cửa "để bảo vệ máy móc" trước sự đe dọa của một số Phật tử hung hãn. Thiếu tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh trưởng Nội An, dẫn Cảnh Sát, và lực lượng an ninh (Biệt đội Ngô Đình Khôi) gồm 8 tuần thám xa [blinder] của Địa Phương Quân, 1 đại đội ĐPQ, 1 đại đội trừ Bộ Binh, đến tái lập trật tự. Sau khi đám đông không chịu giải tán, Sỹ cho lệnh dùng vòi rồng phun nước, và rồi nổ súng. Đa số binh sĩ không tuân lệnh, chỉ có đơn vị riêng của Sỹ thẳng tay đàn áp.

Dân chúng hoảng hốt tranh nhau bỏ chạy tứ phía. 9 người chết, 14 bị thương. (11)

Trong số người chết, có 2 trẻ em bị tuần thám xa cán chết. (12)

Đây là một tội ác chiến tranh [war crime] và tội ác chống lại nhân quyền [crime against Human rights] của Đặng Sỹ; và các cấp chỉ huy, kể cả Diệm, phải liên đới trách nhiệm. Để che đậy sự thực, thoạt tiên chính phủ loan tin một quả lựu đạn của quân khủng bố nổ, vì lực lượng chính phủ đã được lệnh chỉ bắn chỉ thiên hoặc đạn mã tử. Sau khi đám đông đã bị giải tán, viên chức chính phủ mang 9 xác chết tới bệnh viện thị xã Huế. Y sĩ Lê Khắc Quyến, Giám đốc Y tế miền Trung, được lệnh phải ghi vào giấy chứng tử là các nạn nhân "chết vì lựu đạn do khủng bố Việt Cộng ném." Quyến không chịu ký. (13)

Diệm bèn cách chức Quyến, gọi vào Sài Gòn đợi lệnh. Thị trưởng Đẳng cũng cách chức Sỹ, và viết thư phản đối lên chính phủ. Những ngày kế tiếp, tình hình Huế cực kỳ sôi động. Suốt đêm mồng 8 rạng 9/5, thanh thiếu niên kéo nhau đi quanh các đường phố, hô to khẩu hiệu đả đảo Diệm. Khoảng 11G00 sáng, chừng 800 Phật tử tụ họp biểu tình. Tỉnh trưởng Đẳng yêu cầu họ giải tán để tránh bị "phản loạn" lợi dụng. Ngày 9/5, Diệm sai Bộ trưởng Nội vụ trở lại Huế giải quyết. Lượng tiếp xúc giới lãnh đạo Phật giáo, kể cả Thượng tọa Trí Quang. Lượng áp lực Trí Quang phải đi theo xe phóng thanh kêu gọi mọi người ra về. Trí Quang chỉ hòa thuận bề ngoài, chưa chịu lùi bước. (14)

Thị trưởng Đẳng cũng ban hành lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối. Chiều 9/5, Phong trào Cách Mạng Quốc Gia tổ chức mít-tinh, lên án Cộng Sản phá hoại, khủng bố trong đêm 8/5. Rất ít người tham dự, và không ai lên diễn đàn. Một số tiểu đoàn Dù gốc Nùng được điều tới Huế để "bảo vệ trật tự." Mật vụ của Cẩn cũng bắt đầu lùng bắt các lãnh tụ Phật tử, và lực lượng an ninh cô lập hàng ngàn người biểu tình trong vòng rào kẽm gai. (15)

Ngày 10/5, trong cuộc biểu tình qui tụ khoảng 5,000-6,000 Phật tử, tăng ni tại chùa Từ Đàm, Trí Quang đọc diễn văn, kêu gọi bất bạo động và Phật tử tiếp tục treo cờ. Sau đó, đại diện Ủy ban tranh đấu trao cho Thị trưởng Đẳng một Thông Bạch [Manifesto], đòi hỏi 5 điều tương đối ôn hoà:

? tự do treo cờ;

? Phật giáo được hưởng quyền dành cho Ki-tô giáo như qui định trong Dụ số 10 [ngày 6/8/1950];

? ngưng bắt giữ và khủng bố Phật tử;

? tự do tín ngưỡng;

? bồi thường cho nạn nhân ngày 8/5 và trừng trị những người có trách nhiệm.

Năm người đứng ký tên là Thượng tọa Tường Vân, Mật Nguyện, Mật Hiền, Trí Quang, và Thiện Siêu (16)

Với đại đa số Phật tử, "Dụ số 10" nêu trong Thông Bạch ngày 10/5/1963 có vẻ xa lạ. Dụ này do Bảo Đại ban hành ngày 6/8/1950 liên quan đến qui chế các hiệp hội, đảng phái. Gồm 5 chương, 45 điều. Điều thứ 44 ghi nhận:

"Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô, và các Hoa kiều lý sự hội sẽ ấn định sau." (17)

Điều này có nghĩa các tổ chức tôn giáo như Phật giáo, Hoà Hảo, Cao Đài, Islam v.v... đều chỉ được phép hoạt động nếu có sự đồng ý của chính phủ.

Thị trưởng Đẳng, con nuôi tinh thần của Hòa thượng Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo, lên diễn đàn xin lỗi về tai nạn đã xảy ra, và hứa sẽ bồi thường cho các nạn nhân và gia đình. Trong khi đó Cẩn áp lực Trí Quang và các lãnh đạo Phật giáo phải ngưng tranh đấu, tìm cách giải quyết. Hôm sau, 11/5, Trí Quang triệu tập một buổi họp với các Giáo sư và sinh viên, học sinh để giải thích 5 nguyện vọng của Phật giáo. (18)

Từ ngày 13/5, Trí Quang cũng gặp Đại biểu chính phủ để thảo luận về 5 đòi hỏi của Phật giáo. Mặc dù cho rằng những yêu sách của Phật giáo là "vô căn" [groundless], viên chức này tuyên bố chính phủ sẽ cứu xét.

Đại biểu của chính phủ thêm rằng đòi hỏi của Phật giáo mang tích cách một "tối hậu thư," và đây là một sai lầm. (19)

Có lẽ thỏa mãn với những nhân nhượng của chính quyền, Trí Quang nhờ Tỉnh trưởng Thừa Thiên chuyển thư cho Cẩn, hứa không tranh đấu nữa. (20)

Tại Sài Gòn, dù chưa là trung tâm của mắt bão, Phật tử cũng biểu tình liên tiếp trong hai ngày 7 và 8/5 để chống lệnh cấm treo cờ và đòi bình quyền tôn giáo. Ngày 9/5, Thượng tọa Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật giáo—quyết "Tử Vì Đạo." Ủy ban này qui tụ 11 Hội đoàn. ( 21)

Tâm Châu được cử làm Chủ tịch; với Mai Thọ Truyền, Tổng thư ký. Văn phòng đặt tại chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện Thanh Quan.

Bộ Ngoại Giao Mỹ đặc biệt quan tâm đến cuộc đàn áp Phật tử ở Huế. Mặc dù tuyên bố trung lập trong cuộc đấu tranh của Phật giáo, các viên chức cao cấp tại Bạch Cung có thiện cảm với phe Phật giáo. Từ Oat-shinh-tân, chiều ngày 9/5 [04G24 sáng ngày 10/5 VN], Ngoại trưởng Dean Rusk chỉ thị Đại sứ Frederick Nolting yêu cầu Diệm:

(1) Không nên đàn áp Phật tử,

(2) bày tỏ cảm tình với gia đình nạn nhân và giúp tiền an táng,

(3) sử dụng những biện pháp thích nghi để vãn hồi trật tự, và

(4) tạo tinh thần thân ái giữa các nhóm giáo dân. (22)

Trong khi đó, cơ quan CIA ghi nhận có tin đại diện Cao Đài và Hoà Hảo đang thảo luận việc phối hợp hành động với Phật giáo. Lại cũng có tin tuyệt thực đã bắt đầu tại Huế từ ngày 12/5. Theo trung tá Thuong (?), Giám đốc Cảnh Sát Công An Trung nguyên Trung Phần, Phật tử dự định biểu tình khắp đồng bằng miền Trung ngày 21/5. Tại Sài Gòn cũng có tin sẽ biểu tình ngày 21/5. (23)

Do sự dàn xếp khôn khéo của Nolting, ngày 15/5, Diệm tiếp kiến đại diện Phật giáo tại Sài Gòn. Phái đoàn Phật giáo đầu tiên này gồm có Thượng tọa Thích Thiện Hòa (Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Già Toàn quốc); Thích Thiện Hoa (Trị sự trưởng Giáo Hội Việt Nam); Thích Thiện Thái (Trị sự trưởng Giáo Hội Bắc Việt), Thượng tọa Lâm Em (Trị sự trưởng Chùa Chanterasey), Thích Dũng Chí (đại diện Phật giáo Nguyên Thủy), cùng hai cư sĩ Mai Thọ Truyền (Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt), và Vũ Bảo Vinh (Hội trưởng Hội Phật học Bắc Việt). Phe chính phủ cóù Bùi Văn Lượng (Nội vụ) và Paul Ngô Trọng Hiếu (Công dân vụ). (24)

Theo Việt Tấn Xã ngày 17/5, về đòi hỏi số 1 (rút lại lệnh cấm treo cờ Phật giáo), Diệm cho rằng cả Ki-tô lẫn Phật giáo đã có lỗi về việc treo cờ; chỉ được treo cờ trong các thánh đường hay chùa. Về đòi hỏi thứ hai (Dụ số 10), Diệm nói sẽ cứu xét lại. Điểm 3, về việc bắt giữ Phật tử và tăng ni, Paul Hiếu khẳng định không hề có "khủng bố." Lượng tuyên bố "không hề có việc quân đội ném lựu đạn, xe thiết giáp bắn trọng pháo hay cán vào đám đông... Sự thật chỉ có hai trái plastic do Việt Cộng thừa lúc lộn xộn mà giựt, vì Quân đội không có plastic và căn cứ vào vết tích còn lại." Diệm nói những người bị bắt có hành động bất an cho dân chúng và chính quyền, nếu tha ra, phần tử xấu sẽ lợi dụng. Điểm 4, về tự do tín ngưỡng, Diệm nói đó là quyền hiến định. Điểm 5, về bồi thường, Diệm chỉ hứa sẽ nghiên cứu việc trợ cấp. Đại diện Phật giáo đưa thêm hai đề nghị: ra Huế thăm viếng những người bị bắt giữ và tổ chức cầu siêu cho nạn nhân. Diệm nói sẽ cứu xét đòi hỏi thứ nhất, và đồng ý đòi hỏi thứ hai, với điều kiện chỉ tổ chức trong khuôn viên các chùa. Nhưng đại diện Phật giáo, qua buổi họp này, kết luận rằng Diệm chưa có quyết định nào rõ rệt. (25)

Đáng ghi nhận là từ ngày 15/5/1963 này, Lượng bắt đầu thay "lựu đạn" bằng hai trái mìn từ lực của Cộng Sản mà quân đội không được cấp phát. Đây là nỗ lực "sửa sai" của chế độ để chối bỏ tội lỗi (trong khi mãi tới ngày 25/5, Diệm mới thú nhận là cấp dưới đã báo cáo sai lạc về một hay nhiều trái lựu đạn). (26)

Vì sắp rời Việt Nam qua Greece [Hy Lạp] nghỉ thường niên, Nolting khuyến khích Diệm nên ra một tuyên cáo chính thức về vấn đề Phật giáo. Nolting cũng tiếp xúc Khâm sứ Vatican là Salvatore d’Asta và Linh mục Cao Văn Luận để thuyết phục Diệm. Theo Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần, thương thuyết với Phật giáo tiến triển tốt đẹp, nhưng chủ chốt là chính phủ muốn tránh trách nhiệm. (27)

Ngày 18/5, khi cùng XLTV Đại sứ William C. Trueheart qua chào tạm biệt Diệm, Nolting cố thuyết phục Diệm đáp ứng nguyện vọng của Phật giáo. Nolting muốn Diệm phải tuyên bố chịu trách nhiệm về biến cố ở Huế, bồi thường cho nạn nhân, và tái khẳng định chính sách bình quyền tôn giáo và không kỳ thị. (28)

Diệm không hứa điều gì. Diệm vẫn tin, hoặc muốn diễn giải rằng biến cố ở Huế là do các lãnh tụ Phật giáo khích động; những người chết ở Huế là do một hay nhiều trái lựu đạn, do Cộng sản hay những người chống đối chế độ ném, không phải viên chức chính phủ; và một số lãnh đạo Phật giáo lợi dụng biến cố ở Huế để củng cố thế lực trong nội bộ Giáo hội. Dưới mắt Diệm, vấn đề Phật giáo không quá nghiêm trọng như Mỹ tưởng nghĩ. (29)

Dù được xem những khúc phim về cuộc đàn áp - chứng minh quân lính của Sỹ bắn vào Phật tử - Diệm không thay đổi lập trường. (30)

Diệm chỉ quyết định cách chức Đẳng, đưa Nguyễn Văn Hà ra Huế. Đồng thời, bổ nhiệm Nguyễn Xuân Khương, đương kim Tổng Giám Đốc Điền Địa, thay Hồ Đắc Khương làm Đại biểu Trung Phần, hiệu lực từ ngày 1/6/1963.

Cho rằng chính phủ kỳ thị Phật giáo, các tăng ni quyết tranh đấu đến cùng. Ngày 21/5/1963, tại Sài Gòn, 600 tu sĩ biểu tình, rồi diễn hành từ chùa Ấn Quang đến chùa Xá Lợi. Mặc dù từ ngày 24/5 các chuyên viên y khoa khẳng định rằng thương tích nạn nhân ở Huế đêm 8/5 không do mảnh lựu đạn gây nên Diệm vẫn chẳng tỏ một thái độ hòa giải nào. (31)

Mãi tới ngày 29/5—sau khi tuần báo Newsweek ngày 27/5/1963 đề cập đến sự lộng hành của tập đoàn cai trị Ki-tô của Thục cùng các "quan" ở Huế (32)- báo chí bán chính thức của chính phủ mới đăng một tuyên cáo của Diệm, khẳng định quyền tự do và bình đẳng tín ngưỡng được qui định trong điều 17 của Hiến Pháp; nhưng vẫn bảo vệ lệnh treo cờ, vì quốc kỳ phải có địa vị tối thượng. Ngày này, tại Mỹ, báo New York Times [New York Thời Báo] loan tin Phật tử rất bất mãn về cách đối xử của Diệm, và đang chuẩn bị đấu tranh tuyệt thực, đồng thời tổ chức cầu siêu trong vòng 4 tuần lễ. David Halberstam—một trong những ký giả lập nên sự nghiệp nhờ chiến tranh Việt Nam và chủ trương nhà Ngô phải ra đi—thuật lại là trong buổi họp ngày 15/5, Diệm đã lên án các tăng sĩ là "bọn khùng" [damn fools] khi đòi hỏi bình đẳng tôn giáo, vì quyền này đã được Điều 17 của Hiến pháp (một bộ tiểu thuyết luật pháp và nhân quyền) bảo đảm. Bộ Ngoại Giao Mỹ vội thông báo cho Trueheart về nội dung bài báo trên, đồng thời chỉ thị Trueheart phải đích thân gặp Diệm, thuyết phục Diệm thỏa mãn nguyện vọng của Phật giáo. (33) Hôm sau, Bộ Ngoại Giao đồng ý cho Trueheart gặp Khâm sứ Vatican, nhờ khuyên bảo Diệm về vấn đề Phật giáo. (34)

Trueheart chưa kịp gặp Diệm, Phật giáo đã hành động. Hòa thượng Tịnh Khiết—đúng hơn nhóm lãnh đạo tranh đấu—chỉ thị cho các tăng sĩ tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ kể từ 2 giờ chiều ngày 30/5/1963. Ngày này, tại Sài Gòn, 350 tăng ni biểu tình trước Quốc Hội, rồi tuyệt thực. Tại Huế, dù chùa Từ Đàm bị cô lập, các cấp lãnh đạo Phật giáo vẫn tuyệt thực. Khoảng 3,000 Phật tử bị vây hãm trong vòng rào kẽm gai. Tại Quảng-Trị, Phật tử biểu tình trong trật tự.

Ngày Thứ Bảy, 1/6, đúng ngày Tỉnh trưởng Đẳng, Phó Nội an Đặng Sỹ và Đại biểu Trung phần bị thay thế, nhiều đoàn Phật tử Huế tụ họp tại một số địa điểm trong thành phố, kể cả văn phòng tỉnh trưởng và Đại biểu chính phủ tại miền Trung. Khoảng 10,000 người tụ họp trước chùa Từ Đàm. Sau đó giải tán do yêu cầu của các tăng sĩ. Đỗ Cao Trí điều Nhảy Dù và M-113 từ Quảng-trị vào Huế đề phòng bất trắc. (35)

Tại Đà Nẵng, Phật tử cũng tổ chức tuần hành không bạo động vào ngày 1/6, do các tăng ni dẫn đầu. Tối hôm trước, 31/5, Đại tá Lâm Văn Phát, Tư lệnh Sư đoàn 2 BB—một giáo dân Ki-tô tân tòng, thường tự chứng tỏ là rất trung thành với chế độ—cho lệnh các đơn vị dưới quyền chuẩn bị chống biểu tình. Chiều 1/6ù, một xe vận tải hai tấn rưỡi (GMC) của quân đội chở đầy đạn bỗng dưng bị hư máy ở một ngã tư cách Toà Thị chính một khu phố về phía Bắc. Cấp chỉ huy bèn phái một xe GMC khác tới tháo rỡ đạn, dưới sự bảo vệ an ninh của một đơn vị tác chiến. Quân Cảnh, Cảnh Sát và Công An cũng chặn đường từ phía Nam lên Toà Thị chính.

Kế hoạch của Phát không đủ ngăn cản Phật tử biểu tình trong trật tự. Các tăng ni dẫn đầu một đoàn phụ nữ và thiếu niên diễn hành qua đường phố, với khẩu hiệu đòi tự do tín ngưỡng và bình quyền tôn giáo. Tới trước cửa Toà Thị chính, 7 nhà sư rời đám đông, biểu tình ngồi; trong khi Phật tử tiếp tục cuộc diễn hành, rồi giải tán. Giữa lúc Phật tử đang biểu tình, Phát vào gặp Thị trưởng Đà Nẵng là Hà Thúc Luyện, cho lệnh phải dời 7 nhà sư đang ngồi trước Toà Thị chính, và giải tán cuộc diễn hành, cho dẫu "đích thân Thị trưởng phải ném lựu đạn vào đám đông." Luyện, mặc dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp thân tín của Cẩn, từ chối. Trong đêm 2/6, Phát điều thêm một số đơn vị khác vào thành phố. Một đại đội cũng tăng cường cho Ty Công An Đà Nẵng (đối diện khách sạn). Phần các quân nhân Phật tử bị cấm trại. Trong đêm, 7 nhà sư bị bắt đi mất tích. Qua ngày hôm sau, 3/6, Luyện bị cất chức Thị trưởng; gọi vào Sài Gòn trình diện. Trung tá Trần Ngọc Châu, Tỉnh trưởng Kiến-hoà, một Phật tử gốc miền Trung, ra thay.

Trong khi Đà Nẵng đang sôi động, ngày 2/6, Phật tử Quảng-Trị lại biểu tình. Chính quyền đàn áp bằng lựu đạn cay. Giao thông với Huế bị cắt đứt.

Chiều hôm sau, 3/6, tại Huế, khoảng 500 thanh niên tụ họp trước Tòa Đại Biểu Trung Phần. Quân đội "dàn chào" bằng lưỡi lê và lựu đạn cay. Các nẻo đường dẫn đến chùa bị phong tỏa bằng kẽm gai. Phật tử biểu tình ngồi. Binh sĩ dùng lựu đạn cay giải tán. Trong khi đó, Trí Quang đã tuyệt thực nhiều ngày, sức khoẻ suy giảm. Đỗ Cao Trí ra lệnh giới nghiêm. Khoảng 18G30, quân đội lại tấn công mạnh Phật tử biểu tình tại chợ Bến Ngự. Dùng cả chất hóa học (blister gas), khiến 67 nạn nhân bị nôn mửa, lưu lại vết bỏng trên da. (36)

Được báo cáo, ngày 3/6 [sáng 4/6 Việt Nam] Bộ Ngoại Giao Mỹ hai lần chỉ thị Trueheart phải yêu cầu Diệm hoà giải với Phật giáo và báo cáo rõ hơn về khói hóa học sử dụng để đàn áp Phật tử. (37)

Trueheart vội đến gặp Bộ trưởng Thuần vào khoảng 11G45 ngày 4/6. Khác với Nolting, Trueheart trở lại thái độ công khai áp lực mà cựu Đại sứ Elbridge Durbrow đã áp dụng. Trueheart cảnh cáo Diệm rằng Mỹ có thể ngưng yểm trợ nếu còn đàn áp Phật giáo. Thuần tiết lộ Hội đồng chính phủ đã đề nghị thành lập một Ủy Ban Liên Bộ để cứu xét các đòi hỏi của Phật giáo như Trueheart yêu cầu từ ngày 1/6, và Diệm đã chấp thuận. Nhu cũng hứa sẽ tiếp xúc với lãnh tụ Phật giáo. Ngay chiều đó, Thuần còn mời Trueheart tới tư dinh, nói đã thành lập một ủy ban điều tra về vũ khí hơi độc ở Huế, do Trần Văn An, và trung tá Y sĩ Liêm cầm đầu. Diệm cũng sẽ tuyên bố thành lập Ủy Ban Liên Bộ [UBLB], gồm Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Nội Vụ Lượng và, Thuần.

Nhưng khoảng 17G00, MACV lại xin ý kiến Trueheart về việc Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu MACV không vận 300 Cảnh sát từ Vũng Tàu ra Huế. Trueheart không chấp thuận. (38)

II. TUYÊN CÁO CHUNG 16/6/1963:

Do áp lực của Mỹ, từ giữa tháng 5/1963, Diệm đã gặp các lãnh tụ Phật giáo để thảo luận về 5 đòi hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ Diệm chỉ muốn kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc tranh đấu. Họ không muốn nhìn nhận trách nhiệm vì cho đó là nhược điểm. Diệm cũng không muốn thỏa mãn các nguyện vọng của Phật giáo vì sợ rằng Phật giáo sẽ tiếp tục đòi hỏi nhiều hơn. Áp lực của Mỹ khuyên Diệm hòa hoãn thì được giải thích theo một ý nghĩa khác—thực ra, chế độ Diệm đang rơi vào một cuộc khủng hoảng niềm tin với Mỹ, và Nhu đang bí mật ve vãn Cộng Sản với sự tiếp tay của Pháp và India. (39)

Trong khi đó, các lãnh tụ Phật giáo khéo léo phối hợp giữa biểu tình và ngoại giao, kể cả việc sử dụng các cơ quan truyền thông quốc tế, để đạt mục tiêu. Nhưng biến cố gây xúc động nhất là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức ở Sài Gòn ngày 11/6/1963. Có thể nói đây là lần đầu tiên có một mặt trận đấu tranh chính trị tinh xảo đến thế. Trong khi đó, chính phủ Mỹ không ngừng áp lực Diệm phải giải quyết cuộc khủng hoảng. Nhờ vậy, ngày 16/6, Diệm và Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ra một Thông cáo chung. Nhưng Diệm không thực tâm thi hành những điều đã ký kết. Đặc biệt, Thục và vợ chồng Nhu-Lệ Xuân tìm mọi cách ngăn chặn việc thực thi tuyên cáo ngày 16/6/1963. Phật giáo cũng không lùi bước.

¡ A. THƯƠNG THUYẾT:

Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ [UBLB] cùng các Thượng Tọa Thiện Minh và Thiện Hoa ngồi vào bàn thương thuyết. Ngay sau buổi họp đầu, cả hai bên đều thất vọng về sự thiếu thành khẩn của nhau. Dẫu vậy, Thuần cùng Thiện Minh, phụ tá của Trí Quang, bí mật đạt được những thỏa thuận sơ khởi trên 5 đòi hỏi của Phật giáo, với điều kiện phải gặp Diệm để được phê chuẩn. (40)

Hôm sau, 6/6, Diệm đọc một diễn văn truyền thanh ngắn, kêu gọi mọi người hãy bình tĩnh vì chính phủ cần thời gian để giải quyết cuộc khủng hoảng. (41)

Ngày này, UBLB cùng Thiện Minh và Thiện Hoa cũng đồng ý dự thảo thỏa ước: Chính phủ sẽ trút các đơn vị quân đội và an ninh khỏi vùng lân cận các chùa chiền, Đỗ Cao Trí phải ngừng ngay những cuộc biểu dương võ lực. Ngược lại, phe Phật giáo ngừng các chiến dịch tuyên truyền chống chính phủ.

Thiện Minh lập tức lên đường ra Huế tường trình về những điều thỏa thuận với UBLB, mang theo một cư sĩ quen biết Thuần để bảo đảm rằng những phần tử "quá khích" [extremits elements] không phá hoại kết quả thương thuyết. Theo dự trù, Hoà thượng Tịnh Khiết, đang tuyệt thực ngoài Huế, cũng sẽ vào Sài Gòn ký tuyên cáo chung. (42)

Nhưng tại Huế, tình hình thêm căng thẳng. Trong ngày 5/6, bạo động lại diễn ra khiến 4 Phật tử chết, hơn 100 bị thương và hơn 1,000 người bị bắt. Hai sinh viên bị mất tích. 3 y sĩ Germany [Đức] và 2 y sĩ Mỹ đang phục vụ tại Huế đã tích cực giúp đỡ các Phật tử. Diệm bèn cho lệnh hai y sĩ Germany, Erich Wulff và Hans Holterscheidt, phải lập tức rời cố đô. Sau đó, trục xuất họ khỏi Sài Gòn với lý do "không được ưa chuộng" [Persona Non Grata]. (43)

Chính quyền Huế và các địa phương còn ngưng tiếp tế cho những người biểu tình bị cô lập. Lãnh sự John J. Helble báo cáo rằng tình trạng thực phẩm và nước uống tại chùa Từ Đàm đã ở vào tình trạng báo động đỏ. Phi cơ chính phủ thì rải truyền đơn đả kích Trí Quang và đòi bắt giữ cả Tịnh Khiết. (44)

Tại Sài Gòn, thái độ họ Ngô cũng đột ngột cứng rắn hơn. Vợ chồng Nhu-Lệ Xuân công khai trách mắng Thuần là đã nhân nhượng quá nhiều với Phật giáo. Ngày 7/6, Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới [PTPNLĐ] của Lệ Xuân ra "quyết nghị" lên án những cuộc biểu tình chống chính phủ là chống lại người quốc gia (anti-nationalist), bị "Cộng sản khai thác và lợi dụng, dẫn đến hỗn loạn và trung lập." Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục im lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục xuất những ngoại nhân chuyên phá hoại, dù mặc áo thày tu hay không, đặc biệt là những kẻ mưu toan biến Việt Nam thành chư hầu ngoại bang. (45)

Quyết nghị này được trao cho báo chí ngày hôm sau, 8/6/1963. Ngày này, Trueheart gặp Thuần về quyết nghị của PTPNLĐ trên nhưng Thuần thú nhận mình không giải quyết được gì.

Chiều đó, Truehart phải vào Dinh Gia Long gặp Diệm, đích thân phản đối lời tuyên bố của vợ Nhu, và dọa sẽ công khai không ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Diệm nói không thể bác bỏ quyết nghị của PTPNLĐ, vì đây là một hội đoàn tư nhân, nhưng sẽ cho lệnh Bộ trưởng Nội vụ phải để những người biểu tình tại chùa Từ Đàm được tiếp tế lương thực và nước uống.

Diệm cũng nói không biết gì về việc phi cơ chính phủ thả truyền đơn sỉ nhục lãnh tụ Phật giáo. Sau đó, Diệm khẳng định lập trường của chính phủ:

Sẽ thương thuyết trong thế mạnh;

Phật giáo vi phạm lời cam đoan tạm ngưng chiến dịch tuyên truyền, tiếp tục phát tài liệu cho báo chí ngoại quốc (như Thiện Minh đã tiết lộ về những điều khoản thỏa thuận);

Phật giáo thiếu thành tín (bad faith).

Lần đầu tiên, Diệm thú nhận với Trueheart rằng chính quyền địa phương bất lực trong việc đối xử với Phật giáo; vì mãi đến ngày 24/5—tức hơn hai tuần lễ sau cuộc thảm sát ở Huế—chuyên viên y khoa mới báo cáo là thương tích không do mảnh lựu đạn gây nên. Nhưng Diệm nhấn mạnh sẽ sử dụng các biện pháp cần thiết để duy trì trật tự nếu hỗn loạn tiếp tục. (46)

Hôm sau, 9/6, báo Times of Vietnam [Việt Nam Thời Báo] đăng nghị quyết ngày 7/6 của PTPNLĐ. Báo này nhấn mạnh vai trò của các tăng sĩ Nam tông (Nguyên thủy hay Therevada) trong những cuộc rối loạn hiện nay. Hàm ý là các tăng sĩ Nam tông có liên hệ với chính sách trung lập hoá miền Nam của Tổng thống Charles de Gaulle và Norodom Sihanouk. Các báo Việt ngữ không đăng. Diệm cũng cho lệnh đài phát thanh không được nhắc đến lời Lệ Xuân đả kích Phật giáo. Tuy nhiên, lệnh này chỉ được ban hành sau khi đài Sài Gòn đã phát thanh vài ba lần.

Tại Huế, số Phật tử bị phong tỏa đã 3 ngày không có nước uống, thực phẩm và thuốc men. Một số tư nhân mang tặng thực phẩm, nước uống. Chính phủ cho chụp hình, loan báo đó là do chính phủ cung cấp. Trong khi đó, điện thoại với Sài Gòn bỗng dưng bị "hư." Lãnh sự Huế Helble không thể liên lạc được với Trueheart. Thuần cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự. Phi cơ chính phủ thì tiếp tục rải truyền đơn, tố cáo Trí Quang, Phó Chủ tịch Phong trào Phật tử tranh đấu, là Cộng Sản. Đây là bước đầu, chuẩn bị cho việc bắt giữ các lãnh tụ tranh đấu—vì chỉ cần "liên hệ với phiến Cộng" (tức phiến loạn Cộng Sản) đã là một trọng tội dưới chế độ Diệm, có thể bị kết án từ khổ sai tới tử hình. Không ít người đã bị tra tấn đến chết hay thủ tiêu. (47)

Tại Oat-shinh-tân, trưa ngày 8/6 [đêm 8 rạng 9/6 tại Việt Nam], Rusk chỉ thị cho Trueheart yêu cầu Thuần hay Diệm bác bỏ nghị quyết của PTPNLĐ, rút bỏ Sắc luật số 10, và cần xác định lời tuyên bố của Lệ Xuân có được chính phủ duyệt trước hay chăng. Lời tuyên bố của Lệ Xuân, Rusk nhấn mạnh, làm suy giảm vị thế của VNCH, và làm tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây khó khăn cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc Hội cũng như dư luận Mỹ. (48)

Gặp Thuần ngày 9/6, Trueheart cho Thuần biết chỉ thị của Bộ Ngọai giao Mỹ. Rồi đả kích việc chính phủ đang chuẩn bị tổ chức phản biểu tình vào ngày 10 hay 11/6. Kế hoạch phản biểu tình của Paul Hiếu này gồm có những thủ thuật sử dụng "sư giả" từ các tỉnh miền Nam, Thanh Niên Cộng Hoà và bọn tệ đoan xã hội ở Chợ Lớn giả làm sư. Trueheart cảnh cáo rằng nếu quả thực như vậy, cần phải ngừng ngay. Trueheart cũng nêu lên vấn đề giáo dân Đà Nẵng đang chuẩn bị ra nghị quyết cách chức thiếu tá Thiệt, Tỉnh trưởng Quảng-Nam, nhân dịp làm lễ cầu hồn cho Giáo hoàng John XXIII (1958-1963) vào ngày 10/6. Nếu đúng sự thực, cần chấm dứt ngay. Trueheart còn nêu lên vấn đề 4 ký giả (Michaud của AFP, Sheehan của UPI, Browne của AP và Parry của báo NY Times) đã bị bắt giữ 1 giờ đồng hồ tại Quận 3. Hành động này, Trueheart bảo thẳng Thuần, là "khùng" và bất lợi. (49)

Mãi tới 9 giờ sáng ngày Thứ Hai, 10/6, Thuần mới gặp Trueheart để phúc đáp. Theo Thuần, Thuần đã trình bày với Diệm và Nhu về những đề nghị của Mỹ. Về Sắc luật số 10, Diệm không có quyền rút lại. Quyết nghị của PTPNLĐ không phải là "tuyên bố của bà Nhu," mà là của "một tổ chức đại chúng" (cả Thuần lẫn Trueheart đều mỉm cười). Diệm đã gọi điện thoại cho Hiếu trước mặt Thuần về vấn đề tổ chức phản biểu tình. Hiếu chối không có kế hoạch đó. Cũng không có kế hoạch ra nghị quyết đòi cách chức Tỉnh trưởng Quảng Nam. Đang dàn xếp cho những người trong chùa Từ Đàm ở Huế ra về không gặp trở ngại, ngoại trừ các công chức. Chính phủ không đứng ra tổ chức lễ cầu hồn cho John XXIII. Diệm khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng cần cô lập những thành phần quá khích. UBLB của PTT Thơ sẽ họp lúc 10G00 để nghiên cứu lá thư mới nhất của UB Tranh đấu Phật giáo. (50)

B. NGỌN LỬA CÚNG DƯỜNG ĐẠO PHÁP:

Biến cố khiến cuộc tranh đấu của Phật giáo được dư luận thế giới chú ý nhất là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Đức tại ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài Gòn (ngay trước Tòa Đại sứ Cao Miên).

Quảng Đức, tục danh Lâm Văn Tức (1897-1963), đang tu tại chùa Quán Thế Âm trên đường Nguyễn Huệ, Gia Định. Lúc 9G30 sáng ngày 11/6 - giữa lúc Diệm và hầu hết nhân viên cao cấp trong chính phủ đang tham dự buổi quốc lễ cầu hồn cho Giáo Hoàng John XXIII - chiếc xe Austin của một Phật tử, dưới sự dẫn đường của một đoàn 400, 500 tăng sĩ, đưa Quảng Đức tới chỗ hóa thân. Địa điểm này được các tăng ni làm hàng rào cản không cho Cảnh sát can thiệp. Số khán giả tò mò lên tới khoảng 500 người, ngày càng đông. Một số ký giả như Sheehan của hãng UPI cũng được thông báo trước. Từ xe bước xuống giữa ngã tư, Thượng tọa Quảng Đức ngồi xuống theo thế thiền định, nhờ một Đại đức đổ xăng lên thân thể mình, rồi tự tay châm lửa bằng diêm (quẹt). Malcolm Browne, nhân viên hãng AP, thu được tấm hình này—bức hình rồi sẽ gây chấn động dư luận thế giới. (51)

Trưa đó, khoảng 400 tăng sĩ đưa thi hài Quảng Đức tới chùa Xá Lợi. 2,000 Phật tử cũng lũ lượt kéo nhau tới chùa. Khoảng 1,000 Cảnh sát tới "bảo vệ an ninh," nhưng các tăng ni được di chuyển tự do trong khu vực này. (52)

Khoảng 12G30, quân đội được lệnh cấm quân. Bảy tiểu đoàn Dù được lệnh ứng chiến. Đại tá Lê Quang Tung tăng cường 2 Đại đội Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB] cho Sài Gòn, trí quân trong phi trường Tân Sơn Nhất. Nhân viên Mỹ được nghỉ sớm, và khuyến cáo không nên đến gần các đám biểu tình. (53)

Trong khi đó, Trueheart tới gặp Thuần tại tư dinh, bảo thẳng Thuần rằng Diệm phải có thái độ ngay chiều đó, bằng không Bộ Ngoại Giao Mỹ sẽ tuyên bố không liên hệ đến chính sách tôn giáo của Diệm. Khi Thuần hỏi có thể dẫn lời Trueheart cho Diệm và Nhu nghe được không, Trueheart đồng ý. (54)

Phó Tổng thống Thơ và Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu cũng vào yết kiến Diệm yêu cầu phải có hành động tức khắc, đồng thời chỉ thị UBLB xúc tiến nhanh việc thương thuyết với Ủy Ban Liên Phái Phật giáo Tranh Đấu. (55)

Ngay tối 11/6 đó, Diệm đọc diễn văn, long trọng cam kết là "phía sau Phật giáo còn có Hiến Pháp, tức là có tôi." (56)

Hy vọng của Diệm và các cố vấn là diễn văn truyền thanh của Diệm sẽ trấn an dư luận cho tới hôm sau, khi UBLB sẽ gặp mặt Ủy Ban Liên Phái.

Tại Oat-shinh-tân, gần nửa đêm 11/6 [gần trưa 12/6 tại Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị cho Trueheart: "Nếu Diệm không có những bước cấp tốc và hiệu lực để giải quyết cuộc khủng hoảng để gây lại niềm tin của Phật tử, chúng ta sẽ phải tái duyệt xét việc ủng hộ chế độ Diệm." (57) Tối ngày 12/6, Trueheart mới gặp được Diệm. Không những thông báo cho Diệm biết cuộc tự thiêu của Quảng Đức đang gây sôi nổi dư luận thế giới, Trueheart còn trao cho Diệm một văn bản cảnh giác Diệm—theo đúng chỉ thị của Rusk—là Mỹ có thể sẽ công khai tuyên bố không ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Trước khi kiếu từ, Trueheart nêu lên 3 điểm:

1. Báo cáo ngày 11/6 cho biết chính quyền Huế và Đà Nẵng tiếp tục bắt giữ những người biểu tình.

2. Chính phủ không thể truy tố những người "giúp" Thượng tọa Quảng Đức tự thiêu. (Diệm nói có người giúp Quảng Đức đổ xăng lên mình, và châm lửa. Trueheart nhấn mạnh rằng hai nhân chứng đích mắt thấy Quảng Đức tự mình tưới xăng và châm lửa).

3. Có tin chính phủ đang cấm các tăng ni từ các tỉnh vào Sài Gòn. (Cả Diệm lẫn Thuần trả lời là vì lý do an ninh. Diệm thêm rằng Quốc Hội đang thành lập tiểu ban nghiên cứu việc sửa đổi Sắc Luật số 10). (58)

C. THÔNG CÁO CHUNG:

Từ sáng ngày 12/6, Hoà thượng Tịnh Khiết, cùng hai Thượng tọa Trí Quang và Thiện Minh rời Huế vào Sài Gòn để thương thuyết với UBLB. Ba lãnh tụ Phật giáo tới phi trường Tân Sơn Nhất lúc 13G15, và tạm trú tại chùa Xá Lợi. (59)

Phó TT Thơ viết thư yêu cầu hai bên họp ngay lúc 18G00 hôm đó để giải quyết mau chóng các đòi hỏi của Phật giáo. Phe Phật giáo muốn trì hoãn ít ngày để bàn bạc với các đại diện miền Nam, nên nêu lý do Tịnh Khiết còn yếu sau 5 ngày tuyệt thực, cần tĩnh dưỡng ít ngày nữa. Thơ lại đề nghị gặp nhau hôm sau, giờ và địa điểm do phe Phật giáo chọn. Cuối cùng, Phật giáo đề nghị họp ngày 14/6, với điều kiện chính phủ phải nhân nhượng toàn bộ 5 đòi hỏi ngày 10/5/1963. (60)

Ngày Thứ Sáu, 14/6, phái đoàn Phật giáo do Thiện Minh làm Trưởng đoàn—gồm Thiện Hoa, Tâm Châu, Huyền Quang (Thư ký), và Đại đức Đức Nghiệp (Phó Thư ký)—bắt đầu họp bàn với UBLB. Do áp lực của Trueheart, ngay sáng hôm đó, chính phủ Diệm nhượng bộ đòi hỏi thứ nhất: đồng ý cho Phật tử treo cờ Phật giáo. Trong phiên họp chiều, đồng ý sửa lại Sắc luật số 10 của Bảo Đại. Để chứng tỏ thiện chí, Tịnh Khiết kêu gọi Phật tử tạm ngưng biểu tình. (61)

Hôm sau, khoảng 18G30, việc thương thuyết hoàn tất. Ngày Chủ Nhật, 16/6, hai bên ra thông cáo chung với những điều khoản sau: Tạm ngưng áp dụng Dụ số 10; cứu xét lại những khiếu nại của Phật giáo; xác nhận tự do tôn giáo; sẽ "trợ cấp" (không phải "bồi thường" như Phật giáo đòi hỏi) cho gia đình nạn nhân ở Huế. (62)

Sau đó, Tịnh Khiết và Diệm cùng ký vào bản Tuyên Cáo trong Dinh Gia Long.

Trong khi thương thuyết đang diễn ra, Phật tử và một số lãnh tụ Phật giáo thiên về bạo động hơn. Ngày 13/6, Phật tử khắp nơi treo cờ Phật giáo, chống lại lệnh cấm của Diệm (thực ra Diệm đã bí mật đồng ý). Buổi lễ cầu siêu cho Quảng Đức ngày Chủ Nhật, 16/6, tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người. Hơn 500,000 thanh niên, hoc sinh và Phật tử xuống đường biểu tình. Xô xát Cảnh Sát kéo dài 45 phút trước chùa Xá Lợi. (63)

Buổi tối, Thiết Giáp phải đến tăng cường cho lực lượng Cảnh Sát. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở đầu. 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. (64)

Ba ngày sau, 19/6, nhờ Cảnh Sát, Công An nỗ lực ngăn chặn Phật tử tham dự, lễ an táng Quảng Đức bớt hỗn loạn hơn.



III . GIAI ĐOẠN "HƯU CHIẾN,"

19/6 - 20/8/1963:

Thông cáo chung 16/6/1963 là cơ hội tốt nhất cho chính phủ Diệm giải quyết cuộc khủng hoảng Phật giáo. Nhưng vì những nguyên do thầm kín, gia đình họ Ngô quyết định không tôn trọng những điều đã cam kết. Phật giáo cũng chẳng phải không đề phòng. Các lãnh đạo Phật giáo chỉ tạm thời "ngưng chiến" trong vòng 2 tuần lễ, chờ đợi thành tâm của chính phủ.

A. NỖ LỰC PHÁ HOẠI THÔNG CÁO CHUNG 16/6/1963:

Có những dấu hiệu cho thấy vợ chồng Nhu-Lệ Xuân muốn phá hoại việc thực hiện thông cáo chung với Phật giáo.

Một mặt, Nhu vận động các hội Phật giáo độc lập chống lại cuộc tranh đấu. Ngày 20/6, Phật giáo Cổ Sơn Môn—mới thành lập tại chùa Giác Lâm, Chợ Lớn; do Huệ Tâm, Hoà thượng trụ trì chùa Trung Nghĩa, Sa Đéc, thủ lĩnh Lục Hòa Tăng làm Tăng thống—tuyên bố ủng hộ chính sách tôn giáo của chính phủ, và đứng ngoài chính trị. (65)

Nhu còn cho lệnh cắt bỏ đoạn phim thời sự về cuộc thương thuyết giữa chính phủ và Phật giáo.

Mặt khác, Nhu sai các tỉnh tổ chức mít-tinh lên án phong trào tranh đấu của Phật giáo và phong tỏa các chùa chiền. Đoàn viên Thanh Niên Cộng Hoà [TNCH] mặc đồng phục xanh dương đi lấy chữ ký để ra thỉnh nguyện thư phản đối bản thông cáo chung 16/6/1963, và chuẩn bị biểu tình đòi xét lại thông cáo chung này. Bản thông cáo số 3 của TNCH đệ trình lên "Tổng thủ lãnh" Nhu đề ngày 25/6/1963 gồm nhiều lời đả kích Phật giáo nặng nề như "dị đoan cuồng tín," "phản loạn, tay sai của kẻ thù chung," v.v... Đồng thời, lên án Bản Tuyên cáo chung 16/6/1963 là "không phù hợp với lý tưởng của Thanh Niên Cộng Hòa, có những đặc quyền và độc quyền cho một nhóm, có những chủ trương trái với luật lệ hành chánh." (66)

Trước sự phản kháng của Phật giáo với Thông cáo số 3, ngày 1/7/1963, TNCH lại ra Tuyên cáo số 4, ám chỉ các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là liên hệ với bọn phản loạn và phản quốc, trong khi đích thân Tổng thủ lãnh "cảnh giác để không cho phép bọn đầu cơ chính trị và Cộng Sản lợi dụng Thông cáo chung [16/6/1963] đó hầu làm sai lệch nó ra ngoài phạm vi tôn giáo." (67)

Lệ Xuân thì cho PTPNLĐ họp tại trụ sở trung ương ngày 16/6, cho loa phóng thanh công bố Quyết nghị ngày 7/6. Rồi ra một Bạc thư [Sách trắng], do vợ chồng Gene và Ann Gregory, chủ nhiệm báo Times of Vietnam soạn thảo, đăng trên chính tờ Times of Vietnam số ra ngày 17/6, miệt thị cuộc tranh đấu của Phật giáo, tố cáo cuộc tranh đấu của Phật tử không vì lý do tôn giáo mà chỉ vì lý do chính trị. (68)

Rồi đến việc thực hiện kế hoạch ăn mừng lớn suốt ba ngày, từ 25 tới 27 tháng 6/1963, để kỷ niệm 25 năm Thục được phong chức Giám mục (Lễ Ngân Khánh = Tea Deum). (69)

Có lẽ anh em Diệm-Nhu muốn sử dụng ngày lễ này để vận động sự ủng hộ của khối giáo dân Ki-tô chống lại Phật giáo. Bởi thế, ngày 16/6, có lẽ do lời khuyên bảo của Đặc sứ Vatican d’Asta, Tổng Giám Mục Paul [Nguyễn Văn] Bình chỉ thị các họ đạo phải giữ tôn giáo biệt lập với chính quyền. "Một giáo dân Ki-tô tốt, và đạo hạnh, là công dân thượng hạng, ràng buộc với tổ quốc, trung thành với chế độ cầm quyền, bất kể sự chính thống của chính quyền ấy." Đó là lời giải thích của Pie XI, trong Sắc Dụ ngày 31/12/1929." (70)

Hệ thống tuyên truyền của chế độ cũng bắt đầu tìm đủ cách hạ giá trị của các lãnh tụ Phật giáo và mục tiêu tranh đấu của Phật tử. Cán bộ của chính phủ loan truyền tin đồn Cộng Sản đã nhúng tay vào máu khi ném lựu đạn vào đám đông đêm 8/5/1963 trước Đài Phát Thanh. Khi những cuộc giải phẫu tử thi không tìm thấy mảnh lựu đạn, câu chuyện biến thành Cộng Sản dùng hai trái mìn từ lực. Ít năm sau, lại mọc thêm chi tiết một đại úy cố vấn Mỹ đã chết từng tự nhận mình là tay đặt chất nổ.

Thượng tọa Trí Quang, linh hồn của cuộc tranh đấu miền Trung, bị cáo buộc là cán bộ Cộng Sản cao cấp, từng bị Pháp bắt giữ, âm mưu lật đổ chính quyền từ năm 1960.

Hòa thượng Tịnh Khiết, theo những lời tuyên truyền này, không biết chữ quốc ngữ, chỉ ký vào những gì mà các sư trẻ, quá khích bắt buộc phải ký.

Cuộc tự thiêu của Quảng Đức, vẫn theo các lò sản xuất tin đồn của chính phủ, không do tự nguyện, mà là một hình tội sát nhân. Quảng Đức, theo lập luận này, đã bị chích thuốc trước khi "sát nhân" đổ dầu và châm lửa đốt cháy. Diệm và Nhu có ý định truy tố ra tòa những người đã trợ giúp thượng tọa hóa thân. Lệ Xuân, vợ Nhu, thì khẳng định rằng cuộc tự thiêu cúng dường cho đạo pháp của Quảng Đức chỉ là một màn "nướng thịt sư" [barbecue of a bonze] với xăng nhập cảng. Bác sĩ riêng của Diệm thì mật báo với Đại sứ Nolting rằng Quảng Đức bị một số sư trẻ thuyết phục nên tự thiêu; vì ít năm trước, Quảng Đức từng hứa với một người bạn là sẽ "đồng tử," và nay người bạn đó đã chết, Quảng Đức cần giữ lời thề. Nói cách khác, theo viên y sĩ mà Nolting dấu tên, Quảng Đức không thích chính trị, và không tự thiêu để chống chính phủ. (71)

B. NỖ LỰC HÒA GIẢI CỦA MỸ:

Kennedy và các cố vấn cực kỳ bối rối. Trong một phiên họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia [ANQG], Kennedy đặt câu hỏi phải chăng Quảng Đức đã bị "thuốc" [drugged], nhưng các cố vấn khẳng định đức tin đã quá đủ cho những hy sinh tương tự. Dù là một giáo dân Ki-tô, và ủng hộ Diệm từ thập niên 1950, Kennedy sai toà Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn phải gây áp lực bắt Diệm đáp ứng ngay đòi hỏi của Phật giáo.

Ngày 14/6 [11 giờ sáng 15/6/1963 VN], Rusk chỉ thị Trueheart cứu xét việc đưa Phó Tổng thống Thơ lên thay Diệm trong trường hợp bất trắc, và Trueheart phải tiếp xúc Thơ cùng những người không ủng hộ Diệm. (72)

Nhưng hai ngày sau, Trueheart trả lời là không tiện bàn với Thơ, vì tình hình đã có vẻ sáng sủa hơn—Phật giáo và UBLB đã đạt được thông cáo chung. Trueheart chỉ hứa sẽ thuyết phục Diệm hoà hoãn với Phật giáo, và nếu Diệm không chịu thi hành những điểm hứa hẹn trong thông cáo chung, sẽ xúc tiến việc tìm "một giải pháp khác Diệm." (73)

Ngày Thứ Ba, 18/6, Trueheart bảo Thơ rằng chỉ nên coi những thỏa thuận như bước khởi đầu mà chưa phải hồi kết của cuộc khủng hoảng. Diệm cần thực hiện những điều đã thỏa thuận. Sáng đó, khi gặp Thuần, Trueheart cũng nói tương tự như trên, với lời lẽ cứng rắn hơn. Trueheart đặc biệt nhắc nhở Thuần về luận điệu của tờ Times of Vietnam ngày 17/6 khi tường thuật về tuyên cáo chung, và những hành động khiêu khích của PTPNLĐ. (74)

Tối ngày 19/6 [8G28 ngày 20/6/1963 tại VN], Roger Hilsman chỉ thị cho Trueheart nên lưu ý các viên chức Việt Nam là đừng nên đồng hoá một cá nhân với chế độ miền Nam. Thí dụ như lời tuyên bố "Phật giáo có thể tin cậy nơi Hiến pháp, nghĩa là tôi" của Diệm tạo nên những cảm tưởng xấu ở Mỹ. Viên chức Việt cũng cần tiếp xúc thường xuyên với các lãnh tụ Phật giáo và đối xử đồng đẳng với họ. Đặc biệt, thỏa ước 16/6/1963 phải được tôn trọng và nhanh chóng thực hiện để giảm thiểu sự nghi ngờ của Phật tử. (75)

Dư luận thế giới cũng đã chú ý hơn đến cuộc tranh đấu của Phật giáo. Ngày Thứ Sáu, 14/6, Norodom Sihanouk viết thư cho Kennedy, phản đối việc đàn áp Phật giáo tại miền Nam VN. Sihanouk cũng gửi cho TTK/LHQ U Thant, Thủ tướng Bri-tên McMillan, TT Charles de Gaulle và TT India, Radhakrishnan một thông điệp tương tự. Sihanouk còn trao cho Đại biện VNCH tại Phnom Penh một công hàm về vụ tàn sát Phật tử ở Huế. (76)

Hôm sau, 15/6, lần đầu tiên tin tức về Phật giáo Việt Nam được lên trang nhất báo The New York Times [Nữu Ước Thời Báo], tờ báo uy tín của giới trung lưu Mỹ. Tai hại hơn nữa, Max Frankel, tác giả bài báo cho rằng nhân viên ngoại giao Mỹ đã nói thẳng với Diệm bằng một giọng điệu gay gắt rằng VNCH phải thỏa mãn các đòi hỏi của Phật giáo, bằng không chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố không yểm trợ chính sách Phật giáo của Diệm. (77) Hầu hết các báo lớn và các lãnh tụ Mỹ đều chỉ trích chế độ Diệm.

Ngày 18/6, Thủ tướng Ceylon là Bandaranaike cũng gửi thư cho Kennedy, yêu cầu hòa giải để Phật tử, vốn giữ đa số tại Việt Nam, đư ợc quyền tự do tín ngưỡng. Mười ngày sau, 28/6, đại biểu Cambodia, Ceylon và Nepal tại LHQ cũng gặp đại biểu Mỹ để bày tỏ sự quan tâm về tình hình Phật giáo tại Nam Việt Nam. (78) Nhưng Diệm, đặc biệt là Thục và vợ chồng Nhu-Lệ Xuân, không muốn thực thi những điều đã thỏa thuận. Tăng sĩ và Phật tử vẫn bị Mật Vụ và Công An âm thầm bắt giữ. Đáng lưu ý là trong ba tháng đầu đấu tranh của Phật giáo, cả Hà Nội lẫn MT/GPMN đều không có một phản ứng rõ ràng nào. Chỉ có dấu hiệu là cán bộ nằm vùng Cộng sản xâm nhập vào các cuộc tranh đấu, lôi kéo thanh thiếu niên nam nữ. Có lúc, an ninh Mỹ phải đặt câu hỏi thực chăng Cộng sản đã bỏ vùng thôn quê, dồn vào mặt trận tỉnh thị.

C. THAY ĐỔI ĐẠI SỨ MỸ:

Giữa thời gian này, Oat-shinh-tân gửi công hàm hỏi ý kiến Diệm về việc bổ nhiệm Henry Cabot Lodge làm Đại sứ thay Nolting. Ngày 20/6/1963, BNG Mỹ chỉ thị cho Trueheart xin gặp Diệm để yêu cầu chính phủ Diệm chấp nhận cho Lodge thay Nolting làm Đại sứ. (79)

Lúc 17 giờ ngày 22/6, Trueheart gặp Diệm khoảng 1 tiếng đồng hồ. Ba ngày sau, 25/6, Thuần cho Truheart biết Diệm rất bất mãn việc thay đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Diệm cho rằng Mỹ đang thay đổi chính sách và đang có nỗ lực bắt Diệm phải làm theo Mỹ hay sẽ bị loại bỏ.

[Diem thought a new American policy was involved and an effort to force him to do our bidding or to unseat him]. Diệm đã tuyên bố, và Thuần cố gắng dẫn đúng lời Diệm: "they can send ten Lodges, but I will not permit myself or my country to be humiliated, not if they train their artillery on this Palace". (80)

Theo Thuần, Diệm sẽ trở nên cứng đầu hơn. Truheart nói không biết Lodge đã nhận được những chỉ thị gì, nhưng cách tốt nhất để tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên bắt đầu thay đổi cách làm việc. (81)

Ngày 26/6, Thứ trưởng Ngoại giao George W. Ball chỉ thị cho Trueheart gặp Diệm, giải thích rằng chính sách của Mỹ không thay đổi; đó là yểm trợ chính phủ chống Cộng miền Nam. Riêng việc bổ nhiệm Lodge đã được quyết định từ tháng 4/1963, trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, vì Đại sứ Nolting đã ở Việt Nam hai năm. Mục đích của Mỹ là cảnh giác Diệm về những hiểm họa có thể tránh, không để làm suy yếu Diệm. Nhưng quyết định và hành động là trách nhiệm của riêng Diệm. (82)

Hôm sau, Diệm tiếp Trueheart khoảng 2 tiếng rưỡi đồng hồ, tuyên bố sẽ thực hiện việc dân chủ hóa từ nông thôn lên, nhưng không muốn vợ chồng Nhu bị tách xa cá nhân mình. (83)

Thuần cũng thông báo với Trueheart là Chính phủ Việt Nam sẽ ra chỉ thị cho các tỉnh thi hành nghiêm chỉnh bản tuyên cáo chung 16/6/1963. Cá nhân Diệm có thể sẽ ra Huế để nghiên cứu và giải quyết mọi sự; Diệm cũng sẽ đọc diễn văn về việc thực thi tuyên cáo chung.

Nhưng ngày 27/6, Bộ trưởng Nội Vụ Lượng lại tuyên bố với một nhân viên CIA rằng Cộng sản đã xâm nhập phong trào tranh đấu của Phật giáo, và trong vài ngày tới, sẽ ra thông cáo về việc những người bị bắt giữ. (84)

Lời cáo buộc của Lượng báo hiệu chính sách mới của họ Ngô với Phật giáo. Rất có thể chính sách này được thảo luận kỹ càng hơn trong dịp anh em họ Ngô về Huế dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám mục của Thục, trong các cuộc họp mật vào cuối tháng 6/1963. (85)

C. ĐỢT TRANH ĐẤU THỨ HAI CỦA PHẬT GIÁO:

Phần Phật giáo vẫn chuẩn bị tiếp tục tranh đấu, nếu cần. Ngày 26/6, Thiện Minh viết thư phản đối với UBLB về việc thành lập Phật giáo Cổ Sơn Môn. Không hài lòng với thư trả lời ngày 28/6 của UBLB, nhóm Phật giáo tranh đấu quyết định xuống đường. Ngày 30/6, hàng ngàn tăng ni Sài Gòn bắt đầu tuyệt thực. Qua đầu tháng 7/1963, sinh viên, học sinh Sài Gòn biểu tình trước Quốc hội để yểm trợ cuộc tuyệt thực của các tăng ni.

Ngay 1/7, tờ Times of Vietnam cho đăng trên trang nhất bản tin tựa đề: "Mysterious Scotch Tape and End to Schizophrenia In Sight." [Băng keo Scotch bí ẩn và Đoạn kết chứng hoang tưởng đã ló dạng]. Bài này hàm ý có sự chia rẽ giữa Nhu và Thơ-Thuần, cáo buộc Quảng Đức đã bị "thuốc" trước khi tự thiêu, và đưa ra nhận định thời gian hưu chiến hai tuần đã qua, nhưng Sài Gòn vẫn yên tĩnh; ngoại trừ có một biến cố đặc biệt nào, thí dụ như một cuộc tự thiêu khác, có thể kết luận rằng những đòi hỏi của Phật giáo đã được thỏa mãn." (86)

Hai ngày sau, 3/7, Phó TT Thơ tuyên bố vào là, theo sự điều tra của chính phủ, chính "Việt Cộng" đã gây nên cuộc thảm sát đẫm máu ở Huế.

Ngày Thứ Hai, 1/7, Micheal Forrestal yêu cầu cho Đại sứ Nolting trở lại Việt Nam vì Phật giáo có thể biểu tình trở lại sau thời gian "hưu chiến." Tối 1/7 đó, Ball chuyển cho Trueheart chỉ thị của Hilsman và Nolting là phải gặp Diệm ngay, bảo thẳng Diệm rằng dư luận Mỹ cho rằng người thân của Diệm đang cố tình phá hoại sự thỏa thuận với Phật giáo. Đúng hay sai, dư luận Mỹ cũng cho rằng đang có bách hại tôn giáo ở miền Nam. Khi Trueheart gặp Thuần, Trueheart yêu cầu Thuần đọc bài viết trên Times of Vietnam, và đề nghị Mỹ muốn Lệ Xuân đừng nên tuyên bố gì hết; bài báo trên Times of Vietnam hàm ý thách thức Phật giáo tiếp tục tự thiêu. Rồi thêm chẳng lẽ Diệm không hiểu rằng chỉ cần một vụ tự thiêu nữa là chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố không dính líu gì đến chính sách tôn giáo của Diệm? Thuần trả lời rằng Diệm không biết điều đó, và đề nghị Trueheart nên nói thẳng với Diệm. (87)

Trueheart xin chỉ thị của Bộ Ngoại Giao và Ball cho gặp Diệm, nói thẳng với Diệm; và nếu cần, gặp cả Nhu. (88)

Buổi gặp mặt giữa Diệm và Trueheart chiều tối ngày 3/7 khiến liên hệ giữa hai bên thêm căng thẳng. Khi Trueheart đề nghị Diệm đích thân gặp các lãnh tụ tôn giáo để giải quyết, Diệm nói sẽ cùng với các cộng sự viên nghiên cứu lại. Khi Trueheart đề cập đến bài báo trên Times of Vietnam, Diệm cũng chỉ nói sẽ nghiên cứu. (89) Hôm sau, Thuần cho Trueheart biết rằng có lẽ Diệm không hành động gì về những đề nghị của Trueheart và yêu cầu Đại sứ Nolting trở lại Sài Gòn càng sớm càng tốt. (90)

Cũng trong ngày 4/7 này Lệ Xuân viết bài "Who Is Spokeman of Whom?" [Ai là phát ngôn viên của ai?] trên Times of Vietnam, phủ nhận tờ Times of Vietnam là cơ quan ngôn luận của mình. Nếu những bài viết trên Times of Vietnam có trùng hợp ý kiến của Lệ Xuân, đó cũng không phải là quan điểm của chính phủ. Bài này đã được phát cho báo chí ngày hôm trước. Lệ Xuân cũng khẳng định không đại diện cho chính phủ VNCH, và những kẻ xuyên tạc có thể bị lợi dụng bởi Cộng Sản và tay sai [lackeys] của chúng. (91)

Trong phiên họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia từ 11G00-11G45 (khoảng nửa đêm ngày 4/7 tại Sài Gòn), ý kiến chung của các viên chức Mỹ là Diệm không chịu xa Nhu. Hilsman, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, thông báo cho Kennedy biết sẽ có đảo chính trong vòng 4 tháng. (92)

Hôm sau, 5/7, từ Greece về tới Oat-shinh-tân, Nolting được mời tham dự phiên họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, rồi nhận lệnh trở lại Sài Gòn càng sớm, càng tốt, với hy vọng cho Diệm cơ hội chót. Giữa lúc Nolting đang trên đường về nhiệm sở, ngày Chủ Nhật, 7/7, tại Chợ Lớn, Công an hành hung một nhóm ký giả ngoại quốc nổi danh chỉ trích chế độ như Peter Arnett, gốc New Zealand, Browne, Sheehan, Halberstam, v.v... (93)

Ngày 10/7, bản ước lượng tình báo đặc biệt [SNIE 53-2-63] của Hội đồng ANQG Mỹ dự đoán rằng nếu Diệm không thi hành nghiêm chỉnh tuyên cáo chung 16/6, sẽ có đảo chính trong tương lai gần, với hơn 50% cơ hội thành công. (94)

D. NỖ LỰC VÔ VỌNG CỦA NOLTING:

Nolting vừa về tới Sài Gòn ngày 11/7 đã được Diệm mời vào Dinh Gia Long, trình bày tình hình. Để trả lời câu tuyên bố của Nolting với giới truyền thông khi vừa bước xuống phi trường - là mong muốn hai bên tiếp tục nói chuyện để đạt thỏa thuận -Diệm nói kết quả thương thuyết tùy thuộc vào phe tranh đấu. (95)

Vì nghi ngờ rằng Phật giáo bị Cộng Sản giật giây, Nolting nỗ lực nối lại mối giao hảo giữa Toà Đại sứ và Diệm. Ngày 15/7, Nolting khuyên Diệm nên công bố một số nhân nhượng cần thiết với Phật giáo. Diệm đồng ý, nhưng chưa có hành động nào. Theo Nolting, chính Diệm cũng đang ở trạng thái muốn tử vì đạo. (96)

Nhưng cuộc diễn hành tới trước tư thất Đại sứ Nolting ngày 16/7, do Tâm Châu dẫn đầu, để phản đối việc chính phủ tiếp tục đàn áp, bắt giữ tăng ni, Phật tử, và khẳng định Phật giáo không phải là Cộng sản hay bị Cộng sản lợi dụng, khiến Diệm cứng rắn hơn. (97)

Hôm sau, 17/7, Trần Văn Tư sai Cảnh sát đàn áp dữ dội cuộc biểu tình bất bạo động ở Sài Gòn và chùa Giác Minh tại Chợ Lớn. Hàng chục xe chở người bị bắt đến các trại tập trung vào An Dưỡng Địa Phú Lâm để sưu tra lý lịch. Các chùa đều bị phong tỏa.

Sau khi Kennedy tuyên bố trong buổi họp báo ngày 17/7 tại Oat-shinh-tân là hy vọng cuộc tranh chấp tôn giáo sẽ được giải quyết sớm, ít giờ sau [ngày 18/7 tại Việt Nam], Diệm tuyên bố trên đài thanh không hề đàn áp Phật giáo, yêu cầu mọi người đoàn kết sau lưng chính phủ, rồi kết luận bằng câu "Xin ơn trên ban phép lành cho chúng ta." Hôm sau nữa, 19/7, Diệm cho phát lại bài diễn văn truyền thanh vỏn vẹn 2 phút kể trên. Ngày này, Ủy Ban Liên Phái Tranh Đấu Bảo Vệ Phật giáo tán thành lời kêu gọi của Diệm; và yêu cầu có những biện pháp cụ thể để thực hiện Tuyên cáo chung ngày 16/6/1963, như phóng thích những người bị bắt giữ từ ngày 8/5, trừng phạt những người gây nên tội ác trong ngày 8/5, và bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân và gia đình. Hôm sau, 20/7, đích thân Paul Hiếu và Trần Văn Tư tới Phú Lâm yêu cầu các tăng ni bị bắt giữ được trở lại chùa Xá Lợi. (98)

Ngày 22/7, các lãnh tụ tranh đấu tổ chức một buổi họp báo tại chùa Xá Lợi, lên án chính phủ không giữ lời hứa. (99)

Điều đó, có lẽ Nolting rõ hơn ai hết. Chiều ngày 16/7/1963, khi Nolting vào Dinh Gia Long gặp Nhu, Nhu đã tuyên bố Phật giáo không có sự đe dọa nào đáng kể. Nhưng tại Oat-shinh-tân, các cố vấn của Kennedy nhìn sự việc một cách khác. Ngày 23/7, Hilsman chỉ thị cho Nolting là Bộ Ngoại giao dự trù sẽ còn nhiều cuộc biểu tình chống đối của Phật giáo; những cuộc biểu tình này khích động thị dân, và có thể sẽ có đảo chính trong vài tháng, nếu không phải vài tuần; và những cuộc đảo chính ấy có hy vọng thành công. Bởi thế, Nolting có thể ra tuyên cáo tự cách biệt với chính sách của Diệm; khuyến khích việc kế vị hợp hiến (Thơ lên thay); thuyết phục những người muốn đảo chính bỏ ý định; hoặc, tiếp tục chờ đợi, hy vọng Diệm cải cách. Hiện tại, nên theo đuổi chính sách chờ đợi. (100)

Ngày Thứ Tư, 24/7, Paul Kattenburg, Giám đốc Đoàn Việt Nam, còn đề nghị gửi phụ tá của mình là Lansdale qua Sài Gòn. Nhưng Nolting vẫn ra công bảo vệ Diệm. Theo Nolting, Diệm là cơ hội tốt nhất của miền Nam. (101)

Ngày 28/7, Nolting còn tuyên bố với hãng UPI là không hề có việc đàn áp Phật giáo ở VNCH, vì Bộ trưởng Nội Vụ Lượng đã cho Nolting biết chính phủ sẽ không dùng biện pháp mạnh để đàn áp; và dân chúng đã chán ngán cảnh hỗn loạn. Diệm còn trực tiếp chỉ thị cho đại tá Nguyễn Văn Y, Giám đốc Mật vụ, và Giám đốc Cảnh Sát Công An Đô thành không được dùng võ lực. Phó Tổng thống Thơ cũng nói đại diện Phật giáo đồng ý gặp Thơ trên căn bản bán chính thức từ ngày 31/7/1963.

Nhu và Lệ Xuân tiếp tục sử dụng cán bộ Cần Lao cùng các tổ chức ngoại vi như Thanh Niên Cộng Hoà, Thanh Nữ Cộng Hoà chống Phật giáo. Vì quá hăng say phục vụ lãnh tụ và để chuộc tội thua trận Tua Hai (Tây Ninh) hơn ba năm trước, ngày Chủ Nhật 23/7, trung tá Trần Thanh Chiêu, Giám đốc Nha Thanh Tra Dân Vệ tụ tập khoảng 100 dân vệ, gia đình tử sĩ và thương phế binh trước chùa Xá Lợi, yêu cầu "các thày trở lại việc tu hành, ngưng tiếp tục gây rối loạn chỉ làm lợi cho Cộng Sản." (102)

Lỗ mãng nhất là Lệ Xuân. Không những chỉ thị cho tờ Times of Viet Nam đả kích Phật giáo, mà còn hàm ý thách thức các tăng ni tiếp tục tự thiêu. (103)

Để trả lời Lệ Xuân, ngày 23/7, Sư bà Diệu Huệ, mẹ Giáo sư Bửu Hội, họp báo tuyên bố sẵn sàng tự thiêu cúng dường tam bảo. Tuy nhiên, cuối cùng Bửu Hội thuyết phục được mẹ mình ngưng tự thiêu. (104)

Ngày 1/8, Lệ Xuân tuyên bố với phóng viên đài truyền hình Mỹ CBS rằng các lãnh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ; và tất cả những gì Phật tử đã làm chỉ có mỗi việc "nướng thịt một sư" [barbecue a bonze] với "săng nhập cảng" [imported gas].

Hai ngày sau, Thứ Bảy 3/8, Lệ Xuân tuyên bố trước khoá sinh khoá III Phụ Nữ Bán Quân Sự rằng những vụ tranh đấu chỉ có bề ngoài tôn giáo, nhưng mục đích là chính trị, với những thủ thuật Cộng Sản, cần phải bẻ gãy.

Năm ngày sau nữa, 8/8, như để trả lời cha ruột là Đại sứ Trần Văn Chương -người đã công khai trách mắng Lệ Xuân là "thiếu tư cách và hỗn láo" [impertinent and disrespectful] trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ [VOA] vào ngày 6/8 - Lệ Xuân tuyên bố dù có "thiếu lễ độ" cũng phải nói "sự thực." Lệ Xuân cũng biện hộ cho những lời tuyên bố trên đài CBS ngày1/8/1963; khẳng định các lãnh tụ Phật giáo không đại diện cho Phật giáo hay đại diện cho dân tộc Việt Nam. Hôm sau nữa, 9/8, trong bài phỏng vấn của tuần báo Mỹ Newsweek, Lệ Xuân còn hung hăng hơn. (105)

Ngoài ra, còn có tin em trai Lệ Xuân, Trần Văn Khiêm, thay Trần Kim Tuyến làm Giám đốc Mật vụ, và Khiêm đã lập sẵn một danh sách những người chống đối chế độ để quăng lưới. Để chứng tỏ mình là người quyền lực, Khiêm mang danh sách trên ra khoe với cả một ký giả Australia. (106)

Nhu cũng tiếp tay vợ trong chiến dịch đả kích Mỹ và Phật giáo. Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng thông tấn Reuters ngày 3/8/1963, Nhu tuyên bố chùa Xá Lợi đang trở thành một trung tâm mưu lật đổ chính phủ, và nếu không giải quyết được vấn đề Phật giáo, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo. (107)

Ngày 7/8, Nhu nói với Nolting là hoàn toàn ủng hộ chính sách của Diệm qua bản tuyên cáo ngày 18/7, nhưng Lệ Xuân có quyền phát biểu ý kiến riêng của một công dân. Ngày 8/8, nhật báo New York Times đăng hai bài trên trang nhất về Việt Nam. Bài thứ nhất của Halberstam, từ Sài Gòn, với tựa "Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt Nam" [Mrs. Nhu Denounces U.S. for "Blackmail" in Vietnam]. Lệ Xuân, heo Halberstam, tuyên bố rằng Diệm không có quần chúng ủng hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Bài thứ hai của Tad Szulc ở Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ Kennedy về việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật giáo.

Tính sổ chung với những lời tuyên bố đòi rút số cố vấn Mỹ trong tháng 5/1963, âm thầm ve vãn Cộng Sản Bắc Việt và sử dụng Pháp để giải tỏa áp lực Mỹ, vợ chồng Nhu mới đích thực trở thành một thứ Persona Non Grata với Oat-shinh-tân.

Đặt mình trước nhiều hơn một lằn đạn—và nhất là đã bị thuyết phục rằng cuộc tranh đấu của Phật giáo chẳng những không có tính cách thuần túy tôn giáo mà chỉ là một âm mưu chính trị, nhằm lật đổ chính phủ, do Cộng Sản xúi dục—mọi nỗ lực cuối cùng của Nolting ở Việt Nam hầu như uổng phí. Ngày 30/7, Phật tử tổ chức linh đình giỗ thất tuần (49 ngày) Thượng tọa Quảng Đức. Hôm sau, 31/7, Ủy Ban Tranh Đấu Bảo Vệ Phật giáo ra tuyên cáo phản đối lời tuyên bố ngày 28/7 của Nolting, và hôm sau nua, Tâm Châu gửi thư trách cứ Nolting. (108)

Ngày 1/8, Tịnh Khiết cũng gửi thư cho Kennedy, phản đối lời tuyên bố của Nolting rằng không có việc đàn áp Phật giáo ở VNCH. (109)

Một Nhóm Người Yêu Nước thì ra tuyên ngôn phản đối Nolting là không hiểu biết gì về tình cảnh Phật giáo tại Việt Nam. Ba ngày sau, 4/8, Đại đức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước dinh Tỉnh trưởng Phan Thiết, và Phật tử xuống đường biểu tình đòi lại xác đã bị Cảnh Sát lấy đi. Ngày 12/8, một nữ sinh chặt một bàn tay phản đối chính quyền và luận điệu hỗn hào của Lệ Xuân đối với các tăng ni. Rồi, ngày 13/8, đến lượt Đại đức Thanh Tuệ cúng dường tam bảo ở chùa Phước Duyên, Hương Trà, Thừa Thiên. Hai ngày sau, ni cô Diệu Quang tự thiêu ở Ninh Hòa. Hôm sau nữa, 16/8/1963, Thượng tọa Tiêu Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm, Huế. (110)

Bẽ bàng hơn nữa là anh em họ Ngô cũng bắt đầu coi thường Nolting. Khi Nolting cho Diệm xem bức công điện khẳng định chính phủ Mỹ không thay đổi chính sách về Việt Nam, Diệm nói: "Tôi tin ông, nhưng không tin nội dung bức điện ông nhận được." (111) Khi Nolting đề nghị Diệm có biện pháp với Lệ Xuân - người mà theo Nolting đã vượt ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng Diệm chỉ hứa "sẽ cứu xét."(112)

Ngày 12/8, khi tiếp kiến Nolting, Diệm cho rằng các tăng ni không thành thực, và thế giới không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ. Sau dạ tiệc đưa tiễn Nolting của Diệm, ngày 13/8, Thơ họp báo, tuyên bố sẽ truy tố một số người tham dự biểu tình ngày 8/5, và những người bị bắt sau ngày 16/6 có thể không được khoan hồng. Trong phần hỏi đáp, Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ trích chính phủ VNCH của Thượng Nghị Sĩ Mansfield. Buổi họp báo của Thơ khiến Ngoại trưởng Rusk phải gửi điện tín cho Nolting, hỏi liệu Diệm có muốn đi nghỉ mát chung với vợ chồng Nhu chăng? (113)

Sau nhiều lần xin ở lại Sài Gòn nhưng bị từ chối, ngày 14/8, Nolting đến chào từ biệt Diệm. Đến gần lúc chia tay Diệm mới hứa sẽ công khai phủ nhận những lời lỗ mãng của Lệ Xuân. Những lời hứa cho có. Ngày 15/8, tờ Times of Viet Nam ca ngợi Nolting như "người đầu tiên xứng đáng với tước hiệu đại sứ." (114)

Do sự dàn xếp của Nolting, báo New York Herald Tribune [Diễn Đàn Tiền Phong New York] đăng bài phỏng vấn Diệm của Marguerite Higgins. Higgins trích lời Diệm là chính phủ vẫn theo đuổi chính sách ôn hoà với Phật giáo. Diệm và gia đình cũng rất vui lòng về việc bổ nhiệm tân Đại sứ Lodge. (115)

Thực ra, đây chỉ là món quà tiễn chân Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ, vì Diệm-Nhu đang có kế hoạch xuống tay mạnh với Phật giáo. (116)

Tại Huế và các tỉnh, việc bắt giữ, hành hung, ám sát Phật tử vẫn diễn ra hàng ngày. Ngày 14/8, chẳng hạn, một thợ mộc Phật tử phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ bị bắn chết ở Huế. Hôm sau, 15/8, chính quyền thả chó đàn áp học sinh và sinh viên biểu tình. Xô xát dữ dội. Một số bị bắt. (117)

Đại diện sinh viên Phật tử ở Huế phải gặp Cao Văn Luận xin can thiệp trả tự do cho những người bị bắt giữ. (118)

Nhưng ngay chính Luận cũng đang bị thất sủng. Ngày 16/8, trong khi chính quyền địa phương ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, bố trí xe tăng án ngữ ở một số ngã tư, kẽm gai kéo ra ngăn chặn dự định tự thiêu của Đại đức Tiêu Diêu ở chùa Từ Đàm, Bộ trưởng Giáo Dục Nguyễn Quang Trình cùng Nguyễn Hữu Thế, tân Viện trưởng Đại học Huế, tới cố đô để làm lễ bàn giao với Linh mục Luận vào ngày hôm sau. (119)

Hôm sau, 17/8, hầu hết các Giáo sư Đại học Huế đều xin từ chức: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa; Bùi Trần Huân, Luật khoa; Tôn Thất Hanh, Khoa học; Nguyễn Văn Trường, Ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Thế phải bỏ vào Sài Gòn báo cáo. Trong khi Luận lên đường vào Đà-nẵng, các giáo sư lại ký kiến nghị phản đối việc cách chức Luận. (120)

Chiều đó, sinh viên Huế bắt đầu biểu tình, cản đường Trình khi đương sự ra phi trường vào Đà Nẵng. (121)

IV. GIỌT NƯỚC LÀM TRÀN LY:

Ngay sau khi Nolting vừa rời Việt Nam, anh em Diệm-Nhu quyết định chào đón Tân Đại sứ Lodge bằng vài món quà ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất là cuộc tổng tấn công các chùa trên toàn quốc và công khai tiếp xúc với sứ giả Hà Nội.

Nguyên cớ gần có lẽ là bức điện văn mật ngày 16/8/1963 của Đại sứ Trần Văn Chương: Theo Chương, dư luận thế giới và đặc biệt là tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản.

Cuộc khủng hoảng Phật giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt nước làm tràn ly. Bởi thế, Diệm phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn. (122)

Đúng ngày16/8 này, báo Life đăng lại lời Lệ Xuân tuyên bố là sẽ phá tan Phật giáo. Trong khi đó, Hòa thượng Tịnh Khiết viết thư cho Diệm, cực lực phản kháng "sự ác độc của một chế độ xem dân như cỏ rác," và "mong được chết an hơn sống khổ." (123)

Ngày 17/8, Phật tử tụ họp đông đảo ở chùa Xá Lợi. Hôm sau, hơn 10,000 Phật tử đến chùa Xá Lợi làm lễ cầu siêu. Sinh viên Huế cũng chuẩn bị biểu tình, dù tạm thời hủy bỏ cuộc biểu tình dự trù vào ngày 19/8, vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng 8/1945). Nhưng ban giảng huấn đang rơi vào tình trạng khủng hoảng. Các giáo chức đệ đơn từ chức trong khi sinh viên yêu cầu tân Viện trưởng Thế - đương kim Đại sứ Philippines, mới được Ngô Đình Thục đề cử thay Linh mục Luận mà không hề thông báo cho Bộ Ngoại Giao - chuyển thỉnh nguyện mời Luận trở lại. (124)

Ngày 20/8, Thế cho lệnh những buổi hội họp trong khuôn viên trường phải xin phép trước. (125)

A. CUỘC TỔNG CÀN QUÉT CHÙA CHIỀN:

Ngày Chủ Nhật 18/8, mười Tướng và Tư lệnh đơn vị - kể cả Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính - họp mật, rồi đồng ý yêu cầu Diệm thiết quân luật, để bắt buộc các tu sĩ trở lại chùa. Hai ngày sau, 20/8, các Tướng trình dự thảo Thiết quân luật lên Nhu và Diệm. Diệm chấp thuận, cho lệnh André Đôn, mới được cử làm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng thay Đại tướng Lê Văn Tỵ, ký tên và công bố ngay nửa đêm đó. Đính được cử làm Tổng trấn. Tin này chỉ được công bố vào sáng ngày 21/8. Tuy nhiên, Diệm không hề hé môi về kế hoạch này trong buổi họp chính phủ suốt chiều ngày 20/8.

Khoảng nửa giờ sau khi Thiết Quân luật có hiệu lực, Nhu cho lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi Sài Gòn, nơi đặt bản doanh Ủy ban Tranh đấu, hai đại đội thuộc Liên đoàn 31 Lực Lượng Đặc Biệt [LLĐB], Đại đội 16 Bảo An, và Cảnh Sát mặc giả quân phục đánh chiếm mục tiêu. Hòa thượng Tịnh Khiết, Thượng tọa Tâm Châu, cùng nhiều tăng sĩ bị bắt giam sau một giờ chống cự. Khoảng 30 tăng sĩ bị thương, và 2 người bị mất tích. Đích thân đại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng LLĐB, và Giám đốc Cảnh sát Đô thành, Trần Văn Tư [tài liệu Pháp ghi là Cò Túc?], chỉ huy, dưới sự điều động của Đính.

Do mật báo từ Dinh Độc Lập, một số ký giả ngoại quốc đã biết trước tin này và có mặt tại chùa Xá Lợi để chứng kiến cuộc "vét chùa" của chế độ, và quyết tâm bảo vệ đạo pháp của các tăng ni. Các chùa Ấn Quang, Chantareansay (Sài Gòn) đều bị chiếm. Các tăng trụ trì chùa, Thích Thiện Hoa và Lâm Em, bị bắt giữ. (126)

Đồng thời, hai chùa Linh Mụ và Từ Đàm (Huế), cùng các chùa ở Đà Nẵng, Nha Trang v.v... đều bị chìm trong "nước lũ" bạo lực. Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Đợt tấn công đầu, Cảnh sát bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu cũng bị bắt giữ. (127)

Tổng cộng khoảng 1,400 người, đa số là tăng sĩ, trên toàn quốc bị bắt giam. (128) Chỉ có hai nhà sư từ chùa Xá Lợi thoát được tới trụ sở Phái Bộ Kinh Tế [USOM] gần đó xin tị nạn. Qua ngày 23/8, Trí Quang cũng trốn được vào Toà Đại sứ Mỹ. (128)

Tại Sài Gòn, Diệm cho triệu tập Hội đồng chính phủ vào lúc 5G30 sáng. Diệm chỉ giải thích rằng phải thiết quân luật theo điều 44 Hiến pháp vì Cộng Sản đã xâm nhập một số tỉnh lÿ, quận lÿ gần thủ đô; nhưng tuyệt nhiên không đả động gì đến vụ tấn công chùa Xá Lợi. Vì đã được một nhân viên báo tin cuộc tấn công chùa Xá Lợi, Ngoại trưởng Mẫu phản đối. Phó Tổng thống Thơ cũng ngả theo Mẫu. (129)

Nửa giờ sau, đài phát thanh bắt đầu loan đọc "Sắc lệnh tuyên bố tình trạng giới nghiêm" trên toàn quốc. Quân đội VNCH từ nay "chịu trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, có quyền xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét ra có hại cho an ninh công cộng; cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng; hạn chế tự do báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường; cấm tàng trữ, lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại cho an ninh công cộng (điều 3); tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự (điều 4). (130)

Sau đó, Nhu đọc diễn văn, yêu cầu Thanh Niên Cộng Hòa yểm trợ chính phủ. Vào khoảng 6G00 sáng, André Đôn điện thoại cho Tướng Harkins thông báo về lý do ban hành thiết quân luật. Theo André Đôn, Diệm cho lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Lệnh này chắc không kéo dài quá ngày bầu cử [Quốc Hội dự trù vào ngày 31/8/1963]. Đôn cũng tiết lộ mới chỉ sử dụng 1 tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài Gòn. Tuy nhiên, các đơn vị ven đô đều đặt trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện tại thủ đô cũng như Chợ-Lớn.

Cuộc đánh chiếm chùa và bắt giữ tăng ni, Phật tử xôn xao dư luận khắp nơi. Sinh viên, học sinh Huế xuống đường biểu tình dữ dội. Đường phố Đà Nẵng cũng rung chuyển khí thế đấu tranh và quyết tâm đánh dẹp biểu tình của nha trảo chế độ. Thục, rồi Nhu yêu cầu Linh mục Luận, lúc đó đang tạm trú ở Đà Nẵng, trở lại Huế giải quyết. Luận từ chối, dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp - chuyến tham quan Mỹ trong mùa Hè 1963 cho Luận nhận hiểu ngày tàn của chế độ đã điểm. (131)

Ngày 23/8, Sinh viên Y và Dược khoa Sài Gòn bắt đầu nhập cuộc, biểu tình đòi trả tự do cho các tăng ni, Phật tử. Cảnh sát đàn áp mạnh, bắt giữ nhiều người. Hôm sau, 24/8, Ngoại trưởng Mẫu từ chức, xuống tóc phản đối. Chương -cha vợ Nhu, đương kim Đại sứ tại Mỹ- cũng từ chức phản đối từ hai ngày trước. Sau đó, bị Diệm cách chức. Mẹ Lệ Xuân, Thân Thị Nam Trân, từ chức Quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Tối 27/8, hai vợ chồng Chương còn thúc dục Tướng Lansdale là Mỹ cần phải lật đổ ngay Diệm-Nhu, bằng không dân chúng sẽ trở thành chống Mỹ. Đích thân Nam Trân yêu cầu Lansdale qua ngay Sài Gòn, khuyên hai anh em Diệm rời nước. Nam Trân nhấn mạnh: "Dân chúng đã ghét họ, và họ không nên ở lại để chờ bị dân chúng giết. Họ chắc chắn sẽ bị giết nếu còn ở lại, và chẳng có ai trong Dinh [Gia Long] bảo thẳng với họ về cảm tưởng của dân chúng. Họ đã bị cách biệt hẳn với thực tế. Sau chín năm cầm quyền, tại sao họ còn muốn tiếp tục nếu toàn gia bị chết. Nước Mỹ đã bảo Syngman Rhee [Lý Thừa Vãn của Nam Hàn] rời nước [năm 1961]. Tại sao không làm như thế với Diệm và Nhu?" (132)

Dư luận Mỹ cực kỳ sôi nổi. Để bảo toàn bí mật, ngay sau nửa đêm 20/8, Nhu cho lệnh cắt đứt đường dây điện thoại tới Tòa Đại sứ Mỹ và tư gia các viên chức cao cấp Mỹ. Bởi thế, ngày 21/8, từ Trueheart tới Chánh sở CIA John H. Richardson đều không biết rõ chính Diệm đã cho lệnh, hay các Tướng lãnh đã làm đảo chính, đánh chiếm chùa chiền. Ngộ nhận các Tướng làm đảo chính, đài VOA và Bộ Ngoại Giao Mỹ nghiêm khắc qui trách cho quân đội. (133)

Đang dự hội nghị Honolulu với Lodge, Hilsman, Đô đốc Harry D. Felt, và tân Chủ tịch Ủy Ban Đặc Nhiệm Việt Nam tại Bộ Ngoại Giao Mỹ là Paul Kattenburg, Nolting gửi cho Diệm một công điện phản đối, trách móc Diệm: "Đây là lần đầu tiên ông không giữ lời hứa với tôi." (134)

Hôm sau, 22/8, Kennedy cho lệnh Lodge nhận nhiệm sở càng sớm càng tốt. Oat-shinh-tân còn biệt phái một chiếc phi cơ cho Lodge bay thẳng từ Tokyo tới Sài Gòn lúc 21G30 cùng ngày. Tới trước Lodge vài tiếng đồng hồ là một mật điện của Hilsman, chỉ thị cho Lodge phải tìm cách giảm quyền lực Nhu. (135)

Vì Ngoại trưởng Mẫu đã nghỉ phép ba tháng, lễ trình ủy nhiệm thư của Lodge phải tạm hoãn cho tới ngày Diệm bổ nhiệm một XLTV ngoại trưởng. (136)

Chỉ trong vòng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ, Lodge đã rõ sự thực. Hai nhân viên CIA Lucien "Lu" Conein và Rufus Phillips được André Đôn, Lê Văn Kim, Nguyễn Đình Thuần và Võ Văn Hải, Chánh văn phòng của Diệm, khẳng định rằng chính Nhu đã cầm đầu cuộc tấn công chùa chiền. (137)

Buổi nói chuyện giữa André Đôn và Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu khiến Lodge chú ý nhất. Đôn yêu cầu đài VOA cải chính là không phải quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công các chùa chiền, mà chính Cảnh sát đặc biệt của Nhu. Theo Đôn, khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong ngày 21/8. Vẫn theo Đôn, Nhu là "khối óc" [thinker] của Diệm; nhưng Diệm có quyền quyết định. Lệ Xuân hành xử như "vợ" [platonic wife] của Diệm. Diệm chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân lo chăm sóc Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói chuyện, giúp Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam nào, thống trị gia đình. Giữa Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục, vì Diệm chưa hề trải qua mùi vị nam nữ. Tình trạng giữa Diệm và Lệ Xuân, theo Đôn, giống như Hitler và Eva Braun. Đôn cũng tiết lộ rằng Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một trung sĩ làm vườn đã được Diệm cân nhắc lên hàng trung tá, trông coi dinh điền quân đội, nhờ đẹp trai. Theo Đôn, không thể tách rời Diệm với vợ chồng Nhu. Nếu phải chọn giữa Diệm và Nhu, Đôn muốn thấy Nhu ra đi. (138)

Tướng Lê Văn Kim, phụ tá báo chí của Đôn, tâm sự với Phillips, Giám đốc Phòng Cải Cách Điền Địa của cơ quan USOM, đặc trách Ấp Chiến Lược, là quân đội đã trở thành "tay sai" của Nhu. Chính Nhu đã bầy mưu để các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân luật. Và, 1426 tăng ni, Phật tử đã bị bắt giữ. Trong bữa điểm tâm tại tư dinh Nguyễn Đình Thuần ngày 24/8, Thuần cũng nói với Phillips rằng vợ chồng Nhu phải ra đi.

Theo Thuần, ngày hôm trước (23/8), Diệm đã viết thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng tuyên bố gì nữa. Diệm cũng đã chuyển cho Bénoit Trần Tử Oai và Tổng Giám Đốc Thông Tin [Toan] biết lệnh này. Theo Thuần, Mỹ đừng lo ngại việc mở cửa cho Cộng sản với cái giá phải yểm trợ một chính phủ có Nhu. Nếu Mỹ cả quyết, các Tướng lãnh sẽ hành động. (139)

Vị đắng của cảm giác bị anh em Diệm-Nhu"phản bội" và ý niệm vai trò Diệm đã mất đi sự tối thiết hoặc hữu dụng trong chiến lược của Mỹ khiến Lodge giữ thái độ xa cách với Dinh Gia Long.

Sách lược của Lodge là giai đoạn mềm mỏng dưới thời Nolting đã qua. Diệm phải tìm đến Lodge - như ngày nào Diệm đã phải tìm đến tu viện Maryknoll ở New Jersey và Oat-shinh-tân cầu viện trợ. Vì, thực ra Diệm cần Mỹ hơn Mỹ cần Diệm.

Chỉ có Tướng Harkins vẫn ủng hộ Diệm. Trong báo cáo ngày 22/8 về Oat-shinh-tân, Harkins đồng ý việc tấn công các chùa, vì muốn ổn định tình hình. Harkins cũng không tán thành việc đặt Đôn lên chức Tổng Tham Mưu trưởng, hay Đính nắm Quân đoàn III và Biệt Khu Thủ Đô, vì việc bổ nhậm này tạo cho phe đảo chính cơ hội nắm quyền dễ dàng. (140)

Tuy nhiên, phe Cố vấn ANQG Bundy cùng Harriman và Hilsman tại Bộ Ngoại Giao cảm thấy đã quá đủ với họ Ngô. Ngày cuối tuần 24/8, XLTV Ngoại trưởng George Ball bật đèn xanh cho Lodge tìm một giải pháp khác Diệm.

KẾT TỪ

Mùa Phật Đản 2507 (1963) đã đi vào lịch sử Phật giáo Việt Nam như một trong những trang bi hùng nhất. Bảy ngọn lửa cúng dường cho đạo pháp của tăng ni làm rúng động lương tâm nhân loại, ngoại trừ anh chị em nhà họ Ngô và nha trảo, trong "cơn điên cuồng tập thể của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng." (141)

Đây là lần đầu tiên Phật giáo đã vượt ra ngoài thế thụ động, "xuất thế" quen thuộc, đứng lên tranh đấu cho quyền tự do và bình đẳng tín ngưỡng của mình. So với đồng đạo ở phía Bắc vĩ tuyến 17, các lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã chứng tỏ một lòng vì đạo cao sâu hơn nhiều bậc. Họ đã giành đoạt được quyền tự do và bình đẳng tôn giáo bằng máu, nước mắt và mồ hôi, mà không chờ đợi, van vái ân sủng của nhà cầm quyền.

Cuộc tranh đấu của Phật giáo miền Nam trong năm 1963, qua những tài liệu văn khố hiện đã giải mật, nặng tính chất tôn giáo hơn chính trị. Mặc dù chế độ Diệm-Nhu-Thục đã cố tình diễn giải cuộc tranh đấu của Phật giáo dưới góc cạnh xấu xí nhất - như nặng mang tính chất chính trị hơn tôn giáo, có bàn tay Cộng Sản giật giây, có bàn tay ngoại cường (hiểu như người Mỹ), v.v... - mùa Phật Đản đẫm máu 1963 là cao điểm của phong trào duy tân Phật giáo Việt Nam từ thập niên 1920. Tính cách phi-chính-trị của cuộc tranh đấu khiến người Mỹ, đặc biệt là Cố vấn An ninh Quốc gia Bundy và Đại sứ Lodge ra sức tiếp trợ. Nói cách khác, cuộc tranh đấu của Phật giáo đã khơi động niềm cảm phục và thông cảm của các viên chức Mỹ và dư luận thế giới, nơi giáo hội và chính phủ đã hoàn toàn biệt phân, và tự do tín ngưỡng được coi như nhu cầu tối thiết, một quyền người cơ bản. Ngay đến đại diện Vatican ở Sài Gòn cũng phải cảnh cáo Diệm rằng việc đàn áp Phật giáo là một tội ác, làm giảm uy tín giáo hội Ki-tô.

Các tăng ni lãnh đạo phong trào tranh đấu không chỉ chứng tỏ tinh thần Bồ Tát đại dũng trước bạo lực, sẵn sàng dùng nhục thân bảo vệ Phật pháp, mà còn chứng tỏ một chiến thuật vận động đấu tranh tỉ mỉ, xuất sắc. Họ đã phối hợp giữa vận động quần chúng và các cơ quan truyền thông quốc tế để tạo nên những biến động thu hút dư luận và cảm tình của ngay những người chưa đủ khả năng tìm kiếm ra vị trí Việt Nam trên bản đồ thế giới.

Cuộc tranh đấu của Phật giáo hẳn có thể đã không xảy ra, hoặc giảm bớt cường độ và rút ngắn về thời gian, nếu nhà cầm quyền khéo léo kiểm soát và giảm thiểu những hậu quả tại hại. Nhưng chế độ Diệm-Thục-Nhu, giống như bất cứ một chế độ giáo phiệt tương tự nào, đã đánh giá thấp biên độ và khả năng phát triển của phong trào tranh đấu. Họ đã sử dụng nguyên vẹn những thủ thuật đã áp dụng đối với Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên của tám chín năm trước, khi người Mỹ can đảm hy sinh cả giao tình với nước Pháp để giữ Diệm ở lại chiếc ghế Thủ tướng. Nhưng hơn tám năm đã qua, hơn hai tỉ Mỹ kim đã đổ vào Việt Nam. Viễn ảnh có thể thua trận bắt đầu ám ảnh những chuyên viên về Việt Nam, mà Fishel, Mendendall hay Mansfield chỉ là ít nhân vật tiêu biểu. Dù rằng vẫn chưa có một con ngựa nào khá hơn Diệm xuất hiện, các viên chức Mỹ đã mất đi ảo tưởng về khả năng duy trì một miền Nam chống Cộng của họ Ngô. Đó là chưa nói đến mối bận tâm canh cánh bên lòng về âm mưu ve vãn Cộng Sản của anh em Diệm-Nhu trong mùa Xuân-Hè 1963, hoặc mối đại họa là bỗng một ngày nào đó Diệm-Nhu công khai đòi Mỹ triệt thoái khỏi Nam Việt Nam.

Cuộc tranh đấu của Phật giáo cũng bùng nổ trong một tình thế an ninh-quân sự đặc biệt. Từ năm 1962-1963, Bắc Kinh đã sốt sắng hơn trong việc sử dụng thanh nam, thanh nữ và tài nguyên Việt Nam, Lào, Miên - cùng cái gọi là học thuyết Mao về "chiến tranh giải phóng" - để gạt ảnh hưởng Mỹ khỏi ngưỡng cửa chiến lược Đông Nam. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã có cả lực lượng vũ trang lên tới cấp trung đoàn, và một hệ thống hành chính nông thôn, cùng tình báo tại các thành thị. Mặc dù không chính thức ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật giáo, Trung Ương Cục Miền Nam - mới được cải tổ vào cuối Hè 1961 - đã lợi dụng cơ hội gửi cán bộ tình báo chiến lược xâm nhập vào thành thị, khoét dần những lỗ hổng làm cơ sở tiềm sinh trong giới sinh viên, học sinh, tôn giáo. Cho đến một lúc, các lãnh đạo Phật giáo mới khám phá ra rằng chiến thắng của Phật giáo năm 1963 mới chỉ là chiến thắng phiến diện. Giai đoạn 1966-1968, khi Cố vấn An ninh Quốc gia Bundy đã rời chính quyền và Lodge cùng Ellsworth Bunker đã mất hết thiện cảm, các lãnh tụ Phật giáo sẽ tri nghiệm được rằng đừng nên trộn lẫn giữa tôn giáo và chính trị. ¡

CHÍNH ĐẠO

9/2003



PHỤ CHÚ:

1. CĐ số 9195, ngày 6/5/1963; KLTTƯ II, SC.04-HS.8352; Lê Cung, Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 (Huế: NXB Thuận Hóa, 2003), tr.131-132.

2. Xem, chẳng hạn, lời khai của Bénoit Trần Tử Oai, Bộ trưởng Thông tin, UN/GA Official Records, Agenda Item 77: "The violation of Human rights in South Vietnam;" Document A/5630, 7 Nov 1963, tr. 12. [Sẽ dẫn UNGA Doc. A/5630].

3. Tác giả luật hạn chế treo cờ này là Lâm Lễ Trinh, Bộ trưởng Nội vụ.

4. Xem, chẳng hạn, thư ngày 17/2/1962 của Wesley Fishel gửi Viện trưởng John A. Hannah của Đại học Tiểu bang Michigan (MSU); FRUS, 1961-1963, II:148-52; hay báo cáo của Đại sứ Roger Lalouette ngày 10/3/1962; Chính Đạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 248-250. Xem thêm chú 32 infra.

5. AMAE (Paris), CLV, SV, 17:70-73.

6. Xem Phụ Bản I, Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa, 1994); Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử (Sài Gòn: 1972), tr. 328. Đa số chi tiết dưới đây rút từ tài liệu Mỹ ngữ nói trên. Chúng tôi chỉ ghi chú những tài liệu khác nếu cần thiết.

7. Ngô Đình Dinh, cha Khả, theo đạo thờ cúng tổ tiên. Khả (1856-1914), cha Diệm, là người đầu tiên theo đạo Ki-tô, và hành nghề thông ngôn trong thời gian Pháp đánh chiếm Bắc và Trung Việt. Chức vụ cuối cùng của Khả là Đề đốc kinh thành vào cuối đời Thành Thái, và được hàm Thượng thư khi về hưu. Nhờ tước hàm Thượng thư này của Khả, năm 1917 Diệm được tập ấm chức cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư viện Huế, tức Musée Khải Định.

8. Theo báo cáo số 249-VP/M, đề ngày 10/5/1963, lúc 12 giờ trưa ngày 7/5/1963, Thị trưởng Đẳng gọi Trưởng ty Cảnh sát Huế tới tư dinh Ngô Đình Cẩn, cho lệnh sử dụng Mật vụ để áp lực dân chúng hạ cờ; KLTTƯ II, TNTP.167; Lê Cung, 2003:136.

9. UN Doc. A/5630, 7/12/1963:22, col2. Xem thêm Thích Trí Quang, "Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam: Giai đoạn phát khởi;" Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Điểm: 2003), tr. 91.

10. Ngày Thứ Hai, 16/9/1963, Lãnh sự Pháp ở Tourane báo cáo rằng theo Tướng Nghiêm chính sách bài Phật giáo chỉ là của Thục. Ngày 8/5, khi Nghiêm vào Sài Gòn gặp Diệm, Diệm cho lệnh phải thẳng tay với Phật giáo, và nhận lệnh từ Cẩn. Đại tá Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư đoàn 1, được lệnh "duy trì trật tự ở Huế." Sau đó được thăng cấp Tướng, thay Nghiêm nắm Vùng I. AMAE (Paris), CLV, SV, 17:70-73. Xem thêm Nguyễn Ngu Í, "Đại học Huế tranh đấu chống chế độ cũ qua hai giờ nói chuyện với Giáo sư Lê Tuyên;" Bách Khoa, số 171 (15/2/1964), tr. 37-47, và số 172 (1/3/1964), tr. 27-42.

11. US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 3, p. 5; CĐ số 5, 10/5/1963, Huế gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:284; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr.279-280.

12. Nguyên văn: Two of those killed, both children, died from being crushed by armored vehicles; Airgram A-20, 3/6/1963, Helble gửi Sài Gòn; FRUS, 1961-1963, III:277,n2.

13. Tháng 10/1963, Bénoit Trần Tử Oai khai với phái đoàn LHQ tìm sự thực về sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt Nam rằng Cộng Sản đã cho nổ hai trái mìn từ lực mà quân đội VNCH cũng như Mỹ không có [That night another more violent meeting took place at the Huê radio station. Communist elements took advantage of it to explode two plastic charges which caused the death of eight persons, including several children and a Catholic girl. (UN/GA Doc. A/5630, 1963, tr. 12, col.2) Ở một đoạn khác, Oai lập lại lời cáo buộc này [With regard to the charge that the Government had ordered the killing of the demonstrators by tanks, cannons, rifles and grenades, this was an absolute slander. According to the findings of the medical experts, all the wounds on the victims’ bodies were caused by the explosion of plastic charges, which are not used by the Army or the security forces of Vietnam, but only by Communists," (UN/GA Doc. A/5630, 1963:13col 2)]. Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lượng cũng cùng một luận điệu. ["I had concluded, according to the specialists in artillery and artificiers, whom we had consulted in Hue and Sai Gon, that it was probably bombs of plastic... that we had many bullets because the United States had given us many free, but we had no plastic; plastic is the arm of the Viet Cong guerilla." (A/5630, 1963:24, col 1)]. Tôi chưa được tham khảo bản án của Đặng Sỹ hoặc một tài liệu văn khố CSViệt Nam nào về việc này. Sỹ sau này bị kết án chung thân khổ sai, nhưng được Nguyễn Văn Thiệu ân xá vào năm 1966ù sau cuộc nổi dạy của dân quân miền Trung.

14. Theo Lượng, việc chống treo cờ chỉ là mặt nổi, và thực ra Trí Quang đã âm mưu chống chính quyền từ năm 1960, với sự xúi dục của Cộng Sản. Người cung cấp tin này là Đặng Ngọc Lựu, một cộng sự viên thân cận của Trí Quang. (Lời khai của Bùi Văn Lượng với Phái đoàn điều tra LHQ ngày 30/10/1963; UN/GA Doc. A/5630, 1963:22-23).

15. FRUS, 1961-1963, III:284-285.

16. Bản dịch Mỹ ngữ trong FRUS, 1961-1963, III:287-288.

17. CBVN, III:3 [19/8/1950]:434-437. Người soạn thảo luật này là Nguyễn Khắc Vệ, Tổng trưởng Tư Pháp của chính phủ Trần Văn Hữu. Bản dịch Anh ngữ Dụ số 10 ngày 6/8/1950 cùng hai tu chính ngày 19/12/1952 và 3/4/1954 trích in trong phần phụ bản XV của UNGA, Doc. A/5630, 7/12/1963:86-89.

18. Nguyễn Ngu Í 1964a:40-41.

19. FRUS, 1961-1963, III:288, n3.

20. Tâm Châu, Bạch Thư (Montréal: 1994), tr. 18. [Sẽ dẫn: Tâm Châu 1994]

21. Gồm Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy [Therevada] (chùa Kỳ Viên), Giáo Hội Thiền Định Đạo Tràng (chùa Phật Bửu), Giáo Hội Tăng Già Kampuchia, Hội Phật Học Nam Việt, Hội Phật giáo Bắc Việt tại miền Nam, Hội Phật giáo Nguyên Thủy, Hội Phật giáo Kampuchia, Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, Hội Phật giáo Trung Phần; Tâm Châu, 1994:17. Một nhân chứng khác khai UBLP/BVPG gồm 14 hội đoàn.

22. CĐ 1066, ngày 9/5/1963, BNG gửi Sài Gòn, FRUS, 1961-1963, III:283.

23. FRUS, 1961-1963, III:310.

24. Bộ Công Dân vụ được thành lập từ ngày phát động Kế hoạch chống Phản Loạn (CIP) để chống lại du kích Cộng Sản. Hậu thân của nó là Bộ Xây Dựng hay Phát triển Nông thôn.

25. FRUS, 1961-1963, III:309-310; Mẫu 2003:246-255.

26. Cho tới năm 2003, tại hải ngoại, vẫn còn người lập lại chuyện "mìn từ lực" nói trên.

27. FRUS, 1961-1963, III:311.

28. Đề nghị này Nolting đã trình về BNG ngày 18/5 và được Rusk chấp thuận ba ngày sau, 21/5; FRUS, 1961-1963, III:312,n3.

29. FRUS, 1961-1963, III:314. Sau này, Nhu còn phát minh ra lối giải thích "pain of growth" [sự đau đớn khi phát triển] của phong trào Phật giáo Việt Nam, một hiện tượng quen thuộc của các nước chậm tiến.

30. Gravel, II:226. Theo Trueheart, Diệm có vẻ "giận dữ" [quite agitated], và không muốn nghe theo lời khuyên của Mỹ; FRUS, 1961-1963, III:338.

31. CĐ 1136, 9/6/1963, Trueheart gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:368. Ngày 1/6/1963, Bộ Ngọai giao hỏi Trueheart rằng phải chăng các nạn nhân ở Huế tối 8/5/1963 đã bị Thiết vận xa M-113 cán chết. Ngày 5/6/1963, Trueheart báo cáo rằng chỉ sử dụng xe half-trucks của Bri-tên và Mỹ, Khám nghiệm tử thi, khó thể biết tại sao các nạn nhân bị chết. (Ibid., III:343n4)

32. Nguyên văn: The Buddhists (estimated at some ten million) have long been resentful of the mandarins of Hue and their ruling Catholic oligarchy; the Buddhists particularly resent a host of restrictions imposed on their religious freedom by President Diem. Most of Ngo Dinh Diem’s high Government officials, chiefs of provinces and military officers are Catholics, and most young army officers are convinced that they must be at least nominal Catholics if they wish to rise above the rank of captain. Diem apparently believes (and with some reason) that Catholics are more loyal to him personally and also more genuinely dedicated in their anti-Communism. Catholicism, therefore, seems to have become a kind of status symbol, as well as a prerequisite for advancement . . .

The Buddhists say that most Government supplies pass through Catholic hands and are distributed chiefly to Catholics. One American adviser has reported that Catholic battalion commanders in South Vietnam’s army get better equipment and heavier weapons than the non-Catholics. In the countryside, there are a number of villages where Christian priests are in control and maintain their own private armies. In the northern coastal region around Hue, small units of these troops, known as the ‘Bishop’s Boys’, are directly responsible to the Archbishop, and their primary mission is to protect churches and priests. They are armed with United Sattes weapons and trained at least in part by United States advisers.

Vast supplies of United States food relief (wheat, flour, rice, cooking oils) are distributed in South Vietnam through Catholic Relief Services to Catholic priests in the provinces. Some Viet-Namese are convinced that many of these supplies never reach the intended beneficiaries but find their way into the black market instead." A/5630:90.

33. NYT, 29/5/1963; FRUS, 1961-1963, III:335-336.

34. CĐ 1162, 30/5/1963, BNG gửi Sài Gòn; FRUS, 1961-1963, III:337n3.

35. FRUS, 1961-1963, IV:340-341.

36. FRUS, 1961-1963, III:343-347; A/5630.

37. FRUS, 1961-1963, III:348-349. Tướng Đôn báo cáo rằng đây là loại lựu đạn cay Pháp sử dụng trong Thế chiến thứ nhất (1914-1918).

38. FRUS, 1961-1963, III:349-352.

39. Xem Chính Đạo, "Phiến Cộng trong Dinh Gia Long;" Đi Tới (Montréal, Canada), số 73 & 74, 9-10/2003, tr. 46-77; Webside Giao Điểm (San Jose, CA), 8/2003.

40. FRUS, 1961-1963, III:356-358.

41. FRUS, 1961-1963, III:360.

42. FRUS, 1961-1963, III:359-360, 360-361. Tài liệu Mỹ không ghi rõ ai là "phần tử quá khích" trong Ủy Ban Tranh Đấu ở Huế. Sau này, mới xác nhận đó là những tăng ni thuộc nhóm "Phật giáo nhập thế," hay "tân tăng," mà những người dưới phố gọi là "sư hổ mang"- rượu chè, trai gái, ăn mặn. Vấn đề đặt ra là thực chăng họ xứng danh là tăng ni, hay chỉ những cá nhân muốn dùng Phật giáo để thỏa mãn những sân si, tư lợi thế tục?

43. Giáo sư Wulff, một chứng nhân của cuộc thảm sát 8/5 tại Huế, đã viết hồi ký về biến cố trên, và bạn ông chụp được nhiều hình ảnh tại nhà xác Huế. Các tài liệu này được nạp cho Liên Hiệp Quốc, khiến Liên Hiệp quốc quyết định mở cuộc điều tra.

44. FRUS, 1961-1963, III:367-368.

45. FRUS, 1961-1963, III:362n2.

46. Gravel, II:208; FRUS, 1961-1963, III:366-369.

47. Năm 1956-1957, một giáo sư Pháp văn trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng, Hồ Vinh, từng bị tra tấn đến chết trong nhà lao Thừa Phủ (Huế) vì tình nghi là Cộng Sản nằm vùng. Nguyễn Đăng Ngọc, hiệu trưởng, sau đó đích thân đến các lớp đọc bức công điện mật, loan tin Giáo sư Vinh đã "tự tử" trong nhà giam. Xem thêm lời khai của Dương Văn Hiếu, trùm đặc vụ miền Trung của Ngô Đình Cẩn, và bản án của Ngô Đình Cẩn ngày 22/4/1964 về những cuộc thủ tiêu và thảm sát những người bị vu cáo là Cộng Sản khác, như Nguyễn Văn Yến, v.v...

48. CĐ 1194, 8/6/1963 & 1196, 8/6/1963, Bộ ngoại giao gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:363-364, 364-366. Trong số các đề nghị, Bộ ngoại giao yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa:

"Ít nữa cũng tạm thời ít nhắc đến thuyết Nhân Vị trước công chúng và tuyên truyền của chính phủ vì đám đông đồng hóa Nhân Vị với Ki-tô giáo; bổ nhiệm các tuyên úy Phật giáo; thành lập một Hội Đồng Tôn Giáo Quốc Gia, vài tăng hay lãnh tụ Phật tử ứng cử trong cuộc tranh cử vào Quốc Hội tháng 8/1963, và cho họ đắc cử [at least temporarily playdown Personalism in public pronouncements and GVN propaganda because of popular identification Personalism with Catholicism; appoint Buddhist chaplains; create National Religious Council, permit several monks or lay Buddhist leaders run for and win seats in August National Assembly elections [NVN: two monk representatives; Ibid., III:364-365. Trong báo cáo về Oat-shinh-tân, Trueheart nói không có ý định gặp Diệm, vì Thuần đã đạt được một số tiến bộ. BNG Mỹ đồng ý.

49. FRUS, 1961-1963, III:369-371.

50. FRUS, 1961-1963, III:371-373.

51. FRUS, 1961-1963, III:374.

52. FRUS, 1961-1963, III:375-376.

53. FRUS, 1961-1963, III:376-378.

54. FRUS, 1961-1963, III:376-378. Trueheart cũng lưu ý Thuần về kháng thư của PTPNLĐ đăng trên Times of Vietnam sáng đó để phản đối hãng UPI khi gửi đi bản tin của Sheehan; và cảnh cáo rằng nếu đây là bước đầu tiên để trục xuất Sheehan thì là một điều "ngu xuẩn" (stupid).

55. Mẫu, 2003:277.

56. NYT, 12/6/1963.

57. Nguyên văn: "If Diem does not take prompt and effective steps to reestablish Buddhist confidence in him we will have to reexamine our entire relationship with his regime;" CĐ 1207, 11/6/1963, BNG gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:383.

58. FRUS, 1961-1963, III:385-387. Theo một tài liệu Bạch Cung ngày 14/6/1963, Kennedy không biết gì về lời đe dọa giải kết ["disassociation"] này. Kennedy nhấn mạnh rằng đây là lần chót và từ nay bất cứ một lời đe dọa chính thức nào cần được sự phê chuẩn của chính Kennedy. Ibid., III:386-387.

59. Tâm Châu 1994:19; FRUS, 1961-1963, III:384.

60. FRUS, 1961-1963, III:387-389. Theo Thuần, Phật giáo đã sử đổi đôi chút các đòi hỏi, nhưng Trueheart nhấn mạnh nên bỏ các tiểu tiết để đạt ngay thỏa ước.

61. FRUS, 1961-1963, III:391.

62. Tâm Châu, 1994:41-4; Gravel, II:226-7; FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 177, 178, 179.

63. NYT, 16/6/1963; III:396-397.

64. NYT, 17/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:396-397. Theo bản tin AP ngày 17/6, đây là cuộc biểu tình chống chính phủ bạo động nhất từ nhiều năm qua; Ibid., III:397n3.

65. Lãnh đạo hệ phái này cho rằng họ là hệ phái lâu đời nhất tại Việt Nam, với hai triệu Phật tử. Mãi tới năm 1964, Cổ Sơn Môn mới gia nhập Giáo Hội Phật giáo Thống Nhất.

66. Xem Mẫu, 2003:302-304.

67. Ibid., tr. 307-313. Theo Ngô Đình Nhu, TNCH lên tới 1.5 triệu đoàn viên; Ibid., tr.300, 304, 310.

68. FRUS, 1961-1963, III:401. Gene Gregory từng quen biết Diệm từ thập niên 1950.

69. FRUS, 1961-1963, III, tr. 409-410.

70. Nguyên văn bản dịch tiếng Pháp: "Un bon catholique, en vertu même de la doctrine catholique, est le meilleur des citoyens, attaché à sa patrie, loyalement soumis à l'autorité civile établie, sous n'importe quelle légitime de gouvernement." Ainsi s'explique Pie XI dans l’encyclique illius Magistri du 31 décembre 1929."

71. Nolting, From Trust to Tragedy: The Political Memoirs of Frederick Nolting [Từ tin cậy tới thảm kịch: Hồi ký chính trị của Frederick Nolting] (New York: Preager, 1988), tr.115-116. Lập luận của Nolting giống hệt tuyên cáo của chính phủ Diệm ngày 21/8/1963 -"lợi dụng tín ngưỡng cho mục đích chính trị."

72. CĐ 1219, 14/6/1963, BNG gửi Đại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:394-395. Kế hoạch này đã được Charles Ben Wood, người phụ trách Phòng Đông Dương, soạn thảo từ tháng 5/1963, chuyển về Oat-shinh-tân ngày 23/5/1963, và được Bạch Cung chấp thuận ngày 6/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 133. Ngày 16/6, Sài Gòn mới nhận được lệnh này.

73. Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 296, 298.

74. FRUS, 1961-1963, III:400-401.

75. FRUS, 1961-1963, III:402-404.

76. FRUS, 1961-1963, III:392.

77. Max Frankel, "US Warns South Viet-Nam on Demands of Buddhists" [Mỹ cảnh giác Nam Việt-Nam về những đòi hỏi của Phật tử]; NYT, 15/6/1963. Tài liệu BNG ghi là ngày 14/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:393. Thông báo cho Trueheart tin này, BNG chỉ thị Trueaheart nói với Diệm rằng chính phủ Mỹ vẫn yểm trợ Diệm; tuy nhiên tạm thời không đề cập đến bài báo trên NYT.

78. FRUS, 1961-1963, III:392.

79. CĐ số 1250 gửi Sài Gòn, DOS, Central Files, PER-Lodge, Henry Cabot)ù. (Ngày 22/6, Trueheart báo cáo là Diệm đồng ý tiếp Trueheart vào chiều ngày 22/6. (CĐ số 1230 từ Sài Gòn; Ibid)

80. FRUS, 1961-1963, III:414. Diệm khẳng định với Trueheart là sẽ tôn trọng những điều thỏa thuận với Phật giáo; phủ nhận không có việc Nhu sử dụng Thanh Niên Cộng Hoà để chống lại Phật giáo; nhưng không đề cập gì đến Bạch thư của Lệ Xuân. Về Cổ Sơn Môn, Diệm nói họ có quyền tự do họp Đại Hội và bày tỏ ý kiến. Việc phóng thích những người tham dự biểu tình, Diệm nói cần thanh lọc; nếu họ không Cộng sản sẽ được phóng thích. Tóm lại, chính Diệm tách dần khỏi những lời cố vấn của Mỹ. (FRUS, 1961-1963, III:411-413.)

81. Ibid.

82. CĐ 1271, 26/6/1963, Ball gửi Đại sứ VN; FRUS, 1961-1963, III:415-416.

83. FRUS, 1961-1963, III:427-428.

84. FRUS, 1961-1963, III:426n3.

85. FRUS, 1961-1963, III:429-431; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 304-305.

Tại Mỹ, Kennedy và các cố vấn theo dõi những biến chuyển ở Sài Gòn với mắt nhìn bi quan. Phản ứng tại nội địa Mỹ cũng chẳng có gì đáng lạc quan. Ngày 27/6, báo New York Times đăng bài cậy đăng nguyên một trang của 12 lãnh tụ Tin lành Mỹ, kể cả Reinhold Niebuhr và James Pike, yêu cầu Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam.

Bài cậy đăng trên có cả hình Quảng Đức tự thiêu của Browne. Chỉ còn vài ký giả ủng hộ Diệm trên những tờ báo mà Giáo Hội Ki-tô Mỹ có ảnh hưởng. Quyết định bổ nhiệm Lodge cũng tạo nên những tia lửa điện trong chính giới và hàng ngũ Tướng tá Việt Nam. Lodge, một lãnh tụ đảng Cộng Hoà từng đứng phó trong liên danh Richard M. Nixon năm 1960, nổi danh là "vua đảo chính." Bởi thế, các mưu toan đảo chính Diệm bắt đầu rộn rịp tại Sài Gòn. Tin đồn đảo chính loan truyền rộng rãi. Cuối tháng 6/1963, cơ quan CIA đã thiết lập được danh sách các nhóm có ý làm đảo chính. Đáng kể nhất trong số này có nhóm "Bác sĩ" Trần Kim Tuyến. Tuyến mới mất chức Giám đốc cơ quan Mật Vụ, và đang chờ đi ngoại quốc. Quanh Tuyến có một số nhân viên Bộ Công Dân Vụ của Ngô Trọng Hiếu, Bộ Thông Tin, Mật Vụ, và một số sĩ quan trẻ. Nhóm khác do Huỳnh Văn Lang và trung tá [Albert] Thảo, Thanh tra Ấp Chiến Lược, chủ trương.

Nhóm này gồm hầu hết cựu đảng viên của hệ Cần Lao "Liên kỳ Nam-Bắc Việt" do Lang thiết lập tại miền Nam, kể cả Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên quân. Từ ngày 30/5, đã có tin đồn Trần Kim Tuyến và Albert Thảo mưu làm đảo chính. [Tuyến bị thất sủng; sau đó bị gửi qua Morocco [Ma Rốc] và Cộng Hòa Arab, nhưng hai xứ này không nhận]. Hai nhóm Tuyến và Thảo, phần đông là Ki-tô giáo, không muốn thấy "thiên mệnh Mỹ" rơi vào tay Phật giáo. (Theo tình báo Mỹ, Tuyến được sự yểm trợ của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Hoà thượng Thích Tâm Châu, Thích Thiện Minh, Tướng Dương Văn Minh và Tôn Thất Đính. Lãnh tụ của nhóm Tuyến có lẽ là Nguyễn Ngọc Thơ; FRUS, 1961-1963, III:474). Nhưng mạnh nhất, và được Mỹ tin cậy nhất, là nhóm các Tướng do [André] Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, đại diện. Từ tháng 6/1963, André Đôn và em rể là Lê Văn Kim đã xin Nolting cho làm đảo chính, nhưng bị Nolting nghiêm khắc trách mắng: "Đừng cho tôi mấy thứ làm loạn và yểm trợ nổi loạn. Tại sao mấy ông không lo làm trọn nhiệm vụ của các quân nhân? Nước Mỹ không dính líu vào vấn đề đảo chính". (Nolting, 1988:126).

Ngày 8/7, André Đôn nói với một nhân viên CIA là nhóm mình được đa số cấp chỉ huy ủng hộ, ngoại trừ Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh QĐ IV, và Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh QĐ III. (Gravel, II:236; FRUS, 1961-1963, III:474; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 307). Nhưng khuôn mặt mà chế độ gờm sợ nhất vẫn là Trung tướng Dương Văn "Big" Minh (1916-2001). Tướng Minh, một thời được ca tụng như "Anh hùng Rừng Sác," đang là một Tướng không có quân, vô quyền lực với chức vụ Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống từ ngày 8/12/1962. Không ai rõ tại sao Tướng Minh bỗng dưng bị thất sủng. Người nêu lý do Minh đã dấu đi một phuy vàng tịch thu được trong chiến dịch truy lùng Bình Xuyên. Người suy diễn rằng Diệm không tin Minh, một Tướng ngoại đạo, do Pháp đào tạo, lại có em trai theo Việt Minh. Thêm vào đó, một số quan Tướng Mỹ, kể cả Lansdale, không ưa "Big" Minh. Ngày 27/12/1961, chẳng hạn, Lansdale phản đối việc cử "Big" Minh nắm giữ quân đội vì, theo Lansdale, Minh từng công khai nói về ý định đảo chính Diệm. (US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 11, tr. 427).

Cách nào đi nữa, "Big" Minh từng mưu định ám sát Nhu, nhưng phải bỏ dở. Trong số đồng minh "tự nhiên" của "Big" Minh có Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, các sĩ quan gốc miền Nam và một số đảng viên Đại Việt thời cơ như Đặng Văn Sung và Bùi Diễm.

86. FRUS, 1961-1963, III:433n2.

87. FRUS, 1961-1963, III:441-443.

88. FRUS, 1961-1963, III:443-444.

89. FRUS, 1962-1963, III:445-447.

90. FRUS, 1962-1963, III:449-450.

91. Thời thực dân Pháp, cái mũ "Cộng Sản" đồng nghĩa với "phản loạn." Nhưng hiện tượng chụp mũ "Cộng Sản" cho người khác ý kiến hoặc mình không ưa này còn phát triển rộng rãi hơn, vì quốc sách miền Nam là "chống Cộng." Tàn tích của thói quen "Tố Cộng" này được bảo quản tốt đẹp ở hải ngoại.

92. FRUS, 1962-1963, III:451-453.

93. Ngày hôm sau, Browne và Arnett bị truy tố về tội hành hung. BNG Mỹ chỉ thị Trueheart can thiệp để bỏ lệnh truy tố. Thoạt tiên, Diệm không đồng ý. Mãi tới ngày 17/7 mới thuận. FRUS, 1962-1963, III: 470-472.

94. Gravel, II:729-33; US-Vietnam Relations, Bk 12:534; FRUS, 1962-1963, III:483-485.

95. Nolting 1988:113.

96. Nguyên văn: "He is hurt by what he considers misrepresentations and calumnies (both in Vietnam and outside), torn by conflicting advise, resentful of US pressure, and not completely in control of his government’s actions (Nhus). He is, in brief, in a martyr’s mood himself." CĐ 85, ngày 15/7/1963, Nolting gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:487.

97. Khán giả và công an, mật vụ khoảng 500 người. Khoảng 11G45, đoàn biểu tình kéo về chùa Xá Lợi, tuyên bố sẽ tuyệt thực 48 giờ. FRUS, 1961-1963, Tài liệu 221; Tâm Châu, 1994:19. Ngày 9/7/1963, Tâm Châu đã viết thư cho Đại sứ Mỹ, yêu cầu Mỹ cho quân bảo vệ chùa Xá Lợi vì đang có dấu hiệu Diệm-Nhu sẽ đánh chùa. Ibid., III:478-479.

98. Mẫu, 2003:353.

99. Mẫu, 2003:354-360.

100. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 234.

101. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 237.

102. Theo Vũ Văn Mẫu, các thương phế binh này đều là phế binh giả; Mẫu, 2003:313-314. Ngày 24/7/1963, Nguyễn Đình Thuần cho Nolting biết Trung tá Chiêu đã bị phạt kỷ luật.

103. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 198, 200.

104. Hội còn đại diện chế độ qua New York trình bày với Tổng thư Ký LHQ về cuộc tranh đấu của Phật giáo vào tháng 10/1963. Tưởng cũng nên ghi nhận, Hội chỉ bênh vực Nhu, và đồng ý bắt Thục cũng như Lệ Xuân phải rời nước để trấn an dư luận.

105. Newsweek, 9/8/1963; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 314.

106. Ngày 11/8, Thuần báo cáo với Nolting là Lệ Xuân giao cho Khiêm tổ chức một lực lượng Mật vụ riêng; nhưng Nhu phủ nhận. Ngày Thứ Bảy, 31/8, khi được ký giả người Úc, Denis Warner, phỏng vấn, Khiêm cho Warner coi một danh sách các viên chức mà Khiêm định ám sát. Theo CIA, Chương, cha Khiêm và Lệ Xuân, coi Khiêm như "bất lực, tham nhũng và hèn nhát;" FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68.

107. Ngày 5/8, báo NYT đăng lại tin này; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 312.

108. Mẫu, 2003:344-346.

109. Mẫu, 2003:343-344.

110. "Phụ bản II;" Chính Đạo, Tôn Giáo & Chính trị, 1994:334-335.

111. Nolting 1988:117.

112. Trong báo cáo ngày 10/8, Nolting cho biết rằng những người như Thơ, Thuần, Nhu, Mẫu, Bửu Hội v.v... đưa ra giải pháp sau: Lệ Xuân đi "nghỉ dài hạn," như ở Roma; Tổng Giám Mục Thục sẽ được thăng cấp [về Roma]. Thuần còn mật báo rằng các Bộ trưởng đều đồng ý đã đến giờ thứ 11 của Diệm. Lệ Xuân cùng em ruột là Trần Văn Khiêm tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. Chắc chắn Nhu cũng biết việc này.

113. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 252; Chính Đạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 315.

114. Nolting, 1988:119.

115. NYHT, 15/8/1963; Nolting 1988:118.

116. Ngày 9/8/1963, trong phiếu trình lên Kennedy về vợ chồng Nhu, Michael Forrestal tiết lộ Miên, Ceylon [Sri Lanka], và Nepal đã đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Có thể sẽ họp Đại Hội Đồng LHQ.

117. Nguyễn Ngu Í, 1964a:42-43.

118. Nguyễn Ngu Í 1964a:43.

119. Nguyễn Ngu Í 1964a:43-44.

120. Nguyễn Ngu í 1964b:28.

121. Nguyễn Ngu Í 1964a:46; Idem, 1964b:28

122. Phạm Trọng Nhân, "Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi," Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 34. [Sẽ dẫn: Nhân 1964a]

123. Mẫu, 2003:377-379.

124. Nguyễn Ngu Í 1964a:33.

125. Nguyễn Ngu Í 1964b:35-36. Theo Mẫu, Thế đã lẻn về Sài Gòn, xin cho trở lại nhiệm sở cũ. Ngày 19/8,õ Mẫu ký giấy cho Thế ra đi; Mẫu, 2003:218-221, 387.

126. Theo tờ trình của Tôn Thất Đính ngày 22/8/1963, phía Tăng ni không có ai bị thương; phía công lực, 20 người bị thương. Tại Sài Gòn, 389 sư ni, 106 Phật tử và 133 học sinh bị bắt giữ. Phiếu Đệ Trình số 0289/QĐIII/VPTL, ngày 22/8/1963, Tôn Thất Đính kính đệ Tổng thống; TTLTTƯ II, TM-HS.209. Dẫn trong Lê Cung, 2003:312-316.

127. Nguyễn Ngu Í 1964b:37-44.

128. Gravel, II:232; Tâm Châu 1994:19.

128. Nhân, "Cuốn sổ tay;" Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31); Mẫu, 2003:390-398. Riêng tại Sài Gòn, số tăng ni Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người.

129. Nhân 1964a:35-36; Mẫu, 2003:399-418.

130. KLTTƯ II, SC.04-HS.8466; dẫn trong Lê Cung, 2003:311.

131. Cao Văn Luận 1972:352-386.

132. Nguyên văn: "You must go to Saigon fast and tell Diem and the Nhu’s to leave the country now. The people hate them and they shouldn’t stay for the people to kill them. They will surely be killed if they stay, and nobody at the Palace now is telling them how the people really feel. They are cut off from reality. Why do they need power, after nine years of it, if the family is killed? The US told Synman Rhee to leave. Why not Diem and Nhu?" JFK Library, NSF Country File, Vietnam; FRUS, 1961-1963, III: 666; William C. Gibbons, The US. Government and the Vietnam War, 3 vols (Princeton, NJ: Princeton Univ Press, 1993), II:155.

133. Từ ngày 11/7/1963, cơ quan an ninh Mỹ đã ghi nhận có dấu hiệu là các sĩ quan cao cấp và ngay chính Nhu đang âm mưu đảo chính. Trong hai buổi tiếp xúc với "khoảng 14 Tướng," kể cả tân Thiếu tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh QĐ I, Nhu tuyên bố có thể có một cuộc đảo chính nếu Diệm trở thành "nô bộc" của Mỹ [if he believed the government, meaning Diem, was becoming servile to the United States, he himself would lead a coup d’Etat]. Ngày 25/6, chính Nhu cũng nói với một quan sát viên Mỹ như trên. FRUS, 1961-1963, III:490-491. Ngày 13/7, cơ quan CIA báo cáo Đôn tự nhận nằm trong một nhóm âm mưu đảo chính; Ibid., III:491. Ngày 15/7, một cá nhân thuộc nhóm Trần Kim Tuyến tuyên bố sắp có đảo chính, nhưng không trước ngày 20/7. Ngày 16/7, Big Minh nghĩ cần phải có sự thay đổi chính phủ; Ibid., III:491n8.

134. Nolting, 1988:121.

135. FRUS, 1961-1963, III:605.

136. Nhân 1963a:37-39.

137. Gravel, II:234.

138. FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 275; Chính Đạo, VNNB, IC: 1961-1963, tr. 208, 322-323. Trong hồi ký của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, cũng tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là "một mụ phù thủy." Theo cựu đại tá Phạm Văn Liễu, năm 1954, đài phát thanh Quân Đội Quốc Gia đã phát thanh hầu như mỗi ngày một câu đồng dao: "Nực cười cho họ Ngô Đình, Trai không có vợ, mượn tình em dâu." Trai không có vợ ám chỉ Ngô Đình Diệm, và "em dâu" là Lệ Xuân; Trả Ta Sông Núi (Houston: Văn Hóa, 2001), tập I, tr. 310.

139. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 273.

140. FRUS, 1961-1963, III:607-610.

141. FRUS, 1961-1964, IV:175.



Tạp chí Đi Tới 75 & 76

Montréal, Canada, tháng 11 & 12-2003

No comments:

Post a Comment